I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Môn Tiếng việt ở Tiểu học là một trong những môn học có vị trí vô cùng
quan trọng, được chia thành nhiều phân môn. Mỗi phân môn đều có mục đích
riêng, yêu cầu riêng của nó, song đều có một điểm chung là hình thành và phát
triển 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thông qua hoạt động giao tiếp cho học sinh.
Riêng phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong dạy học Tiếng việt.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn
bản. Nhờ vậy Tiếng việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng
phần từng mặt, qua từng phân môn mà trở thành công cụ sinh động trong quá
trình giao tiếp, tư duy và học tập.
Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu
quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng việt trong đời sống khoa học,
trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học. Tập làm văn là thước đo đánh giá
kết quả học tập và giảng dạy các phân môn khác.
Để làm được một bài văn hay theo đúng nghĩa là một văn bản sản sinh, một
phong cách có sáng tạo là rất khó. Học sinh phải nắm chắc các kiến thức về thể
loại, hệ thống các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, kiểu bài,... Đặc biệt là
phải có khả năng tư duy và kĩ năng diễn đạt tương đối tốt. Nhưng thực trạng làm
văn miêu tả hiện nay, bên cạnh nhiều điểm tốt mang lại những kết quả nhất định
vẫn còn khá nhiều khuyết điểm và nhược điểm. Khuyết điểm lớn nhất, dễ nhận
thấy nhất là bệnh công thức, khuôn sáo máy móc, thiếu chân thực, vay mượn
tình ý của người khác. Học sinh thường sẵn sàng học thuộc một bài văn mẫu,
một đoạn văn mẫu, một câu văn mẫu. Khi làm bài, các em sao chép nó ra và
biến nó thành bài làm của mình. Với cách làm bài đó, các em không cần biết đến
đối tượng miêu tả, không hề quan sát và không có cảm xúc gì về chúng cả.
Mặt khác, bài viết của học sinh miêu tả một cách chung chung, hời hợt, không
có sắc thái riêng biệt nào của đối tượng được tả... Vì thế bài văn đó đem gán
cho đối tượng miêu tả nào cùng loại đều được, thay đổi họ tên của người làm
bài đi thì dùng cho học sinh nào cũng thế. Một bài văn miêu tả như vậy đọc lên
thấy nhạt nhạt, mờ mờ.
Trước thực trạng trên, rõ ràng vấn đề đặt ra đối với chúng ta là: Cần làm thế
nào để giúp học sinh cải thiện chất lượng viết bài văn miêu tả? Bản thân tôi là
một giáo viên dạy lớp 5, tôi đã suy nghĩ tìm tòi và cải tiến biện pháp dạy học
phân môn Tập làm văn để khắc phục tình trạng đó. Chính vì thế tôi đã mạnh dạn
đưa ra “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả ” với
mong muốn chất lượng phân môn Tập làm văn và chất lượng môn Tiếng việt
được nâng lên.
2. Mục đích nghiên cứu.
Để khắc phục tình trạng dạy - học văn miêu tả như đã nêu trên, sáng kiến
kinh nghiệm này nhằm tạo ra cách dạy học văn miêu tả mới, chống lối dạy theo
điệu "sáo", giúp học sinh rèn luyện phương pháp tìm tòi, vận dụng kiến thức,
phát triển tư duy và rèn kĩ năng diễn đạt. Từ đó các em có thể viết văn miêu tả
1
theo yêu cầu kiến thức, kĩ năng của chương trình, sách giáo khoa.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Để nội dung sáng kiến kinh nghiệm được sát thực và có hiệu quả, tôi đã tiến
hành nghiên cứu, giải quyết các nội dung sau:
Một là: Thể loại miêu tả đồ vật
Đối tượng của văn miêu tả đồ vật là những vật học sinh thường thấy trong
đời sống hằng ngày, gần gũi với các em. Mỗi đồ vật có hình dáng, chất liệu, màu
sắc, kích thước… khác nhau. Học sinh cần miêu tả được những đặc điểm này
trong bài viết của mình.
Hai là: Thể loại miêu tả cây cối.
Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây cối trồng ở xung quanh cuộc
sống sinh hoạt của học sinh. Đó có thể là cây bóng mát, cây hoa hay cây ăn
quả…Chúng là những cây có ích và gần gũi với các em. Mỗi loại cây có một
hình dáng và đặc điểm khác nhau, một ích lợi nhất định. Vì vậy, khi miêu tả
chúng, các em phải làm nổi bật các đặc điểm này.
Ba là: Thể loại miêu tả loài vật.
Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc, gần gũi với
học sinh. Đó là những anh chào mào, chị chim sâu, bác ngan, cô gà mái … Mỗi
con vật đều có những đặc điểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. vì vậy
khi miêu tả, không nên miêu tả cái chung mà bỏ qua những nét tiêu biểu của loài
vật như màu sắc, vóc dáng, tính nết.
Bốn là: Thể loại miêu tả cảnh vật.
Đối tượng của bài văn tả cảnh vật là những cảnh vật quen thuộc xung quanh
các em: một dòng sông, một cánh đồng, một góc phố, những di tích lịch sử,
những danh lam thắng cảnh ở khắp mọi miền trên đất nước ta. Mỗi cảnh đều
nằm trong một không gian. Đó là cái nền cho cảnh vật được miêu tả. Khi tả, cần
nêu được cảnh chung này. Nhưng đặc biệt cần tập trung tả nét tiêu biểu của cảnh
làm cho cảnh đó khác với cảnh khác.
Năm là: Thể loại miêu tả người.
Bài văn tả người trong chương trình tiểu học thường lấy đối tượng miêu tả
là những người thân quen, những gương tốt gần gũi, thân thuộc và để lại nhiều
ấn tượng cho các em. Để tả người, trước hết các em phải quan tâm, tập trung vào
quan sát trực tiếp người định tả. Khi viết bài cần nhớ lại những gì đã quan sát về
người đó. Khi quan sát, phải hình thành những nhận xét, về người định tả. Quan
sát, tìm ý phải gắn với tìm lời.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện nội dung của sáng kiến, tôi đã sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
2
II/ NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
a. Văn miêu tả là gì?
Trong chương trình Tập làm văn lớp 5, thời lượng cơ bản dành cho văn miêu
tả, gồm: Miêu tả đồ vật, miêu tả con vật, miêu tả cảnh vật và tả người.
Vậy miêu tả là gì? - “Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của
con người, sự vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng
ấy”.
b. Đặc trưng của văn miêu tả.
*/ Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mĩ chứa đựng tình cảm của người viết
Dù là tả một con gà, một cây bàng chuyển sắc lá mùa đông hay một cánh
đồng lúa chín... Bao giờ người viết cũng đánh giá chúng theo một quan điểm
thẩm mĩ, cũng gửi vào bài viết quan điểm đánh giá, bình luận của mình. Do vậy
từng chi tiết trong bài văn miêu tả đều mang ấn tượng cảm xúc chủ quan. Đặc
điểm này làm cho miêu tả trong văn học khác với miêu tả trong các văn phong
khoa học khác.
*/ Văn miêu tả có tính sinh động và tạo hình.
Như ta đã biết, chất lượng bài văn miêu tả là nói ít gợi nhiều. Chi tiết nêu ra
không cần nhiều nhưng phải dẫn người đọc đến cảm giác cảm xúc nhất định,
dẫn đến những hình ảnh sinh động giúp người đọc “nhìn rõ” và có ấn tượng với
đối tượng miêu tả trong bài. Đương nhiên cảm xúc đó, hình ảnh sắc nét đó phải
thể hiện được lí tưởng thẩm mĩ của thời đại, phải hướng tới cái Chân - Thiện Mĩ, nâng cao tâm hồn và nhân cách con người.
*/ Ngôn ngữ miêu tả có tính cụ thể.
Sự cụ thể hóa nghệ thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các
phương tiện ngôn ngữ. Dùng từ ngữ này thay cho từ ngữ có nghĩa khái quát là
một cách tiêu biểu nhất để tạo hình tượng cụ thể, tác động vào trí tưởng tượng
của người đọc. Sự cụ thể hóa nghệ thuật có thể đạt được một phương thức đặc
biệt gọi là “sự dẫn dắt bằng động từ”. Người viết văn gọi tên từng động tác, từng
giai đoạn biến đổi của trạng thái. Kết quả là nhiều động từ được sử dụng trong
một đoạn văn miêu tả có tác dụng khuyến khích trí tưởng tượng của người đọc.
c. Các kĩ năng làm văn miêu tả.
Trong quá trình dạy học văn miêu tả, việc rèn các kĩ năng cho học sinh là vô
cùng cần thiết. Nó góp phần lớn trong việc quyết định chất lượng bài làm của
học sinh. Các kĩ năng bao gồm:
- Kĩ năng phân tích, xác định yêu cầu của đề bài.
- Kĩ năng quan sát, tìm ý, sắp xếp ý.
- Kĩ năng dựa vào dàn ý để nói (viết) thành đoạn văn (bài văn).
- Kĩ năng kiểm tra và hoàn thiện.
Trên đây là những vấn đề lí luận làm cơ sở để “Giúp học sinh lớp 5 học tốt
văn miêu tả ”. Từ cơ sở đó, người giáo viên sẽ xây dựng các tiết dạy học tập
làm văn ở lớp 5 một cách khoa học, phù hợp và đạt hiệu quả giờ dạy cao hơn.
2. Thực trạng của việc dạy và học Tập làm văn miêu tả lớp 5.
3
2.1. Về phía giáo viên.
Qua dự giờ các tiết Tập làm văn, tôi nhận thấy giáo viên có những ưu,
nhược điểm như sau:
* Ưu điểm:
- Giáo viên đã chú ý trang bị những kiến thức về văn miêu tả cho học sinh. Đó là
một số hiểu biết ban đầu về đặc điểm chính của văn miêu tả như: Thế nào là văn
miêu tả; Quan sát để miêu tả thêm sinh động; Trình tự miêu tả; Cấu tạo đoạn
văn, bài văn miêu tả.
- Giáo viên đã thực hiện rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh trên cơ
sở quy trình sản sinh ngôn bản mà chương trình yêu cầu. Đó là:
+ Kĩ năng định hướng văn bản ( nhận diện văn bản miêu tả, phân tích đề văn
miêu tả).
+ Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý ( xác định dàn ý của bài văn miêu tả đã cho, quan
sát đối tượng, tìm và sắp xếp thành dàn ý trong bài văn miêu tả).
+ Kĩ năng kiểm tra, sửa chữa văn bản ( đối chiếu văn bản miêu tả nói - viết của
bản thân với mục đích và yêu cầu diễn đạt, sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn
đạt).
* Nhược điểm:
Bên cạnh những mặt tích cực mà mỗi giáo viên đã nỗ lực cố gắng và có kết
quả tốt trong dạy học thì nhiều giáo viên vẫn còn có một số biểu hiện hạn chế.
Những hạn chế đó là:
- Một số giáo viên còn nặng về việc giới thiệu các hiểu biết về lí thuyết thể văn,
việc hình thành kĩ năng làm bài chủ yếu là qua phân tích các bài văn mẫu.
- Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo “chất lượng” khi kiểm
tra thi cử,... nhiều giáo viên cho học sinh đọc thuộc một số bài mẫu để khi các
em gặp một đề bài tương tự cứ thế mà chép ra. Vì vậy dẫn đến tình trạng cả thầy
và trò nhiều khi bị lệ thuộc vào mẫu, không thoát khỏi được mẫu.
- Đôi khi giáo viên ra đề văn không thích hợp với đối tượng học sinh.
- Giáo viên chưa tạo điều kiện cho học sinh đi quan sát, trải nghiệm thực tế nên
các em không có vốn kiến thức thực tế, cảm xúc của các em không có, dẫn đến
diễn đạt vụng về, thiếu chân thực.
- Giáo viên chưa sửa chữa, uốn nắn một cách kịp thời, cụ thể các lỗi trong bài
làm cho các em.
2.2. Về phía học sinh.
* Ưu điểm:
- Thông qua việc luyện tập các kĩ năng viết văn miêu tả, đa số học sinh biết
cách tạo lập một văn bản miêu tả.
- Đa số các em đã phần nào biết quan sát, biết thực hành viết, biết chắt lọc từ
để viết thành một đoạn văn, biết vận dụng các từ ngữ thuộc chủ điểm để phục vụ
cho việc miêu tả..
* Nhược điểm:
Bắt nguồn từ những hạn chế mà cả giáo viên và học sinh mắc phải dẫn
đến việc viết văn miêu tả của các em chưa đạt được như yêu cầu ( Như đã nói ở
4
phần “Lí do chọn đề tài”). Bởi các em không được quan sát, chiêm nghiệm thực
tế nên từ ngữ các em sử dụng để viết văn miêu tả rất nghèo nàn, không làm nổi
bật được những đặc điểm riêng của đối tượng miêu tả. Và điều đáng buồn nhất
là trong bài làm, có rất ít học sinh thể hiện được cảm xúc của mình trước phong
cảnh thiên nhiên.
Với đề bài ra là: “Em hãy tả một cảnh đẹp trên quê em”. Học sinh đã có
bài làm của mình. Sau đây, xin trích dẫn một đoạn trong bài làm của các em Đoạn trích chọn tả một dòng sông:
“...Quê em có một dòng sông uốn khúc quanh làng, đó là dòng sông Trà giang.
Ở trên mặt sông có nhiều gợn sóng lăn tăn và có những cây bèo trôi nổi bồng
bềnh trên mặt nước. Những lúc có mưa rơi xuống, mặt nước lại rung lên bởi
những giọt mưa nhỏ. Ở hai bên bờ có những hàng cây xanh um tùm, dưới đó là
những dãy nhà nhấp nhô. Những cây rêu ở dưới đáy sông xanh rờn, những con
cá lượn quanh, đùa nhau dưới đáy sông. Trên bờ, chúng em thả diều thật là
vui...”
Rõ ràng đọc đoạn văn, ta thấy học sinh miêu tả dường như là một phép liệt kê
các sự vật, những cảnh sắc thiên nhiên hiện ra khô cứng, đơn điệu, không cảm
xúc.
Phần lớn số học sinh lớp 5, khi thực hiện làm văn miêu tả còn gặp nhiều khó
khăn, dẫn đến chất lượng bài viết chưa cao, chưa tạo nên sự sinh động với
những chi tiết sống gây ấn tượng do khả năng quan sát chưa tinh tế, do vốn
sống, vốn hiểu biết của các em chưa phong phú, vốn từ ngữ còn nghèo lại chưa
biết chắt lọc ý, từ. Đặc biệt, còn một số ít học sinh trình bày bài văn chưa rõ bố
cục.
2.3. Chất lượng lớp 5C
Ngay từ những tuần đầu của năm học, với mong muốn nâng cao chất lượng
môn Tiếng việt, nhất là phân môn Tập làm văn - phần viết bài văn miêu tả, tôi đã
tiến hành khảo sát ở lớp 5C.
+) Thời điểm khảo sát: Ngày 22 / 9 / 2015;
+) Thời gian làm bài: 30 phút.
Đề bài: Mùa xuân đến, cây cối, vạn vật như được hồi sinh. Em hãy tả một cây
hoa đang độ đẹp vào những ngày xuân.
Hướng dẫn và biểu chấm
Mặc dù theo quy định của Thông tư 30/2014/TT- BGDĐT, không đánh giá bài
làm của học sinh Tiểu học bằng điểm số, nhưng để thuận lợi hơn cho việc phân
loại đối tượng học sinh, tôi đã xây dưng biểu chấm với thang điểm cụ thể như
sau:
- Học sinh viết đúng thể loại, bố cục rõ ràng: 1 điểm.
- Bài viết thể hiện rõ nội dung, yêu cầu của đề bài, trình tự miêu tả hợp lí, diễn
đạt rõ ràng mạch lạc; Bài văn xúc tích giàu hình ảnh, làm nổi bật được vẻ đẹp
của cây hoa đang độ đẹp vào mùa xuân: 6 điểm
- Bài viết thể hiện tình cảm trước loài hoa: 2 điểm
( Điểm trình bày và chữ viết toàn bài: 1 điểm)
5
Tổng hợp kết quả khảo sát:
Mức
Mức
Số HS
điểm 9 -10
điểm 7 - 8
SL
TL
SL
TL
Mức
điểm 5- 6
SL
TL
30
15
3
10,0
7
23,3
50,0
Mức
điểm dưới 5
SL
TL
5
16,7
Qua thực tế nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng việc dạy học Tập làm văn ở
đơn vị lớp mình trực tiếp giảng dạy, tôi thấy học sinh còn có nhiều tồn tại trong
việc làm bài văn miêu tả, dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Từ đó, bản thân đã
có những định hướng mục tiêu cụ thể đối với học sinh trong quá trình dạy học
như sau:
- Học sinh biết trình bày bài văn với bố cục đầy đủ.
- Học sinh có hiểu biết về đối tượng miêu tả.
- Học sinh được quan sát đối tượng miêu tả để tránh việc làm bài qua trí tưởng
tượng hoặc dựa vào văn mẫu.
- Học sinh biết liên kết giữa các đoạn, các phần, biết cách dùng từ, diễn đạt lời
tả cần chân thực, tự nhiên.
- Học sinh có khả năng so sánh, liên tưởng, biết vận dụng hiểu biết thực tế khi
làm văn.
- Rèn cho học sinh bỏ thói quen học vẹt, tránh việc ghi nhớ máy móc, thụ động
tiếp nhận những điều có sẵn.
Như vậy, bằng việc phân tích đúng đắn, nhận ra ưu khuyết điểm chính từ
nhiều phía dẫn đến tồn tại trong việc thực hiện viết văn miêu tả của học sinh, tôi
thấy thuận lợi hơn trong quá trình thực nghiệm, cải tiến chất lượng viết văn miêu
tả cho học sinh lớp 5.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc dạy học văn miêu tả ở đơn vị công tác,
xuất phát từ yêu cầu thực tế về chất lượng học sinh, tôi thấy cần phải có những
giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những tồn tại trong chất lượng của học sinh
lớp mình phụ trách, đồng thời giúp bản thân tích lũy thêm một số kinh nghiệm
trong giảng dạy. Tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và thử nghiệm các giải pháp sau:
Giải pháp 1: Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình môn Tiếng việt, đặc biệt
là phân môn Tập làm văn - phần viết văn miêu tả.
Qua tìm hiểu nội dung chủ yếu của dạy học Tiếng việt lớp 5, Phân môn Tập
làm văn - phần viết văn miêu tả, tôi thấy nội dung gồm:
Tuần 1: Cấu tạo của bài văn tả cảnh ( tiết 1)
Luyện tập tả cảnh ( tiết 2)
Tuần 2: Luyện tập tả cảnh ( tiết 3)
Tuần 3: Luyện tập tả cảnh ( tiết 5 + 6)
Tuần 4: Luyện tập tả cảnh ( tiết 7)
Tả cảnh - Kiểm tra viết ( tiết 8)
6
Tuần 5: Trả bài văn tả cảnh( tiết 10)
Tuần 6: Luyện tập tả cảnh ( tiết 12)
Tuần 7: Luyện tập tả cảnh ( tiết 13 + 14)
Tuần 8: Luyện tập tả cảnh ( tiết 15)
Luyện tập tả cảnh ( dựng đoạn mở bài, kết bài) - (tiết 16)
Tuần 10: Trả bài văn tả cảnh ( tiết 21)
Tuần 12: Cấu tạo của bài văn tả người ( tiết 23)
Luyện tập tả người ( tiết 24)
Tuần 13: Luyện tập tả người ( Tả ngoại hình) - ( tiết 25 + 26)
Tuần 15: Luyện tập tả người ( Tả hoạt động) - ( tiết 29 + 30)
Tuần 16 : Tả người ( Kiểm tra viết) - ( tiết 31)
Tuần 17 : Trả bài văn tả người ( tiết 34)
Tuần 19 : Luyện tập tả người ( Dựng đoạn mở bài) ( tiết 37)
Luyện tập tả người ( Dựng đoạn kết bài) - ( tiết 38)
Tuần 20 : Tả người ( Kiểm tra viết) - ( tiết 39)
Tuần 21 : Trả bài văn tả người ( tiết 42)
Tuần 24 : Ôn tập về tả đồ vật ( tiết 47 + 48)
Tuần 25 : Tả đồ vật ( Kiểm tra viết) - ( tiết 49)
Tuần 26 : Trả bài văn tả đồ vật ( tiết 52)
Tuần 27: Ôn tập về tả cây cối ( tiết 53)
Tả cây cối( Kiểm tra viết) - ( tiết 54)
Tuần 29: Trả bài văn tả cây cối ( tiết 58)
Tuần 30: Ôn tập về tả con vật ( tiết 59)
Tả con vật ( Kiểm tra viết) - ( tiết 60).
Tuần 31: Ôn tập về tả cảnh ( tiết 61 + 62)
Tuần 32: Trả bài văn tả con vật ( tiết 63)
Tả cảnh( Kiểm tra viết) - ( tiết 64)
Tuần 33: Ôn tập về tả người ( tiết 65)
Tả người ( Kiểm tra viết) - (tiết 66)
Tuần 34: Trả bài văn tả cảnh ( tiết 67)
Trả bài văn tả người ( tiết 58)
Như vậy, nội dung văn miêu tả chiếm cơ bản thời lượng trong phân môn
Tập làm văn lớp 5. Điều này cho thấy việc giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết
văn, kĩ năng sản sinh văn bản là vô cùng quan trọng. Việc nghiên cứu, nắm vững
các nội dung dạy học phân môn đã giúp tôi chuẩn bị được: Nội dung đó dạy khi
nào? Dạy cái gì? Lựa chọn phương pháp dạy nào phù hợp? Sự chuẩn bị đó đã
giúp tôi hoàn toàn chủ động trong quá trình dạy học của mình.
Giải pháp 2: Lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với nội dung dạy học.
Lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học Tiếng việt, nhất là dạy Tập làm
văn là một vấn đề quan trọng trong quá trình dạy học. Do đó đòi hỏi mỗi giáo
viên phải đầu tư nghiên cứu, tìm tòi để lựa chọn được phương pháp dạy học
đúng đắn sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
7
Khi thiết kế bài học, người giáo viên cần lựa chọn sử dụng phương pháp với
từng bài cụ thể, bởi vì hơn ai hết, giáo viên là người nắm được ưu điểm cũng
như nhược điểm của từng phương pháp. Nên tùy vào từng yêu cầu cụ thể của
từng bài, từng tiết dạy mà lựa chọn và sử dụng phương pháp phù hợp thì sẽ thu
được kết quả, hiệu quả cao trong giờ học đó.
Mặc dù vậy ta vẫn phải hiểu rằng không có phương pháp dạy học nào là vạn
năng cả. Bởi vậy người giáo viên phải biết cách phối hợp các phương pháp sao
cho linh hoạt, sáng tạo trong quá trình dạy học của mình.
Ví dụ: Ở tuần học thứ 3, hai tiết Tập làm văn đều là “Luyện tập tả cảnh”, nhưng
tôi đã lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau trong quá trình tổ chức cho
học sinh học tập nhằm đạt được mục tiêu giờ dạy.
Tiết 1: Ở bài tập 1 - Dùng phương pháp thảo luận tổ chức cho học sinh thảo
luận theo cặp để tìm câu trả lời cho 4 câu hỏi sau khi đọc bài văn “Mưa rào”.
- Dùng phương pháp giảng giải để giúp học sinh hiểu thêm cách quan sát và
chọn lọc chi tiết để tả.
Ở bài tập 2 - Dùng phương pháp gợi mở để giúp học sinh ghi lại kết quả quan
sát một cơn mưa rào mà em đã có dịp quan sát.
- Tổ chức cho học sinh tự lập dàn ý và trình bày rồi tổ chức rút kinh nghiệm để
hoàn thành các dàn ý của mỗi cá nhân.
Tiết 2: Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của bài tập rồi tổ chức cho học sinh làm
bài cá nhân và trình bày trước lớp. Chủ yếu giáo viên khơi gợi óc sáng tạo để
các em hoàn chỉnh một cách hợp lí và tự nhiên các đoạn văn (BT1) rồi dựa trên
hiểu biết về đoạn văn trong bài văn tả cơn mưa để viết nên một đoạn văn miêu tả
chân thực và tự nhiên, vận dụng được những quan sát thực tế của các em vào
trong quá trình làm bài văn viết.
Giải pháp 3: Tạo điều kiện cho học sinh quan sát trực tiếp, tìm hiểu đối
tượng mà các em sẽ tả từ đó bồi dưỡng kĩ năng quan sát, tìm ý cho học sinh.
Để viết được một bài văn hay, thực sự có hồn thì việc phát huy vốn sống
của các em là một yếu tố quan trọng. Một bài văn dù có sử dụng ngôn ngữ hoa
mĩ đến mấy mà thiếu thực tế thì sẽ trở thành sáo rỗng, khoa trương. Để giúp học
sinh có vốn sống phong phú, giáo viên phải thường xuyên chú ý tạo điều kiện và
bồi dưỡng cho các em kĩ năng quan sát. Khi quan sát, giáo viên giúp học sinh
xác định mục đích và trọng tâm quan sát. Quan sát cũng cần kết hợp với trí
tưởng tượng thì bài văn mới được mở rộng, nâng cao và có chiều sâu. Qua quan
sát, học sinh mới tìm được những nét riêng, tiêu biểu của sự vật được miêu tả.
Giáo viên cần hiểu rằng quan sát không chỉ giúp học sinh ngắm nhìn sự vật
bằng mắt mà cần giúp học sinh sử dụng nhiều giác quan khi quan sát. Thông qua
đó, các em mới có được cảm xúc và giúp cho việc diễn đạt ngôn từ một cách
chính xác, đúng với bản chất của sự vật được miêu tả.
Bài văn miêu tả trước hết phải có nội dung phong phú, sinh động, tức là ý
phải phong phú. Muốn vậy, học sinh cần phải có hiểu biết về đối tượng miêu tả
ở mức độ sâu sắc. Nếu học sinh có hiểu biết hời hợt sẽ không có ý để đưa vào
bài văn mà chỉ có thể nói một cách chung chung. Vì thế để học sinh có thêm
8
hiểu biết về đối tượng miêu tả, giáo viên cần chủ động tạo ra những giờ trải
nghiệm thực tiễn dưới sự chỉ đạo nghiêm túc, thấu đáo của thầy cô. Trong quá
trình đó, mỗi giáo viên cần chú ý làm tốt một số yêu cầu sau:
- Trước hết phải giúp học sinh thấy rõ được tác dụng của việc quan sát và có thói
quen quan sát đối tượng, tôi đưa ra ví dụ:
“Chị bán hàng đang bị sức nóng của khối người đông đảo làm khuôn mặt
trái xoan của chị dỏ gay và lấm tấm mồ hôi. Đôi mắt tinh nhanh dưới hàng lông
mày lá liễu đang phải vất vả dõi theo tay khách chỉ các mặt hàng.Miệng chị
cười tươi để lộ hàm răng đều và trắng muốt. Chị vui vẻ cởi mở, liên tục trả lời
khách mua hàng.”
Đó là một đoạn văn tả hình dáng chị bán hàng gắn một cách tự nhiên với
khung cảnh làm việc của chị; Đây cũng là nét riêng biệt độc đáo trong quan sát.
- Trước khi tổ chức cho học sinh quan sát một đối tượng miêu tả, giáo viên phải
chuẩn bị các câu hỏi để giúp học sinh quan sát bằng các giác quan, hiểu và phát
hiện các chi tiết, đặc điểm của đối tượng.
- Khi hướng dẫn học sinh trải qua các quan sát trực tiếp, giáo viên cần tạo điều
kiện để học sinh rèn luyện các thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp...
Khi quan sát, khuyến khích các em nêu lên những nhận xét riêng về đối tượng,
phát huy sự liên tưởng, tưởng tượng của các em.
- Tạo điều kiện để các em nắm vững và biết sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
( từ ngữ, hình ảnh, câu) và các biện pháp tu từ ( so sánh, nhân hóa) để diễn đạt.
- Trong quá trình tổ chức cho học sinh thực hành quan sát trực tiếp, giáo viên
cần có những mệnh lệnh, câu hỏi phù hợp để giúp học sinh có thể quan sát, thu
nhận được những hiểu biết về đối tượng thật phong phú, chân thực và sâu sắc.
Ví dụ: Với đề bài ra cho học sinh là: “Em hãy miêu tả cây bàng trên sân
trường em vào mùa hè”.
Với mục đích: Giúp học sinh biết quan sát tìm ý để tả cây bàng( thấy được
đặc điểm của cây ở thời điểm và nơi quan sát cụ thể); Biết lựa chọn từ ngữ chính
xác, gợi tả, có cảm xúc để diễn đạt ý về các đặc điểm chi tiết của cây bàng và
bồi dưỡng lòng yêu thên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh, tôi đã tổ
chức cho học sinh cả lớp được quan sát trực tiếp cây bàng trên chính sân trường
mình. Với hệ thống câu hỏi gợi mở giúp các em quan sát một cách có hiệu quả,
việc tổ chức cho học sinh quan sát được tôi tiến hành như sau:
+ Tập trung học sinh dưới cây bàng.
+ Giáo viên chia nhóm học sinh - Nêu nhiệm vụ quan sát.
+ GV nêu các câu hỏi gợi mở cho học sinh quan sát ( Cũng có thể cho học sinh
tự hỏi nhau theo ý tưởng của các em).
+ Giáo viên khuyến khích học sinh đưa ra nhận xét riêng của mình khi quan sát.
+ HS trả lời và kết hợp ghi chép vào vở nháp.
Sau khi tổ chức cho học sinh quan sát trực tiếp cây bàng, với các
phương pháp và hình thức tổ chức tiết học đó, tôi thấy lớp học sôi nổi, học sinh
hứng thú tìm tòi các ý mới để miêu tả cây bàng. Sau đó tôi đã tổ chức cho các
em thực hành làm bài văn viết. Kết quả bài làm của các em khá tốt. Nhiều bài
9
viết có tính sáng tạo, hình ảnh đẹp, biết sử dụng hiệu quả các biện pháp tu từ
như so sánh, nhân hóa khi miêu tả. Điều đáng mừng là bài viết của các em đã
thể hiện được cảm xúc riêng trước thiên nhiên.
- Mặc dù vậy, quan sát đối tượng miêu tả mới chỉ là bước thu thập tài liệu, học
sinh còn phải biết sàng lọc, bỏ “thô” lấy “tinh”. Dựa vào đâu để chọn cái tinh?
Chỗ dựa chính là phải nắm được ý chủ đạo của bài văn sắp viết ra. Nếu bài văn
nhằm nêu lên cảnh đẹp thì phải chọn ra đường nét đẹp, màu sắc đẹp, âm thanh
hay, còn những cái khác không phục vụ cho ý chủ đạo thì kiên quyết loại bỏ.
Khi hướng dẫn học sinh sắp xếp ý cần phải hướng dẫn học sinh xác định trọng
tâm của bài. Chọn được những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng, đầy
đủ.
Ví dụ: Tả cánh đồng lúa đang mùa gặt thì trọng tâm là vẻ đẹp của đồng lúa chín
và hoạt động gặt hái của bà con nông dân trên cánh đồng, còn bầu trời, chim
chóc...xung quanh vẫn tả nhưng chỉ là phụ.
Giải pháp 4: Khắc sâu kiến thức ở mỗi tiết học.
Mặc dù chương trình không đưa vấn đề cung cấp kiến thức cho học sinh lên
hàng đầu. Song tôi thiết nghĩ trên cơ sở của việc nắm bắt kiến thức, học sinh
mới rèn luyện kĩ năng viết văn đúng và hay. Chẳng hạn, nếu học sinh không hiểu
văn miêu tả là gì thì làm sao các em có định hướng đúng để viết đoạn văn tả cái
cặp, tả cây bút ...
Trong phần Ghi nhớ sách giáo khoa Tiếng việt lớp 4 - tập một( trang 140) có
viết: “Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người,
của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy”. Để
giúp học sinh khắc sâu được đặc điểm của văn miêu tả như trên, giáo viên cần
phải giúp học sinh hiểu thế nào là “vẽ lại bằng lời”, thế nào là “hình dung được
đối tượng”. Giáo viên có thể đưa ra một đối tượng gần gũi nhất rồi cho học sinh
thực hiện lại công việc “vẽ lại bằng lời”. Học sinh thông qua việc “vẽ lại bằng
lời” của bạn sẽ hình dung được đối tượng miêu tả một cách rõ nét hơn.
Chẳng hạn, để giúp học sinh nắm được và vận dụng tốt về bố cục của một bài
văn, ở tiết “Cấu tạo của bài văn tả cảnh”, thông qua bài văn “Hoàng hôn trên
sông Hương”, giáo viên cần giúp học sinh khắc sâu: Bố cục bài văn tả cảnh
gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài. Đặc biệt, ở mỗi phần đó cần viết những
gì? Tác giả đã viết những gì? Tả ra sao? Tả những nét nổi bật nào của cảnh? Mặt
khác, cần cho học sinh thực hành luyện tập thông qua nhiều ví dụ cụ thể để xác
định mở bài, thân bài, kết bài. Và các nội dung trong phần thân bài. Có nắm
chắc các phần và nội dung cần thể hiện trong mỗi phần của bài văn thì khi học
sinh viết mới đảm bảo yêu cầu của một bài văn.
Giải pháp 5: Làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh.
Học sinh hiểu thêm một từ mới là hiểu thêm một khái niệm mới. Ngôn ngữ
phát triển cùng với tư duy. Kinh nghiệm cho học sinh tìm từ ngữ theo từng đề tài
là làm tăng vốn từ cho học sinh. Trong lớp tôi dạy, khi cho học sinh tìm từ ngữ
nói về vui buồn, các em đã tìm được các từ như:
10
+) vui, vui vẻ, phấn khởi, hăm hở, hồ hởi, hân hoan, sung sướng, mừng rỡ, hớn
hở, vui sướng, vui mừng,...
+) buồn, buồn rầu, buồn bã, tư lự, lo lắng, bùi ngùi, buồn rũ rượi,....
Khi tổ chức cho học sinh sưu tầm từ ngữ nói về sự phát triển của cây lúa từ
khi cấy đến khi gặt, các em đã tìm được khá nhiều từ ngữ hay, sinh động như:
lúa bén rễ, lúa đương thì con gái, lúa tròn mình, lúa phơi màu, lúa uốn câu, lúa
đỏ đuôi, lúa chín đại trà,....
Có rất nhiều đề tài nhỏ có thể gợi cho học sinh tìm từ. Các đề tài này gắn chặt
với các thể văn đang học. Ví dụ khi học đoạn văn tả người, tôi tổ chức cho học
sinh tìm từ ngữ tả khuôn mặt, đôi mắt, giọng nói, dáng đi,...
Làm giàu vốn từ cho học sinh giúp các em dùng từ chính xác, sát thực phù
hợp, tránh được lối viết câu, dùng từ tối nghĩa, lủng củng. Thông qua tiết học
Luyện từ và câu, Tập đọc, giáo viên giúp học sinh củng cố, hệ thống hóa, mở
rộng từ ngữ thuộc chủ đề, chủ điểm đã học. Bên cạnh đó, thông qua giao tiếp
hằng ngày, giáo viên lưu ý học sinh sử dụng hợp lí các từ ngữ trong từng tình
huống giao tiếp. Mặt khác, giáo viên giúp học sinh biết lựa chọn từ ngữ chính
xác trong mỗi văn cảnh - tức là sử dụng từ ngữ khi làm văn cho đúng sắc thái.
Ví dụ: Các em đã lựa chọn một trong các từ ngữ cho, biếu, tặng vào trong văn
cảnh sau:
“ Nhân dịp đầu năm học mới , bố đã .... em một món quà rất đáng yêu. Đó là
một cái cặp xinh xắn”.
Rõ ràng trong văn cảnh trên, các em sẽ không lựa chọn từ “cho” hay từ “biếu”
để điền vào chỗ chấm. Chọn từ ngữ “mua cho” cũng có thể được nhưng hợp lí
hơn cả là từ “tặng”.
Trong các tiết luyện viết đoạn văn, xây dựng đoạn văn, giáo viên có thể giúp
học sinh tìm các từ cùng nghĩa, trái nghĩa và lựa chọn một cách đúng đắn khi
viết một câu, một đoạn. Chẳng hạn, tả âm thanh của cái khóa cặp khi mở ra có
thể là: lách cách, lách tách, một cái tạch,....
Bên cạnh đó, giáo viên cần theo dõi, phát hiện cách dùng từ sai khi học
sinh viết đoạn văn vào vở. Nếu phát hiện kịp thời, cần nhắc học sinh sửa ngay.
Với những lỗi dùng từ phổ biến cần được viết ngay lên bảng và giúp học sinh tự
sửa lỗi. Ở các tiết trả bài, cần tổ chức cho học sinh tự tìm các lỗi trong bài làm
của mình hoặc tự sửa các lỗi do giáo viên đã chỉ ra trong bài văn.
Ví dụ: Với đề bài ra là "Em hãy tả một cơn mưa rào mùa hạ". Học sinh đã
làm bài theo yêu câu. Trong đó có đoạn một học sinh viết:
"...Mưa đã bắt đầu rơi lớt phớt. Từng giọt nghiêng nghiêng, xiên xỏ vào nhau
lao xuống ngọn cỏ, cành cây. Mưa ào ạt xuống mặt đường, mưa vội vã nện
xuống sân gạch, kêu ầm ĩ trên mái tôn, gõ bập bùng trên tàu lá chuối..."
Rõ ràng trong đoạn văn trên, học sinh đã tả được không khí, cảnh tượng
của một cơn mưa lớn và có mức độ lớn dần. Tuy nhiên có một số từ ngữ em sử
dụng chưa phù hợp. Khi trả bài, tôi đã thực hiện giúp các em sửa lỗi sai theo các
bước sau:
11
Bước 1: Giáo viên viết đoạn văn cần chữa lên bảng, cho học sinh đọc to đoạn
văn, sau đó yêu cầu các em tìm các từ dùng chưa phù hợp.
Bước 2: Yêu cầu học sinh lên bảng gạch dưới các từ cần sửa, thay thế. Giáo viên
công nhận hoặc bổ sung các từ cần sửa trong đoạn đó.
( Học sinh đã gạch dưới các từ: lớt phớt, xiên xỏ, bập bùng )
Bước 3: Yêu cầu học sinh tìm và nêu các từ có thể thay thế.
( Học sinh đã nêu phương án: từ "lất phất" thay cho từ "lớt phớt", từ "đan" thay
cho từ "xiên xỏ", từ "bùng bùng" thay cho từ "bập bùng" )
Bước 4: Yêu cầu học sinh giải thích tại sao em lại sử dụng được các từ ngữ đó
để thay thế cho từ ngữ không phù hợp trong đoạn văn.
Bước 5: Cho học sinh đọc lại đoạn văn sau khi đã sử dụng các từ thay thế.
Bước 6: Giáo viên củng cố cách sử dụng từ ngữ phù hợp với từng văn cảnh
trong làm bài văn miêu tả.
Muốn nâng cao chất lượng bài văn miêu tả, khâu làm giàu vốn từ ngữ
không thể bỏ qua. Vì thế tôi đã chú ý luyện cách sử dụng các từ ngữ gợi hình
ảnh, gợi âm thanh, từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa cho các em.
Giải pháp 6: Luyện viết câu văn ngắn gọn, dùng đúng các dấu câu.
Thực trạng cho thấy nhiều học sinh chưa biết dùng dấu câu đúng trong
viết văn. Có những bài văn, học sinh dùng dấu câu rất tùy tiện.
Ví dụ: Trong bài văn miêu tả vẻ đẹp của dòng sông quê hương, có học sinh đã
sử dụng dấu câu sai như sau: "...Con sông nằm uốn khúc giữa làng, rồi chạy dài
bất tận những hàng tre xanh chạy dọc theo bờ sông mỗi sáng sớm, khi ánh bình
minh bắt đầu ló rạng, em lại cùng mấy bạn nhỏ chạy ra bờ sông đùa vui. Dòng
sông khi ấy, đẹp lung linh bởi muôn nghìn tia nắng rực rỡ của mặt trời, chiếu
rọi xuống làn nước trong xanh..."
Để khắc phục tình trạng này, ngay khi luyện cho học sinh viết đoạn văn,
giáo viên cần giúp học sinh ngắt nhỏ các ý khi diễn đạt bằng cách dùng dấu
phẩy. Trong các tiết làm văn, việc hướng dẫn học sinh sử dụng dấu câu đúng đòi
hỏi giáo viên phải kiên trì. Một mặt giúp học sinh ghi nhớ một số dấu hiệu nhận
biết cách dùng dấu câu đúng, một mặt tạo cho học sinh thói quen. Đối với bài
làm này, tôi đã tiến hành sửa sai cho học sinh cụ thể là: Cho học sinh (hoặc
chính giáo viên) đọc lên đoạn văn đó, nêu những chỗ em đã dùng dấu câu, nếu
chỗ nào chưa có dấu câu thích hợp thì yêu cầu học sinh suy nghĩ để lựa chọn,
nếu dùng sai dấu câu thì giáo viên giúp học sinh thấy được chỗ chưa hợp lí và
sửa chữa kịp thời.
Kết quả đoạn văn các em tự sửa là: "...Con sông nằm uốn khúc giữa làng
rồi chạy dài bất tận. Những hàng tre xanh chạy dọc theo bờ sông. Mỗi sáng
sớm, khi ánh bình minh bắt đầu ló rạng, em lại cùng mấy bạn nhỏ chạy ra bờ
sông đùa vui. Dòng sông khi ấy đẹp lung linh bởi muôn nghìn tia nắng rực rỡ
của mặt trời chiếu rọi xuống làn nước trong xanh..."
Điều quan trọng là sau mỗi bài tập sửa cách sử dụng dấu câu như thế, giáo
viên cần chú ý khắc sâu kiến thức về việc sử dụng dấu câu, phải để học sinh tự
12
giải thích được: Tại sao em lại dùng dấu phẩy, dấu chấm ở vị trí đó? (Hoặc các
dấu câu khác )
Mặt khác, trong các tiết luyện tập viết văn, giáo viên cần cho học sinh viết
nháp, gọi một số học sinh nêu kết quả, giáo viên giúp học sinh sửa cách dùng từ,
cách diễn đạt, đưa ra phương án diễn đạt hay cho học sinh học tập. Sau đó học
sinh mới viết lại đoạn văn vào vở. Với những câu văn học sinh viết dài dòng,
không sáng ý, giáo viên nên cho học sinh nêu ý em cần thông báo là gì rồi tập
cho học sinh sắp xếp, lựa chọn từ ngữ để viết cho đảm bảo nội dung.
Giúp học sinh viết câu ngắn gọn không có nghĩa là phải chắt lọc cốt sao
cho đúng mà còn phải biết diễn đạt câu văn sao cho sinh động, gợi hình ảnh, âm
thanh.
Ví dụ: Nếu học sinh viết: “ Búp bê của em có mái tóc đen và ngắn” sẽ không
sinh động bằng “Cô nàng búp bê ấy có mái tóc ngăn ngắn, đen và mượt mà như
nhung”.
Vì vậy khi luyện cho học sinh viết đoạn văn, bài văn, đặc biệt là phần thân
bài, giáo viên cần hướng dẫn và giúp cho học sinh diễn đạt câu văn được rõ
ràng, mạch lạc, sinh động, giàu hình ảnh bằng cách sử dụng hợp lí các từ láy, các
biện pháp tu từ, từ gợi tả, gợi cảm, có thể mở rộng nòng cốt câu nhưng lời văn
phải rõ ràng, tránh trùng lặp.
Việc lựa chọn, sử dụng linh hoạt các từ ngữ trong mỗi câu văn là một kĩ
năng khó, đòi hỏi học sinh phải luyện viết nhiều thì mới có được. Có thể học
sinh sẽ ngại viết nhiều. Do đó giáo viên cần thường xuyên động viên, khuyến
khích học sinh, đồng thời chú ý bồi dưỡng lòng yêu thích văn học.
Giải pháp 7: Hướng dẫn học sinh sử dụng hiệu quả các biện pháp tu từ đã
học.
Sử dụng các biện pháp tu từ trong bài văn là một nghệ thuật tinh tế, đòi
hỏi học sinh phải có trí tưởng tượng phong phú và khả năng tư duy logic. Ở bậc
Tiểu học, các biện pháp tu từ thường được sử dụng là: Nhân hóa, so sánh, điệp
từ. Trong đó phổ biến nhất là biện pháp nhân hóa và so sánh.
13
Trong văn miêu tả, sử dụng so sánh là một biện pháp tạo hình khiến sự
vật được so sánh trở nên đẹp đẽ, sinh động, hấp dẫn, cụ thể, lôi cuốn sự chú ý
cho người đọc, người nghe. Còn sử dụng nhân hóa để thể hiện kín đáo tình cảm,
cảm xúc, thái độ, sự đánh giá đối với sự vật hiện tượng, làm cho đối tượng
không phải con người mang dấu hiệu, thuộc tính của con người. Xuất phát từ
những suy nghĩ trên, khi giảng dạy cần rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng các
biện pháp so sánh, nhân hóa trong viết văn miêu tả. Trước hết, người giáo viên
phải dạy tốt phân môn luyện từ và câu, ôn tập, củng cố kiến thức đặc biệt là về
phép so sánh, nhân hóa đã học từ các lớp dưới. Giúp học sinh phát hiện các giá
trị nghệ thuật như phép so sánh, nhân hóa... được sử dụng trong các bài tập đọc
học thuộc lòng hoặc các bài đọc thêm.
Để giúp học sinh sử dụng có hiệu quả biện pháp so sánh khi làm văn, giáo
viên cần giúp học sinh tìm được những nét giống nhau, nét tương đồng giữa hai
sự vật được đem so sánh với nhau, lúc đó việc so sánh mới có hiệu quả và bài
văn mới trở nên sinh động, có hồn, các sự vật được miêu tả mới trở nên gần gũi
và thân thuộc. Tất cả mọi đồ vật xung quanh các em đều có thể gọi bằng những
từ ngữ thân thương: Bác nồi đồng, chị chổi, anh bút mực, cô nàng cặp
sách,....Hoặc chỉ cần miêu tả một hoạt động nào đó của sự vật như hoạt động
của con người, hoặc em hãy làm cho sự vật biết nói như con người, hoặc em hãy
nói với sự vật như nói với người. Như vậy là em đã biết sử dụng biện pháp nhân
hóa trong viết văn. Mặt khác, giáo viên có thể cho học sinh tự tìm thêm các câu
thành ngữ có nội dung so sánh để học sinh có thể vận dụng khi làm văn.
Rèn luyện kỹ năng sử dụng biện pháp nghệ thuật thông qua các dạng bài
tập thực hành:
a) Điền vào chỗ trống để có hình ảnh so sánh:
Ví dụ: Em hãy tìm những hình ảnh so sánh thích hợp điền vào chỗ trống để
câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất:
+ Tiếng ve đồng loạt cất lên như..........................(một dàn đồng ca)
+ Hoa chuối thập thò, hoe hoe đỏ như.................( một mầm lửa non)
b) Điền vào chỗ trống để có hình ảnh nhân hóa
+ Mấy con chim đang ríu rít....................trên cành cây cao.( trò chuyện)
+ Những bông hoa đang.................trong nắng sớm.(tươi cười)
c) Thay thế từ ngữ để có hình ảnh so sánh.
Ví dụ: Hãy lựa chọn những từ ngữ trong ngoặc, thêm từ như và thay thế các từ
in nghiêng để câu văn có hình ảnh so sánh:
+ Đất nước mình đâu cũng đẹp.
- Đất nước mình đẹp như một bức tranh.
+ Cây bàng toả bóng mát rượi.
- Cây bàng như một chiếc ô khổng lồ toả bóng mát rượi
d) Thay thế từ ngữ để có hình ảnh nhân hóa
VD:
+ Con gà mái có bộ lông màu vàng rất đẹp.
Thay thế: + Chị gà mái khoác trên mình bộ lông vàng mướt như nhung
trông rất đẹp.
14
e) Luyện viết câu văn, đoạn văn có sử dụng biện pháp so sánh
Ví dụ 1: Em hãy sử dụng biện pháp so sánh để diễn đạt lại các câu sau cho sinh
động gợi cảm.
+ Cô giáo của em rất trẻ và luôn tận tụy giảng bài .
+ Gà mẹ bảo vệ đàn con.
Ví dụ 2: Em hãy viết một đoạn văn có sử dụng biện pháp so sánh để tả về một
loài vật mà em yêu thích.
g) Luyện viết câu văn, đoạn văn có sử dụng biện pháp nhân hóa
Ví dụ 1: Em hãy sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn đạt các ý sau bằng nhiều
câu khác nhau:
+ Vườn cây của nhà em.
+ Cây bàng trường em.
Ví dụ 2: Em hãy viết một đoạn văn có sử dụng biện pháp nhân hóa để tả cảnh
vật sau cơn mưa.
Như vậy, thông qua hệ thống bài tập sẽ giúp học sinh rèn kỹ năng sử dụng
biện pháp so sánh, nhân hóa để viết văn miêu tả. GV dạy học sinh rèn kỹ năng
từ dễ đến khó, từ hệ thống bài tập dẫn đến việc sử dụng một cách thành thạo
biện pháp tu từ khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Chúng ta khẳng định, một bài
văn miêu tả hay không thể không sử dụng đến biện pháp tu từ và đó cũng là một
biện pháp khi giúp học sinh viết văn miêu tả.
Giải pháp 8: Nâng cao năng lực cảm thụ văn cho học sinh.
Cũng như tất cả các môn học khác, môn Tiếng việt góp phần giáo dục
thẩm mĩ cho học sinh. Thông qua các bài Tập đọc, học thuộc lòng, giáo viên
giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong thơ văn. Đó là cái hay, cái
đẹp của thiên nhiên, của con người trong quan hệ đối xử, trong lời ăn tiếng nói,
là sự hoàn thiện về phẩm chất của mỗi con người.
Cảm thụ được vẻ đẹp của thơ văn giúp học sinh viết văn có cảm xúc, biết
học tập cách viết văn hay. Vì vậy trong các tiết học, nhất là giờ học Tập đọc,
giáo viên cần giúp học sinh cảm nhận được nội dung ý nghĩa và nghệ thuật của
mỗi bài thơ, nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm, biết hóa thân vào nội dung câu
chuyện và hiểu những điều được gửi gắm trong bài. Từ đó, trong tâm hồn các
em được “chắt dồn” những lời hay ý đẹp. Những cảm xúc và những hiểu biết trẻ
thơ đó góp phần làm cho bài văn bay bổng hơn, dễ đi vào lòng người hơn.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung, ý nghĩa bài tập đọc "Hạt gạo
làng ta", để giúp học sinh cảm nhận được nỗi vất vả của người nông dân đồng
thời thấy được nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong bài, tôi đã tập trung khai thác
đoạn thơ:
"Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
15
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy..."
Sau khi học sinh đọc thầm đoạn thơ, tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm
theo ba câu hỏi:
H: Những hình ảnh nào nói lên nỗi vất vả của người nông dân?
H: Đoạn thơ giúp em hiểu gì về ý nghĩa của hạt gạo?
H: Hãy nêu rõ tác dụng của điệp ngữ và hình ảnh đối lập được sử dụng trong
đoạn thơ?
Dựa trên ý hiểu và cách diễn đạt của học sinh, tôi đã giúp các em thấy: Để
làm ra hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao khó khăn thử thách của
thiên nhiên. ( Đó là những cơn "bão tháng bảy" - thường là bão to, những trận
"mưa tháng ba" - thường là mưa lớn) Nhưng điều quan trọng hơn là để làm ra
hạt gạo còn có những "giọt mồ hôi" của người lao động cần cù trong những
ngày nắng nóng. Đoạn thơ đã sử dụng thành công điệp ngữ "có" nhằm nhấn
mạnh những khó khăn mà thiên nhiên đem đến cho con người. Hình ảnh đối lập
"cua ngoi lên bờ" nhưng mẹ em vẫn "xuống cấy" nhằm gợi tả hình ảnh người
mẹ lao động vất vả đồng thời nhấn mạnh giá trị to lớn của hạt gạo.
Trong giờ học đó, học sinh thực sự có hứng thú trong học tập, các em tích
cực nêu ý kiến cá nhân, đặc biệt sự xúc cảm thể hiện rõ ở từng học sinh. Bởi
hình ảnh người mẹ tần tảo, lam lũ, cần cù, không quản mưa nắng trong bài đã rất
gần gũi với các em rồi.
Để kiểm nghiệm khả năng thẩm thấu văn bản và khả năng vận dụng kiến
thức liên môn, trong thời gian đó tôi đã yêu cầu học sinh làm một đề văn là: "Em
hãy tả lại cảnh ngày mùa trên quê hương em". Trong bài làm của mình, nhiều
học sinh đã miêu tả rất chân thực và sinh động những công việc vất vả của chính
những người thân của các em. Điều đáng nói là phần đa số học sinh đã thể hiện
được sự biết ơn đối với những người làm ra hạt gạo. Đồng thời bài làm cũng có
nhiều câu văn miêu tả cảnh vật nông thôn giàu hình ảnh, sinh động.
Giải pháp 9: Rèn luyện đức tính kiên trì bền bỉ cho học sinh khi làm bài.
Cha ông ta đã đúc kết: “Văn ôn võ luyện”. Đúng vậy, nếu học làm văn mà
chỉ lướt qua cách làm bài một lần thì chưa thể có được một bài văn hay và hoàn
chỉnh. Đặc biệt, đặc điểm học sinh tiểu học là rất mau quên. Bởi vậy, với bất kì
kĩ năng nào, giáo viên cần cho học sinh thực hành nhiều lần. Để giúp cho mọi
học sinh có kĩ năng làm văn tốt thì yếu tố thời gian là rất cần thiết. Trong các tiết
học - nhất là các tiết học ở buổi hai, giáo viên cần tổ chức cho học sinh luyện
viết đoạn văn nhiều lần, giáo viên giúp học sinh chỉnh sửa, bổ sung để có những
đoạn văn hay và hoàn chỉnh. Với những em viết văn còn lỗi chính tả thì đây là
thời gian tốt nhất giúp các em khắc phục các lỗi đó.
Tùy theo từng học sinh, giáo viên có thể cho học sinh tự đánh giá và phân
chia các đối tượng để tổ chức luyện tập viết văn cho phù hợp. Chẳng hạn:
- Những học sinh có năng khiếu viết văn: Yêu cầu các em viết nâng cao (sử
16
dụng các biện pháp tu từ một cách linh hoạt và sáng tạo), viết theo nhiều phong
cách khác nhau, hoàn chỉnh một bài văn miệng để các bạn trong lớp học tập, rút
kinh nghiệm.
- Những học sinh có khả năng hoàn thành bài viết theo yêu cầu: Giúp học
sinh rèn viết câu đúng, dùng từ đặt câu phù hợp, bố cục bài văn đầy đủ, rõ ràng.
Tuy nhiên giáo viên cũng cần yêu cầu học sinh nâng cao dần.
- Những học sinh gặp khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ: Luyện viết đúng bố
cục bài văn, biết dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu, tập diễn đạt dùng từ phù
hợp, khắc phục các lỗi chính tả, ngữ pháp.
Ngoài giờ học trên lớp, giáo viên hướng dẫn học sinh cách học tập làm văn ở
nhà. Đó là việc tạo thói quen quan sát sự vật, tập nói câu có hình ảnh, thường
xuyên trau dồi ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ viết ... Đặc biệt là động viên
các em kiên trì, chịu khó luyện viết nhiều lần đoạn văn, bài văn nếu bản thân em
chưa thấy ưng ý. Tạo cho học sinh thói quen nháp bài - dù là đoạn văn hay bài
văn, chỉnh sửa cẩn thận ( Có thể tự em sửa hay nhờ người thân góp ý hay nhờ
thầy cô chỉnh sửa, bổ sung) trước khi viết bài chính thức.
Tóm lại: Trên đây là một số “ Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt
văn miêu tả” mà tôi đã áp dụng dạy trong năm học 2015 - 2016. Trong quá trình
giảng dạy và nghiên cứu, tôi đã có những phân tích, so sánh, đối chiếu và nhận
thấy việc áp dụng các biện pháp dạy học trên rõ ràng có kết quả tốt hơn, có
nhiều ưu thế trong quá trình hướng dẫn học sinh học tập, giúp các em hoàn
thành nhiệm vụ học tập của mình.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
4.1. Đối với bản thân và đồng nghiệp trong trường.
Qua tìm tòi, nghiên cứu, vận dụng các biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 5
học tốt văn miêu tả vào thực tế dạy học, tôi thấy:
- Nhờ sự chủ động của người dạy, sự tổ chức hoạt động cho người học một
cách nhịp nhàng, hướng dẫn tỉ mỉ, hợp lí dẫn đến hiệu quả giờ dạy cao hơn.
- Bằng các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức linh hoạt khi thực hiện
các biện pháp dạy học đã nêu, giáo viên có thời gian quan tâm đến từng học
sinh. Học sinh được thực hành quan sát trên thực tế nhiều dẫn đến kết quả làm
văn miêu tả nói riêng và chất lượng môn Tiếng việt nói chung tốt hơn.
4.2. Đối với học sinh.
- Do được hoạt động độc lập, tích cực và chủ động, được quan tâm bồi dưỡng
đúng năng lực, phát huy được vốn hiểu biết để vận dụng vào viết văn nên học
sinh hào hứng, sôi nổi trong học tập. Kết quả làm bài của mỗi em có thể hiện
được dấu ấn cá nhân - Là điều quan trọng nhất trong viết văn.
- Học sinh được luyện nói nhiều, phát huy được tính độc lập sáng tạo, tự tìm tòi
khám phá và biết thể hiện cái mới, cái riêng trong bài văn.
Kết quả khảo sát sau khi thực nghiệm phần viết văn miêu tả (Tháng 3/2016):
Số HS
Mức
điểm 9 -10
Mức
điểm 7 - 8
Mức
điểm 5- 6
Mức
điểm dưới 5
17
30
SL
TL
SL
9
30,0
13
TL
43,4
SL
TL
SL
TL
8
26,6
0
0
Như vậy, qua tìm hiểu và điều tra, cho thấy các bài tập cũng như các bài
kiểm tra viết văn miêu tả, các em làm bài khá tốt. Số học sinh đạt viết văn có
hình ảnh, sử dụng các biện pháp tu từ, viết văn có cảm xúc được nâng lên rõ rệt.
Số học sinh biết viết văn miêu tả đạt 100% và điều đáng mừng là không còn học
sinh viết không đúng thể loại, kể lể, lủng củng. Chất lượng viết văn miêu tả đã
được nâng lên rõ rệt.
III/ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Môn Tiếng việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng góp phần quan
trọng trong việc hoàn thành mục tiêu giáo dục Tiểu học. Là cơ sở giúp học sinh
phát triển năng lực cá nhân, hình thành kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sản sinh văn
bản một cách khả quan.
Cùng với sự đổi mới về nội dung là việc đổi mới các phương pháp dạy học.
Đó là quá trình dạy học có sự kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học
truyền thống với các phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn sao cho phát
huy được khả năng sáng tạo, độc lập, chủ động, tích cực của học sinh trong
quá trình học tập.
Việc tổ chức cho học sinh được trải nghiệm thực tế trong quá trình dạy văn
miêu tả là một hướng đi đúng đắn, cần thiết, giúp học sinh phát triển được tư
duy và rèn hiệu quả kĩ năng diễn đạt khi làm văn.
2. Kiến nghị.
Là một giáo viên Tiểu học, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và tiến hành thực
nghiệm đối với phân môn Tập làm văn - phần viết văn miêu tả, nhằm trang bị
cho mình vốn kiến thức, kĩ năng nhất định và mong muốn thành công hơn trong
công tác của mình. Tôi thấy, muốn học sinh học tốt hơn môn Tiếng Việt, đặc biệt
là phân môn Tập làm văn, phần viết văn miêu tả, mỗi giáo viên cần:
- Tăng cường thời lượng cho học sinh quan sát thực tế trước khi cho học sinh
làm bài văn miêu tả.
- Tuy tài liệu chỉ là tham khảo trong quá trình lên lớp, song trong kế hoạch bài
học của mình, giáo viên vẫn cần nêu cụ thể hơn các hoạt động của thầy và trò,
18
cách thức tiến hành trong một tiết dạy, không nên chung chung quá, bởi điều này
phần nào gây khó khăn cho giáo viên khi lên lớp - Trong lúc tổ chức các hoạt
động học tập và phân bố thời gian.
- Bản thân giáo viên phải không ngừng học hỏi và sáng tạo trong việc sử dụng
phương pháp và tổ chức các hình thức dạy học.
Trên đây là toàn bộ nội dung nghiên cứu “ Một số kinh nghiệm giúp học
sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả ”, đã được áp dụng vào thực tế giảng dạy của
tôi và đã có chuyển biến tốt về chất lượng học sinh. Song do năng lực còn hạn
chế nên những điều tôi nghiên cứu và trình bày trong sáng kiến kinh nghiệm
chắc rằng chưa được sâu sắc và có những hạn chế nhất định. Vì vậy, tôi rất
mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp trong trường, của các cấp lãnh
đạo chuyên môn, để nội dung sáng kiến kinh nghiệm được đầy đủ hơn và được
ứng dụng vào dạy học với kết quả cao nhất.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hậu Lộc, ngày 26 tháng 4 năm 2016.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết:
Nguyễn Văn Tuấn
19