Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học tiếng việt ở trường THCS nga tiến, nga sơn bằng bản đồ tư duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 19 trang )

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu............................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu...........................................2
3.1. Đối tượng.......................................................................2
3.2. Phạm vi nghiên cứu:......................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................2
II. PHẦN NỘI DUNG......................................................................3
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu...................................3
2. Thực trạng của vấn đề........................................................4
3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn
Tiếng Việt ở trường THCS bằng việc áp dụng kỹ thuật dạy học
bản đồ tư duy............................................................................6
3.1. Biện pháp:.....................................................................6
4. Hiệu quả.............................................................................15
4.1 Kết quả kiểm nghiệm so sánh, đối chứng.....................15
4.2. Bài học kinh nghiệm:...................................................16
III. KẾT LUẬN..............................................................................16
1. Kết Luận:............................................................................16
2. Đề xuất..............................................................................17

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
“Văn học là nhân học”.Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và
trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm
khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục
quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc


nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác.
Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại,
các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ Văn .
Có lẽ cũng bởi vì thế, trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học
nói chung và đổi mới dạy học môn Ngữ Văn nói riêng luôn được các nhà khoa
học quan tâm, nghiên cứu, được các Thầy cô giáo nhanh chóng ứng dụng có
sáng tạo kịp thời. Nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có
khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là
những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá
trình học tập. Như vậy dạy học nói chung, dạy học Ngữ Văn nói riêng là dạy
cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định
hướng giáo dục quan trọng hiện nay.
Như chúng ta đều đã biết, lâu nay ngành giáo dục nói chung và bộ môn
Ngữ văn nói riêng đang phải đối mặt với với nạn học vẹt- học sinh chỉ học thuộc
mà không nắm được ý chính, ý trọng tâm của bài học. Nguyên nhân là do thói
quen dạy và học thụ động, khiến học sinh chỉ biết tiếp thu kiến thức một chiều
mà không chú trọng đến việc tự nghiên cứu tìm tòi để nắm được ý trọng tâm của
bài học.
Bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS là một trong những bộ môn có
dung lượng kiến thức và số tiết dạy nhiều. Bộ môn này được cấu tạo bởi 3 phân
môn: Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn. Vì thế việc dạy Ngữ Văn cũng gặp nhiều
khó khăn. Dung lượng kiến thức mỗi tiết rất dài và có độ khái quát rất lớn. Để
giờ dạy có hiệu quả thì cả người dạy và người học đều phải tập trung cao độ,
chuẩn bị kĩ nếu không sẽ không đủ thời gian. Trong khi đó, kiến thức phần này
lại khó và rộng, chủ yếu là các khái niệm khoa học trừu tượng nên không phải
người học nào cũng tạo cho mình một tâm lí thoải mái, hưng phấn khi học, thậm
chí còn thấy mệt mỏi, kém hứng thú. Hơn nữa phương pháp chủ yếu trong các
giờ học này là thuyết trình để chạy đua với thời gian nhằm đảm bảo dung lượng
kiến thức. Vì thế, một trong những nội dung của phong trào thi đua “ Xây dựng


1


Trường học thân thiện, học sinh tích cực” chính là đổi mới phương pháp dạy học
để thay đổi tư duy và tăng sự hứng thú của cả giáo viên và học sinh . Từ đó cần
tìm ra nhiều phương pháp phù hợp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng của
việc dạy và học Ngữ văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói riêng. Để giúp học
sinh có kĩ năng hệ thống, ghi nhớ kiến thức được lâu, được kĩ, tôi thấy áp dụng
bản đồ tư duy vào dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS là vô cùng quan trọng
và đó cũng là lí do tôi chọn lựa đề tài nghiên cứu " Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học phân môn Tiếng Việt ở trường THCS bằng bản đồ tư duy"
này.
2. Mục đích nghiên cứu.
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu, vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ
tư duy, tôi nhận thấy phương pháp này rất có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng
dạy và học Ngữ văn. BĐTD không chỉ giúp bài học được hệ thống một cách
logic, dễ hiểu, dễ nhớ mà còn tạo được không khí sôi nổi trong lớp học, nâng
cao tính tương tác giữa thầy và trò Đặc biệt là phương pháp dạy học này đã đem
đến cho học sinh cái nhìn mới, tư duy mới về môn Ngữ văn.
Với đề tài này tôi mong muốn hướng dẫn cho học sinh học văn nói riêng
và học sinh nói chung cách xây dựng bản đồ tư duy trong việc học vào lúc nào
và như thế nào để đạt hiệu quả. Đây là một phương pháp dạy học tích cực kích
thích vai trò chủ động, sáng tạo và tự giác của người học sinh góp phần nâng cao
chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng
Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh
nghiệm chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh của trường THCS Nga Tiến – Nga Sơn
– Thanh Hóa năm học 2016 -2017.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Như trên đã nói, môn Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông gồm ba phân
môn với dung lượng kiến thức lớn với đặc trưng riêng của bộ môn gắn với đặc
trưng của từng phân môn, nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến đi sâu vào
phương pháp dạy học lập bản đồ tư duy chủ yếu gói gọn trong phân môn Tiếng
Việt và một số văn bản ở các tiết cung cấp kiến thức mới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình viết tôi có sử dụng các phương pháp: Quan sát, so sánh,
đối chiếu, điều tra, phỏng vấn, phương pháp nghiên cứu tài liệu…

2


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Để góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo học sinh thành những người năng
động sáng tạo, biết vận dụng những kiến thức cơ bản để tìm tòi phát hiện kiến
thức phát triển năng lực tư duy sáng tạo của học sinh, chống lại thói quen học
tập thụ động. Đổi mới phương pháp dạy học bao gồm đổi mới nội dung và hình
thức hoạt động của giáo viên và học sinh, đổi mới hình thức dạy học, đổi mới
hình thức tương tác xã hội trong dạy học, đổi mới kĩ thuật dạy học với định
hướng phù hợp với nội dung bài học cụ thể. Từ những định hướng và mục đích
của việc đổi mới phương pháp dạy học việc áp dụng bản đồ tư duy trong các tiết
ôn tập và một số tiết học lí thuyết đã tạo ra hiệu quả nhất định trong việc kích
thích khả năng tư duy, phán đoán của học sinh.
Bản đồ tư duy trong thực tế được áp dụng nhiều ở các môn khoa học tự
nhiên. Đối với các môn khoa học xã hội việc áp dụng sơ đồ tư duy còn nhiều
hạn chế trong khi đó sử dụng sơ đồ tư duy giúp cho học sinh có khả năng ghi
nhớ kiến thức một cách cụ thể hơn, đặc biệt kích thích khả năng tư duy, tìm tòi
khám phá, phát hiện kiến thức của học sinh.
Làm việc với bản đồ tư duy trong các tiết học môn Ngữ văn sẽ rèn được kĩ

năng tư duy phát hiện kiến thức của học sinh. Việc áp dụng bản đồ tư duy có thể
áp dụng cho nội dung từng phần học, bài học với khả năng sử dụng kiến thức
của một cá nhân trong quá trình nhận thức và giải quyết thực tế. Bằng những
tình huống rèn luyện trí óc, đòi hỏi học sinh phải vận dụng phối hợp các lĩnh vực
đọc hiểu mới đưa ra được giải pháp lựa chọn kiến thức để bổ sung vào sơ đồ tư
duy ở nhiều dạng của sơ đồ câm. Kết quả đạt được của quá trình dạy và học môn
Ngữ văn cũng như các môn học khác sẽ khả quan hơn rất nhiều khi giáo viên và học
sinh cùng biết áp dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS
Bên cạnh vai trò của việc áp dụng BĐTD vào dạy học, một vấn đề lí luận
quan trọng nữa cũng cần làm sáng tỏ, đó là vai trò của phân môn tiếng Việt trong
chương trình Ngữ văn THCS. Tiếng Việt là một trong những môn có tầm quan
trọng đặc biệt trong các môn khoa học xã hội - nhân văn, có vai trò trọng yếu
trong việc giữ gìn và phát huy tiếng nói dân tộc. Chất lượng dạy học tiếng
Việt ở trường phổ thông có quan hệ trực tiếp đến năng lực ngôn ngữ, năng
lực tư duy của các thế hệ nối tiếp, và ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh tiếng
Việt, vận mệnh văn hoá Việt Nam. Với tư cách là một môn học, Tiếng Việt có
nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức ngôn ngữ học, hệ thống tiếng Việt,

3


quy tắc hoạt động và những sản phẩm của nó trong mọi hoạt động và những sản
phẩm của nó trong mọi hoạt động giao tiếp. Mặt khác, vì tiếng Việt là một công
cụ giao tiếp và tư duy nên môn Tiếng Việt còn đảm nhận thêm một chức năng
kép mà các môn học khác không có. Đó là chức năng trang bị cho HS công cụ
để giao tiếp, tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường.
Trong chương trình THCS, môn Tiếng Việt giữ vai trò “môn học công cụ”
giúp HS tiếp nhận và diễn đạt tốt các thông tin khoa học được giảng dạy ở nhà
trường. Nói cách khác, học sinh muốn thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, trước
hết phải nghiên cứu và rèn luyện các kỹ năng sử dụng tiếng Việt - chìa khoá

của nhận thức, của học vấn, của sựphát triển trí tuệ. Thiếu quan tâm đúng mức
đến việc rèn luyện năng lực tiếng Việt, HS không thể hoàn thành tốt được
nhiệm vụ học tập của bất cứ bộ môn khoa học nào trong nhà trường. Ngược
lại, trong quá trình học tập các môn khoa học đó, HS học được các thuật ngữ và
vốn từ của các em sẽ giàu có hơn. Đồng thời, tiếp xúc với nhiều môn học, HS
sẽ thấy được các cách diễn đạt phong phú của tiếng Việt trong các phong cách
khác nhau, từ đó mà có thể rèn luyện cho mình kĩ năng sử dụng tiếng Việt .
Tóm lại, môn Tiếng Việt với tư cách là công cụ giao tiếp của xã hội, là bộ
môn công cụ cho mọi bộ môn, đồng thời đó cũng là một trong những môn có
tầm quan trọng đặc biệt trong các môn khoa học xã hội - nhân văn, có vai trò
trọng yếu trong việc giữgìn và phát huy tiếng nói dân tộc
2. Thực trạng của vấn đề.
Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không
thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học
thường phải ghi chép nhiều, kiến thức trừu tượng, khó nhớ. Một số em học tập
chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài
nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thống kiến
thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước
vào bài học sau.
Hơn thế, từ trước đến nay khi dạy học Ngữ văn, giáo viên chủ yếu sử
dụng các kĩ thuật dạy học đơn thuần truyền thống khi soạn giảng. Các tiết học
chủ yếu được khai thác theo thứ tự khuôn mẫu, theo bảng hệ thống định sẵn. Vì
vậy ít gây được hứng thú trong học tập của học sinh. Các tiết dạy học còn đơn
điệu, dễ gây nhàm chán cho đại đa số học sinh .Việc tiếp thu kiến thức chưa có
tính hệ thống khiến học sinh lâu nhớ mau quên. Đó là nguyên nhân cơ bản làm
ảnh hưởng đến kết quả dạy và học chưa cao ở bộ môn Ngữ Văn

4



Nếu nhìn nhận vấn đề một cách khách quan ta dễ dàng nhận thấy đa số
giáo viên còn chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó phải nhận
thấy rõ đổi mới ở đây là đổi mới cả nội dung và hình thức hoạt động của giáo
viên và học sinh, đổi mới hình thức dạy học, đổi mới kĩ thuật dạy học với định
hướng phù hợp với nội dung bài học cụ thể.
Một vấn đề nữa đặt ra trong dạy và học phân môn Tiếng Việt trong
chương trình Ngữ văn THCS là bài học Tiếng Việt chiếm tỉ lệ lớn trong nội dung
chương trình và được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp, việc dạy Tiếng Việt
không thể tách rời dạy học văn bởi Văn học( Văn bản) là ngữ liệu trực tiếp cho
dạy học Tiếng Việt với ý nghĩa là ngữ cảnh rộng cho việc lý giải của các đơn vị
ngôn ngữ, đồng thời ngôn ngữ văn học là một trong những chuẩn mực cho việc
dạy học tiếng Việt hướng tới. Đây là tư tưởng được quán triệt trong việc xây
dựng chương trình cũng như việc dạy văn học trong nhà trường. Tất cả các GV
đều cho rằng môn tiếng Việt rất quan trọng đối với HS ở nhà trường
THCS nhưng về thực tế chất lượng học tập môn tiếng Việt của HS chỉ ở mức độ
trung bình vì HS không hứng thú học thậm chí không soạn bài trước khi đến lớp
GV. Một thực tế đáng quan tâm hiện nay là HS không chủ động phát biểu xây
dựng bài mà chỉ nghe giảng và ghi chép một cách thụ động, máy móc. Điều này
dần dần hình thành thói quen lười suy nghĩ, ngại tư duy trong HS...
Trong những năm học gần đây, với tư duy đổi mới phương pháp dạy học,
trong các đợt chuyên đề, chúng ta được tiếp cận với rất nhiều các kĩ thuật dạy
học mới để góp phần đổi mới phương pháp, gây hứng thú cho học sinh với môn
học. Song việc lựa chọn kĩ thuật dạy học nào vừa hiệu quả lại vừa phù hợp với
đối tượng học sinh lại là một vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên đứng lớp. Trong
quá trình dạy học và áp dụng kĩ thuật dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD), tôi
nhận thấy đây là một phương pháp dạy học tích cực. Cùng với các mảnh ghép,
khăn phủ bàn, …việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh
học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển
tư duy.
Sau kết quả điều tra ban đầu, tôi nhận thấy trên thực tế, đối tượng học sinh

mà tôi được phân công giảng dạy, nhiều em còn lơ là trong học tập, năng lực ghi
nhớ, trình bày và diễn đạt còn hạn chế. Tôi thấy cần phải đưa ra những giải pháp
cụ thể và tích cực hơn để nâng cao chất lượng môn Ngữ văn nói chung và nâng
cao khả năng ghi nhớ, tổng hợp kiến thức của học sinh nói riêng. Tôi đã tiến
hành thực hiện đổi mới phương pháp dạy học bộ môn, bên cạnh phương pháp

5


giảng bình, vấn đáp đặc trưng, tôi đã lồng ghép vào các tiết học những kĩ thuật
dạy học mới, trong đó có chú ý đến việc hướng dẫn học sinh sử dụng BĐTD.
- Giới thiệu cho các em hiểu bản chất của bản đồ tư duy và vai trò của nó
trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung.
- Vận dụng bản đồ tư duy trong các tiết dạy học phần tiếng Việt
- Hướng dẫn học sinh xây dựng bản đồ tư duy trong một tiết học
Từ những nhận thức về vai trò của bản đồ tư duy đối với quá trình đổi
mới phương pháp dạy học, tôi vận dụng những bản đồ tư duy mẫu vào các tiết
học ban đầu để học sinh làm quen rồi sau đó hướng dẫn học sinh tự xây dựng
bản đồ tư duy trong quá trình tự học để đạt được hiệu quả ghi nhớ kiến thức cao.
3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tiếng Việt ở
trường THCS bằng việc áp dụng kỹ thuật dạy học bản đồ tư duy.
3.1. Biện pháp:
3.1.1. Giới thiệu, hướng dẫn để học sinh hiểu, nắm vững vai trò, tác
dụng của BĐTD trong việc học tập bộ môn:
- Khái niệm bản đồ tư duy: Theo Giáo sư Tony Buzan (Lônđôn- Anh),
người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy thì: “Bản đồ tư duy là một
hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý
tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay
hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho các ý
chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với phương thức tiến dần từ trung

tâm ra xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy con người cũng phải hoạt động
tương tự. Từ đó các ý tưởng của con người sẽ phát triển.
Tony Buzan đã sáng tạo ra bản đồ tư duy theo nguyên lí hoạt động của bộ
não. Bản đồ tư duy không những sử dụng chữ, số, các dòng kẻ mà còn có thể sử
dụng cả màu sắc và hình ảnh. Các dòng kẻ, chuỗi, chữ, số, và các danh sách
được xử lí bằng chức năng thần kinh của não. Như vậy bản đồ tư duy là một
công cụ hỗ trợ tư duy hiện đại, một kĩ năng sử dụng bộ não rất mới mẻ. Đó là
một kĩ thuật hình họa, một dạng sơ đồ kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét,
màu sắc phù hợp, tương thích với cấu trúc, hoạt động của bộ não.
- Nguyên lí hoạt động: Nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy đúng theo
nguyên tắc liên tưởng “ý này gọi ý kia” của bộ não. Ở vị trí trung tâm của bản
đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay một khái niệm chủ
đạo. Ý trung tâm đó được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các

6


nhánh chính. Từ các nhánh chính đó lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2
để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay
hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này tạo ra một bức tranh
tổng thể mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ, rõ ràng.
- Phương thức tạo lập:
+ Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên mặt giấy .
+ Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm .
+ Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ

-. Tác dụng của bản đồ tư duy:
+ Tiết kiệm thời gian, công sức.
+ Cung cấp bức tranh tổng thể. Kích thích tiềm năng sáng tạo.
+ Tổ chức và phân loại suy nghĩ. Ghi nhớ tốt hơn.

+Sử dụng rộng rãi, hiệu quả và dễ dàng ở nhiều môn học ở nhiều lĩnh vực.
3.1.2. Những lưu ý khi áp dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn Ngữ
Văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng:
3.1.2.1. Giáo viên hơn ai hết phải là người nắm vững: việc áp dụng BĐTD
hay bất cứ một kĩ thuật dạy học nào cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là
giúp học sinh khắc sâu được kiến thức bộ môn, thông qua BĐTD giáo viên giúp
học sinh có hứng thú với môn học từ đó khơi gợi được tình cảm yêu quý môn
học và tự giác khám phá vẻ đẹp bộ môn. Đó cũng là mục đích của các kĩ thuật
dạy học nói chung khi đưa vào quá trình dạy học.

7


3.1.2.2. Thứ hai, là dù áp dụng BĐTD hay bất kì kĩ thuật dạy học nào thì
người giáo viên cũng phải định hướng để đảm bảo tiết học diễn ra theo đúng đặc
trưng bộ môn. Như trên đã nói, Ngữ Văn là một môn học thuộc khoa học xã hội
song được xây dựng bằng tư duy hình tượng, bằng chất liệu đặc biệt là ngôn
ngữ. Đặc trưng của một bộ môn nghệ thuật ngôn từ phải gắn liền với vẻ đẹp
ngôn ngữ. Do đó, giáo viên phải thật khéo léo, tinh tế khi vận dụng các kĩ thuật
dạy học, trong đó có BĐTD, tránh biến giờ dạy học môn Ngữ Văn thành giờ dạy
Họa hoặc ngắt mạch tư duy hình tượng của học sinh, kĩ thuật dạy học vô tình trở
nên phản tác dụng.
3.1.2.3. Để học sinh hứng thú với môn học, nhớ lâu kiến thức mà lại không
xa rời đặc trưng bộ môn, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh hình thành được
thói quen, cao hơn là kĩ năng lựa chọn những đơn vị kiến thức có thể áp dụng
BĐTD.
Thông thường trong môn Văn, BĐTD thường dùng trong phần tổng kết, để
khắc sâu, hệ thống toàn bộ nội dung kiến thức của bài học. Với các văn bản
nghệ thuật là kiến thức về tác giả, tác phẩm về nội dung, nghệ thuật; với phần
Tiếng Việt là hệ thống hóa các kiến thức xoay quanh đơn vị ngôn ngữ được

học...Từ kĩ năng chọn lựa đơn vị kiến thức có thể áp dụng BĐTD, học sinh dần
rèn được thói quen khái quát hóa trong bộ môn, trong các môn học và cao hơn là
áp dụng khả năng khái quát hóa trong các lĩnh vực của đời sống. Đó cũng chính
là mục tiêu tăng thực hành, gắn kiến thức với thực tiễn đời sống mà yêu cầu của
cuộc sống hiện đại đặt ra cho giáo dục hiện đại.
3.1.2.4. Để BĐTD thật sự là một phương pháp dạy học có hiệu quả, giáo
viên không chỉ hướng dẫn để các nhân học sinh lập được bản đồ tư duy mà quan
trọng hơn là còn gợi dẫn để học sinh biết thuyết trình về BĐTD mà mình vừa
lập. Có thể giao cho một nhóm học sinh lập BĐTD khái quát hóa nội dung kiến
thức đã học rồi thuyết trình trước tập thể, vừa rèn kĩ năng trình bày trước đám
đông vừa giúp học sinh thay đổi không khí giờ học, tạo mối quan hệ thầy - trò,
trò - trò...Đây cũng là một trong những yêu cầu của bộ môn theo đặc trưng môn học.
3.1.2.5. Dạy học các bài tiếng Việt với sự hỗ trợ của bản đồ tư duy phải
đảm bảo sự tích hợp, phải tích cực hóa hoạt động học tập của HS, phải lấy học
sinh làm trung tâm, phải đảm bảo các quy tắc vẽ bản đồ tư duy: nhấn mạnh, liên
kết, mạch lạc..
3.1.3. Vận dụng BĐTD trong các tiết dạy học phân môn Tiếng Việt
3.1.3.1.Hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà

8


Dạy học phát huy tính tích cực, chủ động và giúp HS hình thành, phát triển
năng lực tự học phải được thực hiện qua nhiều bước, nhiều khâu khác nhau
trong quá trình dạy học, trong đó bao gồm cả việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp
của cả GV và HS ở tất cả các môn học. Đổi mới PPDH Văn nói chung, dạy học
Tiếng Việt nói riêng được thực hiện qua nhiều khâu, nhiều bước, nhiều thao tác.
Muốn phát huy vai trò chủ thể của HS, GV phải biết khơi gợi, tổ chức, dẫn dắt
HS tham gia tích cực, chủ động vào bài học. Để đạt được mục đích này, chính
các em phải có sự chuẩn bị bài trước một cách khoa học qua phần hướng dẫn

của GV.
Dạy học các bài tiếng Việt theo hướng sử dụng BĐTD như một công cụ hỗ
trợ đòi hỏi HS phải là chủ thể tiếp nhận tích cực, đồng thời cũng yêu cầu HS một
năng lực tự học nhất định. Mọi việc làm phải xuất phát từ sự chuẩn bị trước của
HS. Không có sự chuẩn bị chu đáo một cách tự lực của HS, mọi bài dạy trên lớp
đều không có hiệu quả theo đúng yêu cầu của nó.
Để tổ chức dạy các bài tiếng Việt trên lớp được tốt, GV cần hướng dẫn HS
chuẩn bị bài ở nhà. Việc tiến hành trên lớp như thế nào? HS phải làm những gì?
GV tổ chức dẫn dắt ra sao?... đều phải chuẩn bị trước. Muốn như vậy, GV cần
hướng dẫn cho HS các bước sau đây:
Việc chuẩn bị bài của HS không chỉ đơn thuần là bước đầu làm quen với
kiến thức mà còn là sự tổ chức lại kiến thức trong một cấu trúc mới để kiến thức
trở nên tinh gọn hơn, giúp HS ghi nhớ kiến thức lâu dài. Do vậy, việc đầu tiên là
phải thông hiểu kiến thức. Việc thông hiểu kiến thức này phải qua quá trình tư
duy, qua việc thực hiện các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái quát
hóa, hệ thống hóa…để xử lý thông tin nhằm tìm ra các thuộc tính bản chất của
khái niệm.
Với việc hệ thống hóa kiến thức, trước hết, GV hướng dẫn HS phải đọc kỹ
kiến thức trong SGK. Từ phần chuẩn bị học sinh sẽ tiếp thu bài mới tốt hơn..
3.1.3.2. Áp dụng BĐTD vào kiểm tra bài cũ:
Để kiểm tra bài cũ về một đơn vị kiến thức đã học, tôi đưa ra một từ khoá
thể hiện chủ đề của kiến thức cũ mà các em đã học, sau đó tôi yêu cầu học sinh
lên bảng vẽ BĐTD thông qua câu hỏi kiểm tra bài cũ. Câu hỏi sẽ gợi dẫn cho
các em nhớ lại kiến thức đã học ở tiết trước và định hình được cách vẽ BĐTD
theo yêu cầu.

9


Khi kiểm tra bài cũ của tiết 78 bài “ So sánh” ( Môn Ngữ văn lớp 6), đầu

giờ GV cho từ khoá “ So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu
hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các
ý nhỏ ( nhánh con cấp 2, cấp 3…), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em
lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua
đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất
hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Sơ đồ minh hoạ :

3.1.3.3. Hướng dẫn HS vẽ bản đồ tư duy cho bài tiếng Việt học trên lớp
Trước hết, GV giới thiệu cho HS những hiểu biết về BĐTD, những nguyên
tắc vẽ và các bước vẽ BĐTD.Để tiến hành vẽ MM cho bài tiếng Việt, cần thực
hiện những bước sau đây:
Bước 1: Xác định và phân loại nội dung kiến thức
Khi lập BĐTD cần phân loại nội dung thật cụ thể, rõ ràng, mạch lạc, cần
phải đưa kiến thức về từng chủ đề, từng lĩnh vực có mối liên hệ với nhau, sau đó
chúng ta mới lập
Ví dụ: Tiết 66 Bài Ôn tập tiếng Việt (lớp 6) có thể khái quát hóa theo chủ
đề lớn là từ loại như sau:

10


Bước 2: Lựa chọn kiến thức để lập Mindmap
Như chúng ta đã biết, các bài tiếng Việt gồm hai yêu cầu: Cung cấp kiến
thức và luyện tập, vận dụng làm bài tập. Với yêu cầu thứ nhất, bài tiếng Việt tồn
tại dưới dạng những câu hỏi. Có nhiều loại câu hỏi để học sinh dễ dàng tiếp cận
kiến thức nhưng không phải với bất cứ bài nào nào chúng ta cũng có thể sử dụng
BĐTD để trả lời câu hỏi được. GV cần hướng dẫn cho HS tự chuẩn bị ở nhà
bằng việc lập BĐTD sau khi trả lời các câu hỏi.
Ví dụ khi dạy bài " Cách dẫn trực tiếp cách dẫn gián tiếp" SGK Ngữ văn 9,

học sinh tiến hành trả lời các câu hỏi sau:
- Thế nào là cách dẫn trực tiếp?
- Thế nào là cách dẫn gián tiếp?
- Sự khác nhau của hai cách dẫn này là gì?
- Khi nào nên sử dụng cách dẫn trực tiếp, khi nào nên dùng cách dẫn gián tiếp?
Với những câu hỏi này, khi tiến hành giảng dạy, chúng ta có thể sử dụng
BĐTD để tổng hợp. Kỹ thuật hình họa của BĐTD sẽ giúp HS tiết kiệm thời gian
hơn, đem đến cái nhìn tổng thể về ngôn ngữ nghệ thuật, từ đó sẽ giúp HS tổ
chức tốt vấn đề và nhớ lâu hơn. Sau khi lựa chọn được những kiến thức lập
BĐTD, GV có thể tổ chức cho HS hoạt động tự giải quyết vấn đề và thực hiện

11


công việc theo nhóm. Tùy theo bài , GV có thể chia lớp thành 6 nhóm hoặc 8
nhóm nhỏ, trong đó, cứ 2 nhóm lại giải quyết một lĩnh vực hay một chủ đề giống
nhau để khi làm việc trên lớp, các nhóm có thể góp ý, nhận xét, bổ sung cho nhau.
Bước 3: Lập BĐTD
- Không giống như các bài học cung cấp kiến thức ở các phân môn khác,
trong các bài tiếng Việt, HS phải hoạt động tích cực, phải tư duy, phải sáng tạo,
phải biết tổng hợp kiến thức để có thể đưa ra nhiều nội dung cần nghiên cứu có
liên quan tới vấn đề đặt ra, từ đó đưa ra chủ điểm chính.
Ví dụ, học về thành ngữ( SGK Ngữ văn 7) , các em học sinh trình bày bằng
cách vẽ nhánh lớn: Khái niệm, đặc điểm…, nối tiếp những nhánh lớn là các
nhánh nhỏ tương đương với các ý. Cứ thế, các em có thể thảo luận, thay đổi, bổ
sung cho nhau một cách linh hoạt để có một bản đồ tư duy bài học hoàn chỉnh

Bước 4: Kiểm tra lại BĐTD đã lập
Đó là việc xem xét, đối chiếu giữa nội dung bài học với BĐTD đã lập xem
có điểm nào chưa khớp hoặc cần phải bổ sung thêm những chủ đề phụ nào, còn

mối liên hệ nào giữa các tiêu đề mà chưa thiết lập hay không, BĐTD đã đảm
bảo sự nhấn mạnh, tính thẩm mĩ, tính liên kết, mạch lạc hay chưa? Nếu không
còn vấn đề gì nữa thì việc lập BĐTD cho nội dung bài học đã hoàn thành.

12


3.1.3.4. Sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ gợi mở, kích thích quá
trình tìm kiếm kiến thức của học sinh:
Với những ưu điểm của mình, bản đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở,
kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của HS. Bước quan trọng nhất là giáo viên
giúp học sinh phát hiện, tìm kiếm được trung tâm bản đồ - trọng tâm bài học.
Sau đó theo nguyên lí BĐTD là ý nọ gợi ý kia dần dần giúp học sinh khám phá
kiến thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng sự tập hợp kiến thức từ các nguồn,
học sinh phải biết cách phân tích tìm ra những từ khóa, hình ảnh chính xác nhất.
Khi các nhánh lớn được xây dựng GV cũng nên hướng dẫn học sinh sắp xếp
theo thứ tự quan trọng bằng cách đánh số ở đầu mỗi nhánh. Điều đó giúp học
sinh dễ dàng ôn tập sau này.
Ví dụ khi dạy bài ôn tập Tiếng việt ở cuối học kì 1 và học kì 2 của môn Ngữ
Văn lớp 7 giáo viên có thể hệ thống hoá phần từ, phần câu bằng sơ đồ như sau:

Hay ôn tập phần câu lớp 8 giáo viên có thể cho học sinh khái quát thành sơ đồ

13


3.1.3.5. Sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ để củng cố, khái quát bài
học, chương- phần học của học sinh:
Sau mỗi tiết học, chương- phần học bao giờ cũng có phần củng cố, nhắc
lại kiến thức trọng tâm. Với cách học truyền thống, học sinh ghi chép và thực

hiện kiến thức theo trật tự tuyến tính nên khả năng nhớ kiến thức thường ít hơn
dưới 50% dung lượng bài. Sử dụng bản đồ tư duy giúp các em khắc phục được
hạn chế đó. Sau mỗi giờ học, khi cần củng cố kiến thức học sinh chỉ cần nhìn
vào bản đồ tư duy có thể tái hiện được 80-90% kiến thức bài học. Đến khi ôn thi
học sinh không phải mất một lượng lớn thời gian để đọc lại kiến thức như cách
học truyền thống mà chỉ cần quan sát lại sơ đồ tổng thể vẫn có thể tái hiện nội
dung bài học một cách cụ thể, chi tiết. Như thế học sinh vừa nâng cao được kết
quả học tập vừa tiết kiệm được thời gian.
Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức
sau mỗi chương, phần…: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học
sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách
vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại
thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một
cách nhanh chóng, dễ dàng.
Ví dụ: Khi dạy Ôn tập Tiếng Việt, cho học sinh vẽ BĐTD sau bài học để
mỗi em có 1 tập BĐTD về các các vấn đề liên quan đến từ Tiếng Việt đã học
trong chương trình: Từ loại, cụm từ, nghĩa của từ, cấu tạo từ…. Việc lưu giữ
những tài liệu trí tuệ đầy sáng tạo do chính bàn tay của các em xây dựng nên sẽ
làm một nguồn dữ liệu quý giúp các em học tốt hơn phần Tiếng Việt.

14


Chẳng hạn như khi dạy tiết 52: bài “Số từ và lượng từ”(Ngữ văn 6 tập1).Ở
phần củng cố bài học giáo viên có thể sơ đồ hoá kiến thức nội dung của toàn bài
học (Hoặc yêu cầu học sinh hệ thống nội dung bài học bằng cách vẽ sơ đồ tư
duy) như sau:
4. Hiệu quả.
4.1 Kết quả kiểm nghiệm so sánh, đối chứng.
Như vậy, sau một thời gian nghiên cứu phần lí luận và tiến hành áp dụng sơ

đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương
pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng ở trường THCS Nga Tiến, tôi nhận thấy
bước đầu đã có những kết quả khả quan:
- Giáo viên đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong
hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Nhiều giáo viên đã biết sử dụng BĐTĐ để
dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần.
- Đối với học sinh, việc áp dụng bản đồ tư duy vào việc học đã đang và sẽ
dần hình thành cho học sinh lối tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu
sắc. Học sinh học tập một cách chủ động, tích cực, luôn có cách nhìn nhận vấn
đề một cách có hệ thống khoa học, huy động được tất cả học sinh tham gia xây
dựng bài một cách hào hứng . Học sinh có thể dễ nhớ và khắc sâu được nội dung
bài học một cách sâu sắc. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng
BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số HS trung bình đã
biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đặc biệt hơn các
em còn có thể phát triển được năng lực riêng của mỗi cá nhân như năng lực hội
hoạ: kẽ, vẽ, trình bày,…và vận dụng kiến thức được học ở trường lớp vào thực
tế đời sống.
Kết quả sau khi áp dụng bản đồ tư duy vào dạy học Ngữ văn ở khối lớp 6, 8
cụ thể như sau :
Điểm
Khối
6
(80em)
8
(78 em)

Điểm kém

Điểm yếu


Điểm TB

Điểm khá

Điểm giỏi

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

0

0


01

1.2

37

46.3

30

37.5

12

15.0

0

0

03

3.8

49

62.8

19


24.4

07

9.0

15


4.2. Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tự xây dựng BĐTD sau mỗi tiết học,
tôi nhắc nhở các em về những nguyên tắc vẽ BĐTD và những điều cần tránh để
các em tự vẽ được những BĐTD thực sự có hiệu quả. Cụ thể như sau:
- Tránh ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng.
- Tránh ghi chép quá nhiều ý không cần thiết.
- Tránh dành quá nhiều thời gian để vẽ, viết, tô màu…Chỉ nên vẽ những
hình ảnh có liên quan đến kiến thức. Khi thiết kế BĐTD cần chọn lọc những ý
cơ bản, kiến thức cần thiết, tránh vẽ cầu kì hoặc vẽ quá sơ sài không có thông tin.
Tóm lại: Để phát huy tối đa tác dụng của bản đồ tư duy trong việc dạy học
phân môn, người giáo viên cần biết sử dụng BĐTD hợp lý với từng bài học.
Quan trọng hơn là giáo viên phải biết cách hướng dẫn học sinh tự xây dựng
được BĐTD qua mỗi tiết học để phục vụ cho quá trình tự học đạt hiệu quả cao
bởi sự tự học của học sinh mới là yếu tố quyết định đến việc nâng cao chất
lượng môn học nói chung.
III. KẾT LUẬN
1. Kết Luận:
Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,…là hình thức ghi
chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hoá một chủ đề hay
một mạch kiến thức ,…bằng cách kết hợp đồng thời hình ảnh, đường nét, màu
sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là sơ đồ mở không yêu cầu tỉ

lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi
người một kiểu khác nhau, dùng màu sắc hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác
nhau cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể thể hiện nó dưới dạng bản đồ tư
duy khác nhau.
Việc áp dụng bản đồ tư duy, đặc biệt việc sử dụng thành thạo và hiệu quả
BĐTD trong dạy học Ngữ văn ở trường THCS sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và
đáng khích lệ trong phương thức học tập của Học sinh và phương pháp giảng
dạy của Giáo viên. Chúng ta đều thấy, trong giảng dạy nhất là bộ môn Ngữ Văn
không có phương pháp, biện pháp nào là độc tôn, là vạn năng cả. Người dạy cần
kết hợp các phương pháp, biện pháp một cách sinh động để gây hứng thú cho
HS và nâng cao hiệu quả giờ dạy.

16


Do đó việc kết hợp hài hoà giữa lập bản đồ tư duy với một số phương
pháp dạy học khác sẽ phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi học sinh. Học
sinh có khả năng ghi nhớ kiến thức một cách có hiệu quả. Đây là kết quả mà bất
kì người giáo viên nào nhất là người giáo viên Ngữ văn hằng mong đợi. Kết quả
này sẽ góp phần không nhỏ vào sự nghiệp “trồng người ”mà mỗi chúng ta đã lựa
chọn. Nói như vậy đồng nghĩa với việc chúng ta đã đang và sẽ thực hiện tốt lời
dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại :
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người ”
Trên đây chỉ là những kinh nghiệm ít ỏi của của cá nhân trong quá trình
giảng dạy. Vì thế còn nhiều hạn chế và không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong với sự nỗ lực hết mình của bản thân cùng với sự đóng góp ý kiến của bạn
bè đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn và có thể áp dụng có hiệu
quả trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ Văn THCS .
2. Đề xuất.

Bên cạnh việc tự bản thân giáo viên không ngừng hoàn thiện trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, tôi có một vài đề xuất như sau: Các cấp quản lý đầu tư thêm các
trang thiết bị dạy học cho bộ môn Ngữ văn đặc biệt là có phòng học chức năng trang
bị đủ thiết bị công nghệ đáp ứng đủ nhu cầu của giáo viên trong quá trình giảng dạy.
Phòng giáo dục cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi hội thảo trao đổi kinh nghiệm
giảng dạy và thảo luận về các sáng kiến dạy học từ các bản sáng kiến kinh nghiệm
đạt giải cao hằng năm để chúng tôi có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp.
Trên đây là một số ý kiến, đề xuất của cá nhân tôi, rất mong được sự góp
ý, bổ sung của Hội đồng khoa học và các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Thanh Hóa, ngày 6 tháng 4 năm 2017
Người thực hiện

17


Nguyễn Thị Mừng

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ
CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI C TRỞ LÊN

Họ và tên: Nguyễn Thị Mừng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THCS Nga Tiến
TT


Tên đề tài SKKN

1

Một số giải pháp dạy các văn

2

bản nhật dụng hiệu quả
Một số giải pháp dạy các văn
bản nhật dụng hiệu quả

Cấp đánh
giá xếp loại

Kết quả

Huyện

A

Tỉnh

C

Năm
học
2006
-2007

2006
-2007

18



×