MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIẾT VĂN MIÊU
TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5 THÔNG QUA TIẾT TRẢ BÀI VIẾT
TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH KHAI I
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Những lời chúng ta nói ra hoặc viết ra khi giao tiếp với nhau gọi là ngôn
bản. Sản phẩm của Tập làm văn là các ngôn bản ở dạng nói và dạng viết theo các
dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định, Ở Tiểu học phân môn Tập
làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao, rèn cho học sinh cả bốn kỹ năng
trong đó chú trọng vào kĩ năng nghe, nói, viết. Đối với phân môn này, học sinh
phải được hình thành và rèn luyện năng lực trình bày văn bản nói và viết ở nhiều
thể loại khác nhau.
Phân môn tập làm văn được nhìn nhận với tầm quan trọng đặc biệt vì nó
mang tính thực hành cao và rèn kĩ năng trình bày văn bản cho học sinh. Qua một
đề bài cụ thể thường trải qua các tiết học: Quan sát; lập dàn ý ; làm văn nói
(miệng) ; làm văn viết ; trả bài viết (chữa bài) . Theo quy trình dạy học tập làm
văn thì tiết trả bài viết nằm ở giai đoạn cuối, nghĩa là giai đoạn “ tổng kết đánh
giá sản phẩm” vì thế ở tiết học này đòi hỏi người giáo viên sự nổ lực không
ngừng để tìm ra cách dạy sao cho học sinh cảm nhận thấy sự lý thú , ham muốn
học. Người giáo viên làm được công đoạn “đánh giá sản phẩm công bằng ,
khách quan ” qua đó học sinh có điều kiện trau chuốt , gọt dũa “ tác phẩm ” của
mình và học cách viết tốt hơn .
Song xét về góc độ thực tiễn , có thể nói rằng có mấy giáo viên quan tâm chú
ý tiết dạy “Trả bài viết ” theo đúng yêu cầu ; cũng như có mấy học sinh ý thức
được qua tiết học đó em học được gì ? hay chỉ mong được biết điểm . Vì vậy ,
dạy chưa tốt , học chưa thông thì làm sao mang lại hiệu quả chất lượng được ?
Hệ quả là học sinh tiếp tục làm văn chưa tốt là điều không thể tránh khỏi ..
Trong giảng dạy, việc nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn trả bài viết
cho học sinh lớp 5 không phải là một vấn đề đơn giản. Các em chưa có ý thức
học tập tốt những tiết học này. Đó là điều băn khoăn trăn trở trong tôi và của
không ít giáo viên khi giảng dạy “ tiết trả bài viết ” . Vì thế tôi xin nêu ra một số
biện pháp mà tôi đã rút ra từ quá trình giảng dạy, qua nghiên cứu học tập và qua
các đồng nghiệp, từ những lí do khách quan và chủ quan trên về vấn đề “Nâng
cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5 thông qua tiết trả bài viết ”
tại trường Tiểu học Minh Khai 1
1
2. Mục đích nghiên cứu:
Trước hết là giúp giáo viên đỡ lúng túng hơn trong giờ trả bài. Vì phần lớn
giáo viên đều chán và bối rối với tiết trả bài.
Thứ hai làgiúp học sinh nhận ra khuyết điểm của mình sau mỗi bài viết.
Đồng thời rèn kĩ năng sửa lỗi, rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu đúng trôi chảy hơn.
Qua đề tài này tôi hi vọng cả giáo viên và học sinh đều xem trọng “Tiết trả
bài Tập làm văn”, đừng dạy và học qua loa. Đây cũng là giải pháp khắc phục dần
những nhược điểm của học sinh trong học tập phn môn tập lm văn cũng như một
số môn học khác. Thông qua các tiết trả bài học sinh viết văn hay hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng mà đề tài tập trung nghiên cứu là phân môn Tập làm văn. Rèn kĩ
năng làm văn là mục tiêu của giờ tập làm văn. Nhưng không phải học sinh nào
cũng hình thành kĩ năng ngay. Học sinh nào cũng trãi qua những bài văn có
nhiều hạn chế khuyết điểm rồi mới có thể viết được bài văn hay hơn. Vấn đề là
người giáo viên có chỉ ra lỗi, giải thích vì sao mắc lỗi và giúp học sinh sửa lỗi
hay không. Vì vậy đề tài này tơi đưa ra một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng
viết văn miêu tả thông qua tiết trả bài viết.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết:
Đọc tài liệu trên mạng Internet, sách tham khảo.
b. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
-Dự giờ thăm lớp
-Khảo sát tình hình thực tế lớp 5C
c. So sánh đối chiếu
d. Phương pháp thực hành
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng sinh sản ngôn bản. Nó
có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy học tiếng mẹ đẻ bởi vì:
- Đây là phân môn sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và
kĩ năng tiếng Việt mà các phân môn Tiếng Việt khác: Học vần, Tập Viết, Chính
tả, Tập đọc, Luyện từ và câu đã hình thành.
- Phân môn TLV rèn cho học sinh kĩ năng sinh sản ngôn ngữ, nhờ đó tiếng
Việt không chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở
thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Như vậy, phân môn TLV đã thực hện
2
mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy HS sử dụng
được tiếng Việt để giao tiếp, tư duy, học tập.
Trong chương trình tiểu học, các bài làm văn gắn với chủ điểm của đơn vị
học. Song song với các tiết làm văn luyện nói, luyện viết thì tiết Tập làm văn trả
bài có một vị trí quan trọng vì: giờ trả bài có mục đích rèn cho học sinh kĩ năng
kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh bài viết. Đây là kĩ năng quan trọng trong hoạt
động giao tiếp. Kĩ năng đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích
giao tiếp và yêu cầu diễn đạt, sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt. Để có kĩ
năng này , học sinh phải cần tập nhận xét văn bản nói hay viết của bạn, tự sửa
chữa bài viết ở lớp, rút kinh nghiệm và tự chữa( hoặc viết lại) bài văn đã được
GV chấm, luyện tập, hình thành kĩ năng và thói quen tự điều chỉnh, tự học tập dể
luôn luôn tiến bộ. Đây chính là khâu cuối cùng để hoàn thiên kĩ năng làm văn
của học sinh.
2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sang kiến kinh nghiệm:
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là một môn học có nhiệm vụ cung
cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ, rèn cho các em sử dụng
Tiếng Việt trong nghe, nói, đọc, viết. Tập làm văn là một phân môn rất quan
trọng của môn Tiếng Việt, thông qua phân môn Tập làm văn, học sinh được rèn
về khả năng dùng từ, đặt câu một cách chính xác, độc đáo để từ đó giúp các em
có thể viết được bài văn hay, giàu tính nghệ thuật. Song song với các tiết Tập
làm văn luyện nói, luyện viết thì tiết Tập làm văn trả bài viết có một vị trí quan
trọng.
Tuy quan trọng như vậy nhưng khi dạy tiết Tập làm văn trả bài viết cho học
sinh còn có những thực trạng khó khăn như sau :
2.1. Đối với chương trình sách giáo khoa
Đối với lớp 5, phân môn tập làm văn chiếm thời lượng 2 tiết/tuần nhưng thời
lượng cho các tiết trả bài viết rất ít. Học sinh được học 3 tiết trả bài văn tả cảnh,
3 tiết trả bài văn tả người, 1 tiết trả bài văn tả đồ vật, 1 tiết trả bài văn tả cây cối,
1 tiết trả bài văn tả con vật. Như vậy trong cả năm học, học sinh được chọn trả
bài viết văn miêu tả 9 tiết với từng bộ đề cụ thể dưới nhiều hình thức chữa lỗi
như: lỗi về chính tả, lỗi dùng từ, lỗi về câu, lỗi dùng dấu câu, lỗi đoạn văn …
Điều này làm cho học sinh gặp khó khăn trong việc rèn luyện kĩ năng viết văn,
thậm chí có em làm văn chưa theo bố cục 3 phần mà các em chỉ viết theo cảm
tính của mình.
Lí thuyết trong sách giáo khoa còn chung chung, chưa cụ thể nên việc rèn
cho học sinh các kĩ năng tự sửa lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu … ít hiệu quả.
3
2.2.Đối với học sinh
- Đa số học sinh nắm được cấu tạo của bài văn nhưng vốn từ ngữ của các
em còn rất hạn chế, chưa vận dụng tốt khi viết bài cho nên cách viết của các em
còn lủng củng.
- Phần lớn học sinh sau khi đọc tham khảo các bài văn mẫu, các bài văn hay
các em không chỉ ra được cái hay, cái tinh tế của bài văn để học tập và vận dụng.
- Có rất nhiều sách Tập làm văn cho học sinh tham khảo, điều này dẫn đến
các em lười suy nghĩ mà chỉ chép nguyên văn mẫu, làm hạn chế khả năng tư duy
của các em.
- Học sinh dùng từ, viết câu, diễn đạt chưa phù hợp, chưa biết sắp xếp ý một
cách logic và cũng không biết lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh hay để sử
dụng một cách hợp lí và sinh động.
Khi dạy phân môn Tập làm văn, tôi đã ra đề để khảo sát học sinh lớp 5C
năm học 2015-2016:
“Hãy tả một cây có bóng mát đã gắn bó với em trong nhiều năm qua.”
Số học sinh được khảo sát (39 em) đã phản ánh thực trạng này như sau:
*) Về nội dung bài Tập làm văn
- 10- 15% học sinh viết văn có bố cục rõ ràng, bài viết cô đọng xúc tích.
- 50% học sinh thực hiện được yêu cầu của đề nhưng diễn đạt ý còn chưa rõ
ràng, lôgic.
- 10% học sinh còn đôi chỗ dùng từ, đặt câu, liên kết câu, đoạn chưa đạt.
Văn viết gò bó thiếu tự nhiên, ít sáng tạo.
- 25% học sinh thì sao chép nguyên bản bài của bạn hoặc văn mẫu. Thậm chí
có em bài viết còn khô khan, rời rạc, lủng củng, vay mượn.
*) Về kĩ năng:
- Trong bài văn của các em gần như cả bài nhiều em không có một dấu chấm
câu.
- Bài viết sai lỗi chính tả, đặc biệt là lỗi chính tả thông thường, bên cạnh
những lỗi chính tả vốn có của địa phương 50%.
- Diễn đạt vụng, luẩn quẩn, tối nghĩa do dùng từ viết sai, sai về nội dung do
dùng từ tối nghĩa 25%.
- Sở dĩ chất lượng bài viết của các em chưa cao do những nguyên nhân sau:
+ Học sinh đọc sách ít, vốn kiến thức ít.
+ Không nắm chắc yêu cầu của đề bài ra.
+ Chưa thấy được hết cái đích cần đạt.
4
+ Chưa biết cách liên kết câu, ý, đoạn, bài.
+ Chưa ham học nên chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng.
+ Do phương pháp dạy của giáo viên khiến học sinh thụ động tiếp thu, giáo
viên chưa động viên được học sinh.
+Do các tiết học (phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn, viết đoạn) chưa ăn
khớp với nhau, chưa có tính hệ thống chặt chẽ.
+ Việc chấm bài của giáo viên cũng chưa chỉ ra được lỗi của học sinh một
cách khoa học, nhất quán.
+ Việc kiểm tra học sinh sửa lỗi trong vở Tập làm văn trên lớp cũng như ở
nhà của giáo viên còn hạn chế.
+ Ngay việc tự học, tự nâng cao kiến thức cũng như xây dựng một thiết kế
tiết dạy trả bài của một số giáo viên còn chưa đúng mức.
Tóm lại việc khảo sát chất lượng đầu năm để phân loại học sinh là biện pháp
cần làm ngay để từ đó giáo viên có biện pháp cụ thể, chi tiết, sát đối tượng hơn
nữa trong giảng dạy nói chung, trong mục đích tiến hành giờ trả bài Tập làm văn
nói riêng.
3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để một giờ trả bài thành công tôi xin nêu ra 3 vấn đề cụ thể cần giải quyết:
+ Chấm bài
+ Thiết kế bài dạy.
+ Lên lớp
* Những biện pháp giúp giáo viên dạy tốt tiết Tập làm văn trả bài viết:
3.1. Chấm bài
Tuy chấm bài là yếu tố quan trọng làm cơ sở cho tiết trả bài. Tiết trả bài có
thành công hay không ? Học sinh có thấy được đúng sai trong bài làm của em đó
hay không ? Đều được bắt đầu bằng việc chấm. Đó chính là phần chuẩn bị của
giáo viên.
Song song với việc chấm bài kỹ là sổ chấm bài. Sổ chấm bài có tác dụng
thống kê các loại lỗi để tìm ra lỗi phổ biến, ghi chép những sai, đúng cụ thể của
từng học sinh làm tư liệu để phục vụ cho việc nhận xét và hướng dẫn chữa lỗi..
Nhưng trước hết muốn ghi chép đúng thì giáo viên phải chấm kỹ, bám sát yêu
cầu mà chuẩn kiến thức và kĩ năng đã đề ra, đưa ra một biểu điểm để đảm bảo
tính khoa học , khách quan, vô tư. Từ đó thấy được ưu và nhược điểm của bài
viết. Đồng thời sổ này giúp giáo viên so sánh đối chiếu những bài sau so với
những bài trước xem sự dứt điểm của từng loại lỗi đã làm được chưa ? Làm đến
5
đâu ? Sự tiến bộ của các em đạt đến mức độ nào? Số được trình bày theo bảng
sau:
Các loại lỗi sai
Tên học sinh Dẫn chứng
Hướng sửa lỗi
1. Bố cục
2. Không đúng yêu cầu
của đề bài
3.Lỗi chính tả, lỗi dùng từ
4. Lỗi diễn đạt
5. Lỗi viết câu
Cuối bảng giáo viên ghi rõ cần dứt điểm loại lỗi nào trong bài viết, kế tiếp
việc này được nêu ở tiết trả bài phần củng cố, học sinh sẽ thấy được để ở giờ
sau phấn đấu đạt kết quả tốt hơn. Như vậy việc làm từng bước ấy rõ ràng không
bị miên man kéo dài.
3.2. Thiết kế bài dạy:
Thiết kế bài dạy cũng là yếu tố chuẩn bị quan trọng, nó là cơ sở của giờ lên
lớp giúp giáo viên lựa chọn nội dung và cách tiến hành tiết trả bài. Tính kỹ
lưỡng và tính khoa học trong bài soạn là yếu tố giúp giáo viên thành công và học
sinh tiếp thu bài tốt. Nhưng qua khảo sát bài của học sinh, khảo sát giáo án của
đồng nghiệp, dự giờ bạn, tôi thấy thiết kế của một số giáo viên còn chung chung,
chưa thể hiện được tính ưu việt, tính sáng tạo trong giáo án, chưa thể hiện được
sự khắc phục tồn tại của giáo viên. Tôi đã mạnh dạn thiết kế bài học như sau:
Theo nguyên tắc chung, thiết kế bài học gồm đủ các phần:
I.Mục tiêu:
II.Đồ dùng dạy - học:
III.Các hoạt động dạy-học chủ yếu:
Hoạt động 1: Nhận xét kết quả bài làm của HS: 12- 15 phút
Hoạt động 2: Hướng dẫn HS chữa bài: 18- 20 phút
Hoạt động 3: GV đọc những đoạn văn, bài văn hay cho HS nghe.
Hoạt động 4 Mỗi HS chọn 1 đoạn văn viết chưa đạt viết lại cho hay hơn.
Hoạt động nối tiếp: 1-2 phút
Trong phần 1 phải ghi rõ 3 yêu cầu của tiết học dựa theo cuốn chuẩn kiến thứckĩ năng quy định:
- Kiến thức
- Kỹ năng
- Giáo dục
Trong bước 3 (bài mới) được tiến hành theo các bước sau:
6
a. Giáo viên nhận xét bài làm của học sinh:
- Ghi đề bài lên bảng phải làm đầu tiên trong tiết học, việc làm này nhắc lại,
gợi nhớ lại đề bài các em đã làm tiết trước, nó tác động đến bộ nhớ của các em
về vấn đề cần giải quyết trong tiết học.
- Giúp học sinh xác định lại yêu cầu của đề bài để tự đối chiếu với kết quả
bài viết xem đã thực hiện được đến đâu.
Sau khi chép xong đề lên bảng thì tiến hành bước xác định đề mang tính
trực quan nối tiếp. Một lần nữa giúp các em nắm chắc yêu cầu của đề bài. Từ đó
các em có thể so sánh và đã có thể hình dung ra mình đúng như thế nào ? Mình
thiếu những gì? Để từ đó mà các em dễ dàng nắm được ưu và nhược điểm của
bản thân.
- Nêu rõ ưu khuyết điểm của học sinh trong việc thực hiện yêu cầu của đê bài
( dẫn chứng cụ thể qua bài viết được giáo viên chấm và theo dõi qua sổ thống kê
lỗi của giáo viên); kết hợp với nhận xét về chữ viết và cách trình bày bài văn,
công bố kết quả điểm số và biểu dương học sinh có bài làm tốt hoặc bài làm có
tiến bộ. Giáo viên nên công bố tên học sinh có ưu điểm, không cần thiết nêu tên
học sinh có khuyết điểm.
b. Hướng dẫn học sinh chữa bài:
Căn cứ vào kết quả bài làm của học sinh, giáo viên có thể tiến hành việc
hướng dẫn học sinh chữa bài sao cho linh hoạt và đạt hiệu quả thiết thực theo
các cách sau:
- Trả bài làm cho học sinh, yêu cầu học sinh đọc thầm lại toàn bộ bài làm, lời
nhận xét chung và những chỗ lưu ý cụ thể của giáo viên trong bài viết.
- Hướng dẫn học sinh chữa lỗi chung về nội dung( sai, thiếu ý hoặc chi
tiết, sự việc...) và hình thức( về bố cục, về cách dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả...)
- Tổ chức cho học sinh tự chữa bài làm của cá nhân, sau đó đổi bài để kiểm
tra, giúp đỡ nhau về việc chữa lỗi.
- Đọc cho học sinh nghe những câu văn hay, đoạn văn hay, bài văn hay, để
giúp các em vận dụng vào bài viết của mình từ đó giúp cho bài viết của các em
giàu hình ảnh, cô đọng, xúc tích. Gợi ý học sinh nhận xét, trao đổi để học tập
những ưu điểm trong bài văn của bạn (về bố cục, sắp xếp ý, diễn đạt, dùng từ đặt
câu, sử dụng biện pháp nghệ thuật)
- Hướng dẫn học sinh chọn viết một đoạn văn trong bài làm cho tốt hơn (Đây
là bước dành cho học sinh khá, giỏi)
Tuỳ điều kiện thời gian cho phép, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực
hiện yêu cầu này tại lớp hoặc luyện tập thêm ở nhà để nâng cao kĩ năng viết văn.
7
Đoạn văn học sinh chọn để viết lại cho tốt hơn có thể là đoạn văn còn mắc lỗi
( chính tả, dùng từ, đặt câu..., đoạn viết chưa hay. )
3.3.Lên lớp:
3.3.1. Các biện pháp hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài văn
a.. Chữa lỗi về làm bài không đúng yêu cầu ( lạc đề):
Ví dụ: Tả hoạt động của người em yêu mến.
Học sinh lại đi sâu tả hoạt ngoại hình mà không chú ý tới tả hoạt động.
Loại lỗi này học sinh ít mắc. Nhưng với học sinh mắc lỗi, tôi thường giúp xác
định lại yêu cầu của đề rồi viết lại bài văn đó theo yêu cầu đã nhận ra
b.. Chữa lỗi về bố cục:
Trước tiên tôi hỏi về bố cục thông thường của một bài văn, sau đó
cho học sinh đối chiếu với bài của mình xem đã đủ về bố cục chưa? Nếu chưa đủ
thì còn thiếu phần nào? Em cần sửa ra sao? Giáo viên hướng dẫn học sinh chữa
lỗi về mở bài, kết bài (Theo cách đã học), về thân bài( sắp xếp ý theo trình tự đã
học một cách hợp lí. Sau đó tổ chức cho học sinh tiến hành sửa lỗi cá nhân và
trao đổi bài cho nhau để cùng kiểm tra trao đổi kinh nghiệm.
Ngoài ra,ở phần này học sinh thường không biết tách giữa mở bài với thân
bài hoặc giữa thân bài với kết bài. Vì vậy khi sửa lỗi về bố cục, tôi gợi ý cho học
sinh nhớ lại dàn ý của bài.Từ đó học sinh sẽ tách được đoạn văn viết lẫn hoặc
viết được đoạn văn còn thiếu trong bài văn.
c. Chữa lỗi về chính tả
Khi học sinh tìm ra lỗi chính tả mà mình viết sai, cô giáo đã gạch chân trong
vở, giáo viên cần giúp các em cách phân biệt chính tả, giúp các em viết đúng.
Ví dụ 1: Đề bài “Tả một cơn mưa”, SGK- TV5- tập 1, có học sinh viết như
sau :
Sau cơn mưa, những luống rau sanh ngắt trông thật thích mắt.
Trong các câu trên, do học sinh viết sai chính tả từ sanh ngắt thay từ sanh
ngắt thành từ xanh ngắt.
Ví dụ 2 : “Tả một em be đang tuổi tập nói, tập đi”, SGK- TV5- tập 1, có học
sinh viết :
1. Bé Lan có đôi mắt chòn xe và đen láy như hai hột nhãn.
2. Bé Lan rất thích đi, bé đi chưa vững nên hay bị ngả.
Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi sai trong các câu trên và yêu cầu
các em sửa lại cho đúng chính tả. Hai câu trên được sửa lại như sau:
1. Bé Lan có đôi mắt tròn xoe và đen láy như hai hột nhãn.
2. Bé Lan rất thích đi, bé đi chưa vững nên hay bị ngã.
8
Khi chữa lỗi giáo viên kẻ bảng thành hai cột
Lỗi chính tả
Cách viết chính tả đúng
d.. Chữa lỗi về cách dùng từ:
Dạng 1 : Dùng từ không đúng nghĩa
Đó là việc sử dụng từ ngữ một cách tùy tiện do học sinh không hiểu rõ nghĩa của
các từ cần miêu tả, gây cho người đọc người nghe khó hiểu trước nội dung muốn
thể hiện của người viết. Nguyên nhân của việc dùng từ không đúng nghĩa là do các
em chưa hiểu được nghĩa của từ mình đang dùng, nhầm lẫn giữa các từ gần
nghĩa, không nắm được sắc thái biểu cảm của từ.
Ví dụ 1 : Đề bài “Tả một người bạn than của em SGK- TV5- tập 1, có học
sinh viết : Mỗi khi cười, Hà để lộ hàm răng trắng xóa rất có duyên. Trong
trường hợp này, các em dùng từ trắng xóa là thiếu chính xác. Từ trắng xóa dùng
để chỉ độ trắng của tuyết hoặc của bọt nước. Còn chỉ độ trắng của hàm răng thì
dùng từ trắng bóng hoặc trắng sáng là thích hợp. Câu trên được sửa lại như sau:
Mỗi khi cười, Hà để lộ hàm răng trắng bóng rất có duyên.
Ví dụ 2 : Đề bài “Tả một cảnh đẹp ở địa phương em” – SGK- TV5 - tập 1, có
học sinh đã viết như sau :
a. Cánh đồng như rộng hơn bởi sự uốn lượn của những đợt sóng lúa. Cảnh
thiên nhiên tươi đẹp ấy làm tăng thêm vẻ yên tĩnh cho quê hương.
b. Không khí trong trắng của quê hương đã khiến tâm hồn em trở nên sảng
khoái hơn.
Ở đây do học sinh không nắm được nghĩa của các từ mà sử dụng tùy tiện
khi viết câu gây khó hiểu cho người đọc, người nghe. Ở câu (a) học sinh đã dùng
sai từ yên tĩnh, ở câu b các em dùng sai từ trong trắng.
Khi gặp những lỗi này, tôi đưa ra những câu dùng đúng từ yên tĩnh ; yêu
cầu học sinh xác định từ loại của nó ; từ đó giúp các em hiểu được cách dùng từ
như vậy là sai ; đồng thời giải thích cho các em về ý nghĩa của câu văn và hướng
dẫn các em có thể thay từ yên tĩnh bằng từ thanh bình. Đối với câu b, tôi cho học
sinh nêu nghĩa của từ trong trắng và yêu cầu các em đặt câu với từ đó. Sau đó
yêu cầu học sinh tự sửa lại câu trên bằng cách thay từ trong trắng bằng từ trong
lành.
Ví dụ 3 : Khi tả cái đồng hồ báo thức, có học sinh đã viết : “Bác đồng hồ
đeo trên mình bộ quần áo màu xanh nước biển.”
Trong trường hợp này, tôi đặt câu hỏi gợi mở để giúp học sinh phát hiện lỗi
sai và sửa lỗi như sau :
+ Câu văn của bạn đã bị mắc lỗi gì ? (Dùng sai từ đeo)
9
+ Các em nên thay từ đeo bằng từ nào phù hợp hơn ? (thay từ đeo bằng từ
mang, khoác …)
+ Sửa lại : Bác đồng hồ khoác trên mình bộ quần áo màu xanh nước biển.
Dạng 2 : Dùng từ sai do kết hợp
Khi viết, các em sử dụng sai từ ngữ khi kết hợp làm cho câu văn sai về
nghĩa hoặc vô nghĩa. Nguyên nhân của việc dùng sai từ là do học sinh không
nắm được nguyên tắc phối hợp từ, mối quan hệ giữa hai vế câu ghép, mối quan
hệ giữa các từ trong câu.
Ví dụ : Khi làm bài văn tả cảnh một số học sinh đã viết như sau:
a. Con đường làng từ nhà đến trường rất đỗi thân thuộc với em nhưng em
chẳng muốn rời xa.
b.Cánh đồng bước vào mùa thu hoạch, bà con nông dân đã nô nức gặt lúa.
Trong ví dụ (a), do học sinh không nắm được ý nghĩa của câu ghép có cặp
quan hệ từ chỉ nguyên nhân – kết quả nên các em đã kết hợp sai từ nhưng với từ
vì (đã bị lược đi). Khi gặp lỗi trên, tôi yêu cầu học sinh nhắc lại ý nghĩa của các
cặp quan hệ từ, từ đó giải thích cho học sinh biết không có cặp quan hệ từ vì –
nhưng và sửa lại bằng cách thay từ nhưng thành từ nên.
Đối với câu (b), tôi tiếp tục cho học sinh nêu nghĩa của câu trên và yêu cầu
học sinh nêu cách dùng từ đã để học sinh nắm được đã dùng để nói về những sự
việc đã qua nên không thể viết đã gặt lúa trong khi đang vào mùa gặt. Tiếp theo
tôi cho học sinh tự sửa lại bằng cách bỏ từ đã hoặc thay từ đã bằng từ đang.
Hai câu văn trên được sửa lại như sau :
a. Con đường làng từ nhà đến trường rất đỗi thân thuộc với em nên em
chẳng muốn rời xa.
b.Cánh đồng bước vào mùa thu hoạch, bà con nông dân nô nức gặt lúa.
Dạng 3 : Dùng từ sai do lặp từ
Do vốn từ của học sinh còn nghèo nàn nên các em chưa biết sử dụng các từ
đồng nghĩa để thay thế cho nhau. Vì vậy trong bài viết của mình các em thường
lặp lại từ ngữ làm cho câu văn lủng củng, không mạch lạc. Có hai dạng lặp từ đó
là: lặp từ hoàn toàn và lặp từ đồng nghĩa.
Ví dụ 1 : Đề bài “Tả một người thân (ông, bà, cha, mẹ, anh, em …) của
em”, SGK- TV5- tập 1, có học sinh viết : “Khuôn mặt trái xoan bác rất đẹp, làn
da của bác trắng hồng, mái tóc của bác đen bóng và suông thẳng.”
Trong ví dụ này, học sinh đã dùng lặp lại 3 lần cụm từ “của bác ” gây nhàm
chán cho người đọc, người nghe. Trong trường hợp này, tôi hướng dẫn học sinh
nhắc lại cách liên kết câu bằng phương pháp thế ; sau đó cho các em dùng các từ
10
khác có thể thay thế cho cụm từ “của bác ” mà nội dung của câu đó không thay
đổi. Các em sẽ dễ dàng tìm được các cụm từ thay thế đó là: “bác có làn da trắng
hồng”, “mái tóc đen bóng và suông thẳng ấy”. Câu văn trên được sửa lại như
sau: Khuôn mặt trái xoan của bác rất đẹp, làn da trắng hồng, mái tóc đen bóng
và suông thẳng tôn lên vẻ phúc hậu, rạng ngời cho bác.
Ngoài ra, tôi cũng có thể hướng dẫn các em sử dụng câu đơn có nồng cốt câu
là một chủ ngữ - nhiều vị ngữ hoặc nhiều chủ ngữ - một vị ngữ, các em sẽ nhận
biết và viết được câu không bị lặp lại từ. Câu văn trên có thể sửa lại bằng nhiều
cách như sau :
+ Bác em có khuôn mặt trái xoan, làn da trắng hồng, mái tóc đen bóng và
suông thẳng.
+ Khuôn mặt trái xoan, làn da trắng hồng, mái tóc đen và suông thẳng làm
tôn lên vẻ đẹp rạng ngời của bác.
Ví dụ 2 : Đề bài “Tả cảnh đẹp ở địa phương em”, GSK- TV5- tập 1, có học
sinh viết : “Cánh đồng lúa quê em rộng bao la, bát ngát.”
Ở trường hợp này, các em đã dùng lặp lại từ đồng nghĩa bao la, bát ngát.
Tôi cho học sinh tìm các từ khác thay thế từ đồng nghĩa hoặc có thể bỏ bớt đi
một từ và giải thích để các em hiểu rằng không nên viết các từ đồng nghĩa trong
cùng một câu vì như thế sẽ làm giảm đi hình ảnh đẹp của câu văn. Trong câu
này, các em có thể tìm từ thay thế như thẳng cánh cò bay hoặc có thể bỏ bớt đi
một trong hai từ mà ý của câu văn không hề thay đổi, câu văn trở nên ngắn gọn
và xúc tích hơn. Câu văn có thể sửa lại như sau :
+ Cánh đồng lúa quê em rộng bát ngát.
+ Cánh đồng lúa quê em rộng thẳng cánh cò bay.
Việc phát triển kỹ năng sử dụng từ ngữ trong viết văn cho học sinh lớp 5 là
hết sức quan trọng và có ý nghĩa. Điều đó giúp các em không chỉ viết đúng mà
còn hướng tới việc viết văn hay, góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân
môn Tập làm văn ở lớp 5.
e. Chữa lỗi về câu, đoạn văn, diễn đạt
Các lỗi về câu thường gặp ở tiểu học là câu thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ, câu
chỉ có thành phần phụ chỉ địa điểm hoặc thời gian, nguyên nhân, kết quả... Thiếu
thành phần chính ( tức là cả cụm chủ vị ), nêu ý chưa chọn vẹn (câu cụt), câu có
nhiều từ ngữ thừa, rườm rà, lủng củng. Cách chữa: giáo viên kẻ bảng thành ba
cột.
CÂU SAI
LỖI NGỮ PHÁP
CÂU ĐÃ ĐƯỢC SỬA
THÀNH CÂU ĐÚNG
11
Ví dụ 1: Học sinh đọc câu lủng củng của mình lên.
Trong nhà em có một người mà em rất yêu mến, đó là bà em rất kính yêu.
Em có nhận xét gì về cách diễn đạt nội dung? ( diễn đạt nội dung rườm rà).
Em có thể sửa như thế nào? ( Trong nhà em, bà là người thật đáng kính).
Ví dụ 2: Đứng trước cảnh đẹp hùng vĩ của dãy núi Yên Phụ. Em cảm thấy
trong lòng đang cố gắng đưa quê hương Kinh Môn giàu đẹp hơn.
- Đoạn văn của em đã được chưa? Sai ở đâu?
( Chấm câu sai, sau từ "Yên Phụ" thay bằng dấu phẩy).
- Còn sai ở đâu nữa? (dùng từ chưa sát nghĩa " em cảm thấy...").
Cụm từ " em cảm thấy..." Cần phải thay bằng cụm từ nào cho sát nghĩa hơn?
( Cần phải thay bằng cụm từ: " em càng thêm yêu quê hương đất nước và quyết
tâm học tốt để đưa quê hương Kinh Môn ngày một giàu đẹp hơn")
Em hãy nhận xét câu đã được sửa và câu chưa sửa?
Tôi có thể thay đổi hình thức sửa bằng cách cho hai em đổi vở cho nhau để
tìm ra lỗi sai kết hợp cùng giáo viên để tìm ra cách sửa sai.
- Với hình thức này, tôi cho học sinh tạo thành nhóm đôi theo năng lực hoặc
đôi bạn cùng tiến. Các em đổi vở, đọc bài của bạn, phát hiện lỗi, nêu lỗi và
hướng sửa, trao đổi xem bạn có đồng ý với cách sửa như vậy không , ngoài ra
còn có thể phát hiện thêm một số lỗi giáo viên bỏ sót. Sau đó cùng trao đổi, kiểm
tra, chia sẻ kinh nghiệm làm bài và chữa lỗi với bạn.
Hoặc cho các em thảo luận trong nhóm để tìm ra cách sửa sai.
- Với cách làm này tôi thường chia nhóm theo năng lực, sở trường của học
sinh rồi giao việc:
+ Nhóm học sinh học : Tìm lỗi chính tả của các bạn trong nhóm rồi thảo luận,
tìm cách sửa.
+ Nhóm học sinh : Tìm từ dùng sai, câu lủng củng...rồi tìm cách sửa.
+ Nhóm học sinh với yêu cầu cao hơn: Tìm câu hay trong bài của bạn, thêm
hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa để câu văn được sinh động hơn, hoặc chuyển
mở bài trực tiếp thành gián tiếp, kết bài không mở rộng thành kết bài mở
rộng...Sau đó đọc lại bài đã sửa và đọc mẫu cho cả lớp tham khảo.
Tóm lại: Hệ thống câu hỏi dành cho phần này là làm cho học sinh chỉ ra
được.
- Câu sai ở đâu?
- Lý do sai?
- Nêu cách sửa.
12
Và đặc biệt với phần chữa lỗi bao giờ tôi cũng đảm bảo chữa từ lỗi dễ, lỗi
đơn giản đến những lỗi khó, phức tạp.
Ví dụ: Trong một giờ trả bài
1- Chữa lỗi về bố cục.
2- Chữa lỗi về chính tả
3- Chữa lỗi về cách dùng từ
4- Chữa lỗi về câu, về đoạn văn, cách diễn đạt nội dung.
Về cách diễn đạt, nó là một loại lỗi bao quát nhiều vấn đề. Cho nên cần xắp
xếp nó ở bài tập thứ tư trở đi nó thuộc câu, đoạn, lỗi khó. Đôi khi chỗ này phải
kết hợp với phương pháp diễn dịch , giảng giải để làm sáng tỏ vấn đề cho học
sinh.
* Song song với việc chữa lỗi và đọc cho học sinh nghe những câu văn hay,
đoạn văn hay để giúp các em học tập. Đồng thời người giáo viên còn phải hướng
dẫn các em biết cách lựa chọn chi tiết diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh và sử
dụng một số biện pháp tu từ đã học để giúp các em những bài viết cô đọng, giàu
hình ảnh.
Ví dụ 1: Khi tả mái tóc, khuôn mặt:
- Mái tóc dài mượt mà buông thả thướt tha như dòng suối.
- Mái tóc đen nhánh mượt mà như dòng suối ôm lấy khuôn mặt trái xoan hồng
hào của cô, thật dễ mến.
Hoặc khi tả hàm răng, nước da, giọng nói tính hình thì giáo viên hướng dẫn
các em:
- Hàm răng trắng đều như hạt bắp.
- Nước da trắng như trứng gà bóc- Cô hiền như cô Tấm trong truyện cổ tích
- Giọng cô nói êm dịu như lời mẹ ru.
Ví dụ 2: Khi tả về vẻ đẹp của dòng sông quê hương:
- Nhìn từ xa, dòng sông như một dải lụa hiền hoà ôm ấp làng xóm quê em.
- Dòng sông quê em chảy hiền hoà, chở nặng phù sa…
3.3.2. Đọc đoạn văn hay cho học sinh tham khảo:
Bài văn, đoạn văn được đọc cho cả lớp nghe cần đảm bảo có chất lượng cả về
nội dung lẫn hình thức thể hiện. Bài được đọc trước lớp phải giúp học sinh học tập
được về cách chọn ý, sắp xếp ý cũng như thể hiện ý. Để làm tốt phần này, trong quá
trình giảng dạy tôi đã chọn bài đọc từ hai nguồn : Bài viết của lớp và bài viết bên
ngoài (bài của học sinh những năm học trước).
Đối với nguồn thứ nhất, tôi sử dụng bài viết của học sinh trong lớp sẽ tạo được
niềm hưng phấn cho các em. Học sinh có bài được tuyên dương đọc trước lớp sẽ rất
13
phấn khởi và các em trong lớp cũng cảm thấy tự hào vì có được người bạn có bài
viết hay, kích thích sự phấn đấu trong học tập của cả lớp. Tuy nhiên khi sử dụng bài
viết của học sinh trong lớp, giáo viên chỉ nên cho đọc từng đoạn nhỏ, ngắn. Có như
vậy mới làm nổi bật được ưu điểm trong đoạn văn viết của các em. Vấn đề tiếp theo
là chọn người đọc. Thường lệ, tôi để chính em học sinh viết đoạn văn đọc trước lớp
vì việc làm này sẽ là một động viên rất lớn cho em học sinh đó. Tuy nhiên, giáo
viên cũng cần lưu ý học sinh đó phải có giọng đọc rõ ràng, to, lưu loát và diễn cảm.
Nếu học sinh có bài viết tốt nhưng đọc chưa hay thì cũng không nhất thiết phải để
em đó đọc, dễ gây phản tác dụng.
Khi chọn bài đọc từ nguồn thứ hai, tôi lựa chọn bài văn tiêu biểu, đáp ứng yêu
cầu sư phạm của nhà trường, chọn những đoạn văn ngắn cho phù hợp với yêu cầu
của bài viết, giúp học sinh học tập được những điểm hay của bài văn.
Với mục đích đọc đoạn văn hay để giúp các em học hỏi những điều bổ ích về
cách viết văn, giáo viên không chỉ dừng lại ở việc đọc đoạn văn mà cần phải hướng
dẫn học sinh nhận ra những điểm hay về cách dùng từ, đặt câu, cách hành văn độc
đáo.
Khi hướng dẫn, giáo viên có thể sử dụng phương pháp đối thoại giữa thầy và
trò hoặc gợi mở để cho cả lớp làm việc theo nhóm. Tuy nhiên giáo viên cần tính
đến thời gian trong tiết học để chọn ra giải pháp tối ưu vừa đảm bảo thời gian vừa
đảm bảo chất lượng nội dung bài học và rèn luyện được kĩ năng viết văn cho học
sinh.
3.3.3. Hướng dẫn học sinh viết lại đoạn văn cho hay hơn:
Để giúp học sinh biết viết lại một đoạn văn trong bài viết của mình cho hay
hơn, tôi hướng dẫn các em theo các bước sau:
- Học sinh đọc lời nhận xét của giáo viên và chọn ra một đoạn chưa hay trong
bài viết của mình (có thể là đoạn mở bài, đoạn kết bài hoặc một đoạn trong phần
thân bài) để viết lại cho hay hơn.
- Khi viết lại đoạn mở bài, kết bài, học sinh có thể viết theo kiểu mở bài gián
tiếp và kết bài theo kiểu mở rộng.
- Nếu viết lại đoạn văn ở phần thân bài thì đoạn văn phải có câu mở đầu nêu ý
bao trùm của đoạn. Các câu trong đoạn cùng làm nổi bật ý đó. Đoạn văn phải có
hình ảnh, có những chi tiết nổi bật, những liên tưởng thú vị, các biện pháp so sánh,
nhân hóa ... Đoạn văn cần thể hiện được cảm xúc của người viết.
Sau khi học sinh viết xong, giáo viên gọi một số em lên trình bày trước lớp
đoạn văn vừa viết lại. Giáo viên cần hướng dẫn các em nhận xét để tìm ra cái mới,
cái hay trong đoạn văn vừa viết lại để cả lớp học tập và rút kinh nghiệm cho những
bài viết sau.
14
4. Hiệu quả của SKKN:
a. Kiểm nghiệm:
Khảo sát bằng số liệu thống kê:
Với kinh nghiệm đã trình bày ở trên tôi tiến hành khảo sát chất lượng trên lớp
với hai đề bài.
Quá trình thực nghiệm theo các bước sau:
*Bước một: Tôi ra đề bài tập làm văn ở tuần 11, 20 trong chương trình lớp 5
(các em đang học thể loại văn này).
Đề bài 1: Hãy tả một cảnh đẹp quê hương
Đề bài 2: Hãy tả hoạt động của một người mà em yêu thích.
* Bước 2: Chấm vở của lớp 5C . Kết quả được đánh giá như sau:
Chất lượng bài viết
Đề 1
Đề 2
- Học sinh nắm được yêu cầu của đề
100%
100%
- Bố cục rõ ràng
100%
100%
- Biết cách dùng từ, đặt câu, liên kết câu, đoạn, ít mắc lỗi 76%
74%
chính tả
- Bài viết sinh động sáng tạo
64%
60%
- Số học sinh sao chép văn bản mẫu
0%
0%
- Học sinh lười học, lười sửa lỗi, ít tiến bộ
0%
0%
- Số học sinh làm lạc đề.
0%
0%
* Bước 3: Thiết kế bài giảng tiết trả bài (đề bài trên) và tiến hành giảng ở lớp
5C .
Kết quả cho thấy:
- Học sinh hoạt động nhịp nhàng giữa thầy và trò, học sinh tiếp thu bài một
cách chủ động. Biết tìm ra lỗi sai của mình và chỉ ra được cách sửa.
Ngược lại học sinh lớp 5 ở các năm về trước các em thụ động ngồi nghe cô
giảng. Khi yêu cầu các em tìm ra cái sai trong bài của mình thì các em tỏ ra lúng
túng và hoang mang. Khi cô chỉ ra được cái sai, yêu cầu các em sửa thì các em
lại rơi vào bế tắc. Do các em chưa hiểu mình sai như thế nào? Chữa lại ra sao?
Tại sao lại như thế?
b. Kết quả
Qua việc thực hiện tiến trình cải tiến bài giảng, thiết kế bài dạy, chấm bài và
lên lớp, với sự vận dụng linh hoạt và phương pháp phát huy trí tuệ và trí lực của
học sinh đã nêu, đối chiếu với kết quả khảo sát đầu năm thì chất lượng được tăng
lên rõ rệt.
- Số bài đạt tăng 37 %
15
- Không còn bài không đạt yêu cầu.
Đồng thời đối chiếu kết quả bài làm giữa hai lớp đối chứng và thực nghiệm
thì chất lượng của lớp thực nghiệm được nâng lên rõ rệt (nhìn vào bảng thống kê
kết quả, khảo sát ta sẽ thấy rõ).
Tôi tiếp tục đối chiếu với các bài viết hàng tháng và qua các bài khảo sát
chất lượng định kì các lần kiểm tra môn Tiếng Việt thì bài làm của lớp 5C tôi
chủ nhiệm đã có nhiều tiến bộ.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Qua kết quả thử nghiệm và quá trình vận dụng giảng dạy tiết trả bài theo
cách trên, tôi muốn khẳng định rằng, tiết trả bài là khâu rất quan trọng trong quá
trình hoàn thiện bài văn hay, diễn đạt gẫy gọn hơn cho tiết sau. Trong tiết này thì
khâu chấm bài, nhận xét của bài viết của học sinh lại rất quan trọng, làm sao chỉ
ra lỗi cho học sinh công nhận, khi hiểu được rồi học sinh sẽ biết cách sửa và
không mắc lại hoặc rất ít mắc lại. Người giáo viên phải biết kết hợp giữa thầy và
trò, tôn trọng quy tắc " thầy chủ đạo, trò chủ động ...". Soạn bài, chấm bài, giảng
bài không hời hợt qua loa.
Thông qua các đợt hội giảng, các buổi chuyên đề và đặc biệt qua các tiết
dạy của tôi. Hội đồng sư phạm nhà trường đã họp và đánh giá, nhận xét về việc
áp dụng phương pháp giảng dạy mới trong dạy Tập làm văn là đạt chất lượng
tốt. Việc đánh giá của hội đồng sư phạm chứng tỏ rằng:
- Việc dạy Tập làm văn trả bài cho học sinh lớp 5 bằng cách để các em tự
tìm ra cái sai của mình kết hợp với hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi mở của giáo
viên giúp các em tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn những lỗi sai để lần sau các
em không bị mắc lại nữa.
- Học sinh chủ động tiếp thu kiến thức để từ đó rèn luyện được kỹ năng
nghe - nói - viết.
- Việc chuẩn bị chu đáo và đầy đủ của giáo viên và học sinh trước mỗi bài
học là rất cần thiết góp phần làm cho giờ học thêm sôi nổi đạt kết quả cao.
Thông qua giờ học cần xây dựng phong cách học cho học sinh: Không nói leo,
không nhìn bài của bạn, không lơ là trong học tập, suy nghĩ, tìm tòi cái mới, độc
lập suy nghĩ và sáng tạo trong học tập.
- Việc dạy tiết Tập làm văn trả bài là vấn đề không đơn giản như quan niệm
của một số đồng chí giáo viên mà nó đòi hỏi sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo trong
dạy học của giáo viên.
- Đề tài giúp cho học sinh nắm vững cách viết văn thông qua việc sữa lỗi về
16
chính tả, cách dùng từ, đặt câu, lỗi diễn đạt...Rèn luyện cho các em cách viết văn
hay, giàu hình ảnh, mang tính nghệ thuật, tính sáng tạo. Bên cạnh đó đề tài còn
giúp các em nhận ra một bài văn có điểm nào hay, điểm nào chưa hay và sửa như
thế nào cho phù hợp để mang lại hiệu quả cao. Điều này rất cần thiết cho các em
ở mọi bậc học.
Trong năm học này, việc tập trung chỉ đạo quản lí, tổ chức dạy học và đánh
giá kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng, tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy học là trọng tâm để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Thông qua phân môn Tiếng việt cụ thể là thông qua tiết Tập làm văn trả bài của
học sinh lớp 5. Kinh nghiệm của tôi được áp dụng cho học sinh trường tiểu học
tôi đang dạy và đặc biệt là học sinh lớp 5.
2- Kiến nghị :
Đối với giáo viên:
- Phải phân loại được các đối tượng học sinh, nắm được lỗi điển hình của
từng em, lỗi điển hình của lớp. Từ đó có hướng cụ thể, đề ra biện pháp cụ thể.
- Phải làm tốt khâu chấm bài, chỉ ra những lỗi sai của từng câu, từng bài thể
hiện trong bài làm của học sinh.
- Phải khen thưởng, động viên kịp thời những em có bài văn hay, để cho lớp
học tập bạn. Từ đó nhân điển hình của lớp lên.
- Thiết kế bài dạy phải có đổi mới. Trong bước bài mới phải thực hiện đúng
tiến trình như đã nêu, nhằm đảm bảo tính khoa học.
- Đặc biệt phải trú trọng đến tình hình chữa lỗi cho các em, phải biết kết hợp
các phương pháp dạy học với hệ thống câu hỏi mang tính gợi mở để thực hiện
tốt phần này.
- Giáo viên cần khuyến khích học sinh tích cực học tập, tích cực đào sâu suy
nghĩ để chủ động tiếp thu tri thức
- Giáo viên lên lớp và soạn bài không nhất thiết phải phụ thuộc hoàn toàn
vào sách hướng dẫn mà người giáo viên cần suy nghĩ tìm phương pháp giảng
dạy mới cho từng bài học phù hợp với sự nhận thức của học sinh lớp mình dạy
và tuân thủ theo cuốn chuẩn kiến thức kĩ năng đang hiện hành.
Cần kiểm tra kĩ giáo án phần Tập làm văn cụ thể ở tiết trả bài vì đây là vai trò
cuối cùng của phần giảng dạy môn Tập làm văn.
Bên cạnh đó nhà trường, gia đình, xã hội cần phải quan tâm tới tài liệu cho
phân môn này.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi về dạy Tập làm văn tiết trả bài viết
cho học sinh nhằm đem lại hiệu quả cao trong học tập ở phân môn này.
17
Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và mong được sự
giúp đỡ của lãnh đạo các cấp.
Tôi xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 24 tháng 3 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPPY.
Người viết
Hoàng Xuân Khánh
Hoàng Thị Thuỷ
18
MỤC LỤC
Trang
I
II
II
III.
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
4. Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lí luận của kinh nghiệm
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của SKKN
a. Kiểm nghiệm
b. Kết quả
Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị
1
1
2
2
2
2
2
3
5
15
15
15
16
16
17
19