Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phát triển một số năng lực cho học sinh qua dạy học phần thơ hiện đại việt nam lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.91 KB, 24 trang )

Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

Nội dung
I. PHẦN MỞ ĐẦU

Trang
Trang 1

1. Lí do chọn đề tài

Trang 1

2. Mục đích nghiên cứu:

Trang 3

3. Đối tượng nghiên cứu:

Trang 3

4. Phương pháp nghiên cứu:

Trang 3

II. PHẦN NỘI DUNG

Trang 3

1. Cơ sở lí luận

Trang 3



2. Thực trạng của vấn đề

Trang 4

2.1.

Thực trạng của vấn đề

Trang 4

2.2.

Kết quả thực trạng

Trang 5

2.3.

Đánh giá thực trạng

Trang 6

3. Các biện pháp đã sử dụng bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học Trang 7
sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9
3.1.
3.2.

Biện pháp thứ nhất: Bồi dưỡng năng lực đọc cho học sinh Trang 7
Biện pháp thứ hai: Bồi dưỡng năng lực liên tưởng, tưởng Trang 10

tượng

3.3. Biện pháp thứ ba: Bồi dưỡng năng lực tìm tịi, phát hiện
của học sinh

Trang 12

3.4. Biện pháp thứ tư: Bồi dưỡng năng lực phân tích, nhận xét, Trang 13
khái quát của học sinh
3.5. Biện pháp thứ năm: Bồi dưỡng năng lực tự bộc lộ- bình
của học sinh

Trang 14

3.6. Biện pháp thứ sáu: Bồi dưỡng năng lực tự nhận thức và
ứng dụng của học sinh

Trang 16

4. Kết quả cụ thể

Trang 18

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

Trang 19
Trang 19

2. Kiến nghị


Trang 20

3. Tài liệu tham khảo, phụ lục

Trang 21

1


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là một môn học chứa đựng những nội dung phong phú, đa dạng
về văn hoá và sự sống ; sinh động về tinh thần tư tưởng, tâm hồn của dân tộc.
Nó đã giành được vị trí xứng đáng trong nhà trường phổ thông. Điều đặc biệt
hơn là ở sức mạnh của nó. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã từng nói: Văn học nghệ
thuật là một thứ “vũ khí vơ song”. Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực xã
hội, là món ăn tinh thần khơng thể thiếu của mỗi con người. Nó làm cho tâm
hồn, tư tưởng, tình cảm thêm phong phú, nhạy cảm trước cái chân, cái thiện, cái
mỹ của cuộc đời. Văn học sẽ giúp con người hoàn thiện về nhân cách, sống tốt
hơn, cao thượng hơn, biết u thương mọi người và sống có ích cho mọi người.
Thông qua học văn và làm văn, kỹ năng làm văn sẽ được phát triển, nâng cao từ
viết đúng đến viết tốt, viết hay. Năng lực viết văn ngày càng cần thiết cho cuộc
sống của con người.
Với vị trí và sức mạnh riêng của mơn Văn học thì thơ ca cũng đóng góp
một khơng nhỏ để tạo nên vai trị cực kỳ quan trọng của văn học nghệ thuật
trong sự nghiệp xây dựng và đào tạo con người mới, con người sáng tạo. Trong
chương trình THCS, số bài thơ ca sau cách mạng tháng Tám - 1945 trong

chương trình Ngữ văn THCS là tương đối nhiều và được rải đều ở ba khối lớp
6,7,9. Chiếm một vị trí tương đối quan trọng trong chương trình, cho nên việc
dạy thơ sau cách mạng tháng 8 ở bậc THCS là mong muốn bồi dưỡng năng lực
thẩm mỹ, hình thành và rèn luyện thị hiếu thẩm mỹ tinh tế, lành mạnh cho học
sinh, giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc,
tinh thần quốc tế... Bồi dưỡng cho các em tình cảm nhân ái, vị tha, thái độ đoàn
kết, hợp tác và ý thức năng động, sáng tạo trong cuộc sống. Qua các tác phẩm
thơ đó còn giúp cho học sinh hiểu và cảm thụ được cái hay, cái đẹp của các tác
phẩm văn học nghệ thuật nói riêng. Ngồi ra cịn hình thành cho học sinh thái độ
sống, suy nghĩ và hành động theo cái hay, cái đẹp, có ham muốn sáng tạo thơ.
Mỗi tác phẩm thơ trữ tình rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc:
ngơn ngữ rất hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại. Hiểu được các bài thơ
một cách thấu đáo và giảng dạy như thế nào để học sinh cảm thụ được cái hay
cái đẹp của văn chương, tạo được sự rung cảm, bồi đắp được tâm hồn, trí tuệ
cho học sinh là vấn đề quan trọng được nhiều người quan tâm và là vấn đề mà
rất nhiều giáo viên đứng lớp rất trăn trở. Đặc biệt phần thơ hiện đại Việt Nam ở
lớp 9 chiếm số lượng lớn các văn bản, bao gồm 11 văn bản, thuộc nhiều giai
đoạn lịch sử khác nhau. Nội dung các văn bản khá phong phú và đa dạng: Tái
hiện cuộc sống đất nước và hình ảnh con người Việt Nam trong suốt thời kì lịch
sử từ sau cách mạng tháng Tám 1945 qua nhiều giai đoạn khác nhau. Chính vì lẽ
đó mà việc giảng dạy thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn THCS nói chung
và dạy phần thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở lớp 9 nói riêng là một vấn đề khó
đối với giáo viên Ngữ văn hiện nay. Bởi lẽ, năng lực phân tích thơ tuỳ thuộc rất
lớn vào trình độ hiểu biết văn chương, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ diễn đạt các
thao tác, phương pháp phân tích của người giáo viên cũng như nhiều năng lực
2


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9


khác nhau trong việc cảm thụ thơ trữ tình của học sinh. Vậy làm thế nào để nâng
cao hiệu quả giảng dạy thơ trữ tình nói chung và dạy thơ trữ tình hiện đại nói
riêng, đặc biệt là dạy phần thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở lớp 9 trong nhà
trường THCS?
Xuất phát từ mong muốn giảng dạy thơ trữ tình nói chung và dạy thơ trữ tình
Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ở lớp 9 đạt hiệu quả tốt hơn, các
em học sinh có thêm những năng lực đọc- hiểu phần thơ hiện đại Việt Nam lớp
9, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và chọn đề tài: “ Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu
cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 ”. Hy vọng góp một
phần nhỏ vào việc nghiên cứu khoa học và thực tế giảng dạy.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nâng cao hiệu quả của việc dạy thơ trữ tình Việt Nam sau cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở lớp 9, đồng thời bồi dưỡng cho các em học sinh có thêm
những năng lực cần thiết để đọc- hiểu phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 có kết
quả tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Các tác phẩm thơ trữ tình hiện đại Việt Nam sau cách mạng tháng 8- 1945
được dạy ở lớp 9 bậc THCS .
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu tác giả- tác phẩm
- Tìm hiểu lý luận văn học.
- Phương pháp phân tích tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 sau cách
mạng tháng 8
- Phương pháp điều tra, khảo sát chương trình sách giáo khoa ở THCS và
thực tế giảng dạy thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 ở một số trường THCS.
- Phương pháp thực nghiệm.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông là môn học mới được tổ chức
từ các bô môn cũ theo tư tưởng tích hợp. Tích hợp đây hiểu theo nghĩa là liên

kết tri thức để chúng thúc đẩy nhau tạo thành tri thức mới. Tích hợp ngơn ngữ
với văn tự (chữ viết), ngôn ngữ với bài văn (văn bản), ngôn ngữ với văn học,
ngơn ngữ với văn hố, ngơn ngữ nói với ngơn ngữ viết, ngơn ngữ với lời nói.
Tích hợp các phương diện ấy mới nâng cao năng lực ngơn ngữ và văn học cho
HS. Hai tính chất của Ngữ văn: tính cơng cụ, tính nhân văn. Tính cơng cụ thể
hiện ở yêu cầu dạy cho HS năng lực sử dụng Ngữ văn như một công cụ giao
tiếp, bao gồm các năng lực nghe, nói, đọc, viết. Nghe gồm năng lực chú ý, nghe
hiểu bài giảng, lời phát biểu, lời thảo luận… Nói gồm năng lực phát biểu trên
lớp, thảo luận, phỏng vấn, trả lời câu hỏi, kể chuyện ,thuyết minh vấn đề… Đọc
bao gồm đọc văn học và đọc các loại văn khác. Viết bao gồm năng lực viết các
văn bản…Hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những ý kiến về việc
3


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

phát triển các năng lực cho học sinh trong quá trình đọc- hiểu các văn bản thơ
trữ tình như năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề…Tuy nhiên để
làm tốt vấn đề này là một vấn đề không phải đơn giản và không thể làm trong
một sáng một chiều. Đây là trăn trở của tất cả các giáo viên dạy bộ mơn Ngữ
văn THCS.
Chương trình Ngữ văn THCS nói chung và chương trình Ngữ văn lớp 9 nói
riêng có rất nhiều tác phẩm thơ trữ tình hiện đại Việt Nam hay. Nội dung chủ đề
của các văn bản thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở lớp 9 cũng rất đa dạng: Phản
ánh đất nước và con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ với nhiều gian khổ hi sinh nhưng anh hùng; phản ánh tâm hồn, tình
cảm của con người : Tình u q hương, đất nước; tình đồng chí, sự gắn bó với
cách mạng, lịng kính u Bác Hồ; tình cảm gia đình ( tình bà cháu, tình cha
con, tình mẹ con…) thống nhất trong tình cảm chung rộng lớn hay đơn giản chỉ
là những suy ngẫm của người lính sau chiến tranh…Vậy để học sinh có thể hiểu

và cảm thụ hết được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm thơ hiện đại hiện đại Việt
Nam thì ngồi những yêu cầu riêng đối với giáo viên trong việc truyền đạt kiến
thức thì giáo viên cần chú ý rất nhiều đến việc phát triển các năng lực của học
sinh có nghĩa là làm cho học sinh khi tiếp nhận tác phẩm có sự tham gia của
tồn bộ nhân cách con người: tri giác, cảm giác, tưởng tượng, liên tưởng, suy
luận, trực giác, địi hỏi sự bộc lộ cá tính, thị hiếu và lập trường xã hội, sự tán
thành hay phản đối, đưa hình tượng từ tác phẩm vào thực tế đời sống để kiểm
nghiệm đồng cảm.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên, với mong muốn dạy thơ trữ tình
hiện đại Việt Nam ở trường THCS nói chung và lớp 9 nói riêng đạt hiệu quả tốt
hơn, tơi xin đưa ra các phương pháp để phát triển một số năng lực cơ bản cho
học sinh trong việc đọc- hiểu thơ trữ tình hiện đại Việt Nam lớp 9, cụ thể đó là:
- Phương pháp bồi dưỡng năng lực đọc và đọc sáng tạo.
- Phương pháp bồi dưỡng năng lực tìm tịi, phát hiện của học sinh
- Phương pháp bồi dưỡng năng lực liên tưởng, tưởng tượng
- Phương pháp bồi dưỡng năng lực phân tích, nhận xét, khái quát của
học sinh.
- Phương pháp bồi dưỡng năng lực tự bộc lộ- bình của học sinh.
- Phương pháp bồi dưỡng năng lực tự nhận thức, ứng dụng của học sinh
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Thực trạng của vấn đề

Vấn đề dạy học môn văn trong trường phổ thông đang là vấn đề thời sự
nóng hổi, ln thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới trong xã hội...
Theo khảo sát của các nhà giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây, chất
lượng học văn của học sinh THCS ở nước ta ngày càng giảm sút. Môn Văn đang
mất dần vị thế vốn có của nó. Tình trạng học sinh khơng cịn hứng thú với việc
học văn đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nhà trường phổ thông hiện nay.

4



Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

Trước thực trạng đó, đã có nhiều cuộc hội thảo, chuyên đề đổi mới
phương pháp dạy học văn được tổ chức dưới nhiều cấp độ khác nhau trong
phạm vi cả nước. Hàng loạt các phương pháp được đề xuất, thử nghiệm, như:
phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học tích hợp, phương
pháp dạy học theo nhóm… Giáo viên chưa kịp học hết các biện pháp để đổi
mới về phương pháp dạy học đã phải đối mặt với những “ma trận đề”… Vậy
mà “căn bệnh” ngại học văn của học sinh vẫn chưa có dấu hiệu thun giảm.
Thơng qua thực tế giảng dạy lớp 9 nhiều năm và qua quá trình giảng dạy
cũng như qua các bài kiểm tra của học sinh về thơ hiện đại Việt Nam ( Tiết
75-76 và tiết 129- Ngữ văn 9) tôi nhận thấy một thực trạng như sau:
Kỹ năng đọc sáng tạo của học sinh yếu.
Học sinh hạn chế khả năng liên tưởng, tưởng tượng khi phân tích tác phẩm.
Khả năng tìm tịi, phát hiện những từ ngữ quan trọng thể hiện nội dung
hoặc những tín hiệu nghệ thuật của học sinh cịn chậm( đặc biệt là những học
sinh yếu, kém).
Khi phân tích học sinh khó khái quát vấn đề.
Năng lực tự bộc lộ( bình ) của đa số học sinh yếu.
Lúng túng trong đánh giá , nhận định nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Khả năng nhận thức ứng dụng của học sinh sau khi tìm hiểu tác phẩm cịn
hạn chế.
Việc vận dụng ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương vào phát triển
ngôn ngữ tiếng Việt và nâng cao khả nng núi, vit yu.
2.2. Kt qu ca thc trng:
Năm học 2014- 2015 tôi đợc nhà trờng phân công dạy
môn Ngữ văn lớp 9B, với tổng số là 33 em. Qua thực tế giảng
dạy, qua dự giờ của giáo viên trong trờng, qua việc kiểm tra

đánh giá bằng nhiều hình thức, qua kết quả của việc làm bài
cm th v cỏc văn bản thơ hiện đại Việt Nam của học sinh, tôi thu đợc kết
quả nh sau:
Năm học

20142015

Lớp / sĩ số

9B / 33

Điểm
Khá- giỏi
8 em

Điểm
Trung
bình
17 em

Điểm
YếuKém
8 em

Nh vậy, thực trạng học sinh làm bài đạt kết quả Khá- Giỏi cha cao, kĩ năng làm bài cm th v cỏc vn bn th hin i Vit Nam còn
hạn chế. Đa số học sinh khi lµm kiĨu bµi nµy thêng sa vµo diễn
xi lại nội dung bi th hoặc đoạn th. Kh nng tìm tịi phát hiện các
5



Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

hình ảnh thơ, hoặc bình thơ… cịn yếu. Học sinh chưa phát huy hết được các
năng lực cảm thụ văn bản thơ trữ tình hiện đại Việt Nam.
2.3. Đánh giá thực trạng:
Thực trạng trên là do những nguyên nhân sau:
* Nguyên nhân khách quan:
- Các tác phẩm trữ tình được sáng tác trong những hoàn cảnh lịch sử khác
xa cuộc sống hiện tại do đó học sinh khó cảm nhận được thực tế cuộc sống mà
tác phẩm phản ánh.
- Vốn sống của học sinh hạn chế do đó các em khó hình dung ra những
cảnh tác giả đề cập đến khơng gần với cuộc sống của các em.
- Thời lượng của một số bài ít so với nội dung cần khái thác của tác phẩm
nên khơng có thời gian để giáo viên rèn kỹ năng cho học sinh.
* Nguyên nhân chủ quan:
+) Về phía học sinh:
- Học sinh chưa thực sự nhận thức được vai trị của mơn học Ngữ văn là
thơng qua các tác phẩm văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thị hiếu
thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ cho học sinh. Học sinh có được những tình cảm, cảm
xúc đối với những người thân yêu của mình, với gia đình mình, với đất nước
mình, biết đồng cảm với những nỗi đau của những người bất hạnh, biết chia vui
với những người thành đạt… Từ đó, nhiều em có tư tưởng ngại học. Nhiều học
sinh chưa thực sự hứng thú, u thích mơn học, thậm chí có tâm lý “ngại”, “sợ”
học văn. Các em cảm thấy ngại viết văn, thậm chí coi việc làm văn là một cơng
việc khó khăn, nặng nề. Vì vậy nhiều học sinh chưa có phương pháp học tập
đúng đắn. Đơi khi học tập cịn mang tính đối phó, thụ động, lệ thuộc nhiều vào
sách hướng dẫn, sách để học tốt Ngữ văn…
- Nhiều em chỉ coi trọng những môn tự nhiên, không thích các mơn học xã
hội. Nhiều em khả năng cảm thụ văn còn yếu, năng lực diễn đạt còn hạn chế.
Đặc biệt là các em còn lười trong khâu chuẩn bị bài, soạn bài. Vì vậy, khi các em

chưa hiểu, chưa nắm được văn bản thì việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn bản
là hết sức khó khăn.
+) Về phía giáo viên:
- Vẫn cịn một số giáo viên khi dạy thơ trữ tình chưa thể hiện những đặc
trưng cơ bản của thơ trữ tình và đặc điểm của thơ trữ tình Việt Nam sau cách
mạng tháng Tám- 1945. Một số giáo viên đã dạy thơ trữ tình giống như đọc
truyện, chú ý đến cấu trúc phản ánh đến hơn là cấu trúc biểu hiện của thơ.
- Một số giáo viên khi dạy phần thơ trữ tình hiện đại còn sử dụng nhiều
phương pháp cổ truyền, việc đổi mới phương pháp còn chậm. Khi hướng dẫn
học sinh học tập phần thơ nói chung và phần thơ hiện đại Việt Nam nói riêng
vẫn cịn có giáo viên thụ động trong truyền đạt dẫn đến phương pháp dạy học
chưa hợp lí: Sử dụng phương pháp thuyết trình nhiều hơn cả, cách đặt câu hỏi
vụn vặt, không trọng tâm…cho nên học sinh thụ động tiếp nhận kiến thức.

6


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

- Về phương pháp sư phạm, nhược điểm cần nói đến trước tiên là tỉ lệ
không cân xứng giữa các loại câu hỏi. Câu hỏi phát hiện thường đưa ra gấp
nhiều lần câu hỏi cảm thụ. Câu hỏi tạo tình huống, câu hỏi có vấn đề khá hiếm
hoi. Câu hỏi ấy dẫn đến hậu quả là học sinh chỉ còn tập trung vào hoạt động đọc
thơ phát hiện hình ảnh, các chi tiết nghệ thuật để sau đó chuẩn bị lắng nghe nên
cảm thụ của chính thầy. Có giờ dạy, giáo viên đặt câu hỏi cảm thụ song không
quan tâm đến câu trả lời của học sinh. Cách hỏi như thế là hỏi cho phải phép.
Nhưng cũng có giờ dạy nhìn bề ngồi có vẻ khá sinh động, học sinh phát biểu
sôi nổi, song nếu chú ý sẽ thấy cấc câu hỏi khá vụn vặt, khơng có giá trị suy
nghĩ cảm thụ ...
Ví dụ : Khi giảng bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải có giáo

viên đã đặt câu hỏi như sau: Bài thơ được phổ thành gì? Nghe ai hát? Hoa và
chim làm cho mùa xuân như thế nào? Trong hồn cảnh nào thì “cái tơi” có giá
trị ?...Đây là những câu hỏi vụn vặt khiến học sinh khơng tập trung vào nội
dung chính của bài.
- Về thao tác hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm, một số giáo viên còn vận
dụng khá cứng nhắc. Cho học sinh đọc diễn cảm thơ là tốt nhưng đọc vào lúc
nào, yêu cầu của mỗi công đoạn như thế là điều cần xem lại và bàn bạc.
- Về thao tác ghi bảng, cũng cịn nhiều điều đáng nói: Một số giáo viên ghi
quá chi tiết dẫn đến quá dài, ghi quá ngắn học sinh về nhà khó học bài . Hoặc
lời văn ghi bảng ở một số bài dạy chưa trau chuốt, chưa có tác dụng khơi gợi
cảm xúc tạo ấn tượng đối với học sinh…
Xuất phát từ những thực trạng trên, tôi thiết nghĩ việc chú trọng đến việc
phát triển các năng lực để đọc và cảm thụ các văn bản thơ hiện đại cho học sinh
là việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết trong nhà trường nói chung và đối với
học sinh lớp 9 nói riêng.
3. Các biện pháp đã sử dụng để bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh
qua dạy– học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9
3.1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng năng lực đọc cho học sinh:
3.1.1. Hình thành thói quen đọc trực tiếp văn bản
GS Trần Đình Sử trong bài Con đường đổi mới căn bản phương pháp
dạy-học văn khẳng định: “Khởi điểm của môn Ngữ Văn là dạy học sinh đọc
hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không trực tiếp đọc
các văn bản ấy, khơng hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao
đẹp của môn văn đều chỉ là nói sng, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn
học”. Đáng tiếc là nhiều năm nay, trong nhà trường THCS đã diễn ra tình trạng,
học sinh khơng cần đọc trực tiếp văn bản nhưng vẫn soạn được bài, thậm chí khi
thầy cơ giáo u cầu “hoạt động nhóm” và cử đại diện trình bày…, các em vẫn
tỏ ra làm việc tích cực và phát biểu một cách gọn gàng. Giáo viên, dù biết rõ học
sinh đang trong vai diễn, nhưng vẫn cứ khen trị của mình trả lời rất tốt, rất giỏi!
Việc học sinh xem nhẹ đọc tác phẩm đã làm hạn chế khả năng cảm thụ và sáng

7


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

tạo của chính mình, từ đó khiến cho học sinh chỉ biết tiếp thu một cách thụ động,
mất dần kĩ năng đọc hiểu văn bản, thiếu năng lực đọc một cách sáng tạo. Như
vậy, mấu chốt của vấn đề nâng cao hiệu quả cảm thụ văn học chính là ở việc đọc
trực tiếp văn bản văn học- Đây là bước đầu tiên để học sinh tiếp cận với tác
phẩm.
Học sinh thường ngại đọc tác phẩm khi soạn bài, lý do chưa hẳn là vì tác
phẩm khơng hay hoặc học sinh khơng thích văn học. Đơn giản vì các em phải
học q nhiều mơn học. Ngồi ra, lối sống thực dụng trong xã hội hiện nay cũng
có một tác động khơng nhỏ đến điều này. Kết quả khảo sát những năm gần đây
cho thấy, hầu hết học sinh THCS đều thích các mơn học thời thượng như Tốn,
Lí, Hố ,Tiếng Anh, rất ít học sinh thích học mơn Văn , theo đó ln trong tình
trạng đối phó của các em.Tài liệu tham khảo đã trở thành cẩm nang trong mọi
tình huống. Số ít những em u thích mơn Văn thì bài giảng của thầy, những tài
liệu phân tích bình giảng tác phẩm, những sách văn mẫu, tài liệu luyện thi… sẽ
là những vật bất li thân, là "bùa hộ mệnh. Nhận thức được điều đó, tơi thường
u cầu học sinh tóm tắt một số nội dung tác phẩm trước bằng lập sơ đồ, bảng
biểu, sau đó kiểm tra thực hiện của học sinh trong thời gian hỏi bài cũ.
Ví dụ: Chuẩn bị cho bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ", tôi yêu cầu học sinh
lập bảng:
- Bảng 1: Tìm hiểu tác giả Thanh Hải và tác phẩm "Mùa xuân nho nhỏ", (Yêu
cầu: Học sinh tìm hiểu và hồn tất các thơng tin về tác giả, quê quán, thời đại...
về hoàn cảnh ra đời, nội dung và đặc điểm thể loại...)
- Bảng 2: Khái quát mạch cảm xúc của bài thơ để có cách đọc phù hợp: Bài thơ
có mạch cảm xúc của tác giả về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước và
qua đó thể hiện ước nguyện được cống hiến cho đời.

Như vậy để trả lời các câu hỏi và trình bày được các yêu cầu trên, nhất
định học sinh phải đọc phần chú thích về tác giả và đọc trực tiếp văn bản thơ,
vừa đọc vừa suy ngẫm, vừa hiểu. Ban đầu, việc làm này chưa nhận được sự
hưởng ứng nhiệt thành, gây tâm lí lo ngại trong học sinh , nhưng dần dần đã trở
thành việc làm bình thường và có hiệu quả. Thói quen này tơi nhận thấy đã được
hình thành một cách tự giác trong học sinh và như thế chính giáo viên, học sinh
đã làm được một khâu quan trọng trong yêu cầu đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình
nói chung, thơ trữ tình hiện đại Việt Nam nói riêng.
3.1.2. Bồi dưỡng năng lực đọc sáng tạo:
Cùng quan điểm với GS Trần Đình Sử, cố GS Hoàng Ngọc Hiến nhấn
mạnh yêu cầu cần đạt được của việc đọc văn bản là phải nắm bắt trúng giọng
điệu của tác phẩm. Theo ơng, “Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài
văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt
được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho
tác phẩm mình viết. Bắt được giọng đã khó, làm cho học sinh cảm nhận được
cái giọng càng khó, cơng việc này địi hỏi sáng kiến và tài tình của giáo viên …”.
Tục ngữ có câu: “Ăn khơng nên đọi, nói khơng nên lời”. “Nói khơng nên lời” là

8


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

một sự đau khổ của con người. Năng lực văn nhất thiết phải bao hàm năng lực
nói nên lời.
Đọc sáng tạo chiếm một vị trí tương đối quan trọng trong dạy học văn.
Thực chất đây là cách tiếp cận nghệ thuật có sáng tạo mà vấn đề chủ yếu cần
quan tâm đó là sự cảm thụ trực tiếp. Một trong những biện pháp có hiệu quả để
học sinh đọc sáng tạo là đọc diễn cảm. Không biết đọc diễn cảm, không tìm
được ngữ điệu thích đáng trong giảng bài, đó là sự bất lực của người dạy văn.

Có nhiều giáo viên có kiến thức, nhưng khi giảng bài, học sinh thấy chán, buồn
ngủ, bởi vì giáo viên đó thiếu khẩu khí, thiếu hơi văn, chưa tìm được ngữ điệu,
giọng điệu thích đáng cho mình. Như vậy, người dạy văn giỏi, ngồi kiến thức
cần phải có ngữ điệu, giọng điệu phù hợp, đa dạng. Có như vậy tác phẩm mới
tác động sâu vào cảm nhận của học sinh. Và đây là một phần quan trọng để phát
huy tiềm lực, kích thích hứng thú học văn của học sinh. Ngữ điệu và giọng điệu
trong dạy học môn văn trước hết được thể hiện ở khả năng đọc diễn cảm và ngữ
điệu giảng bài của giáo viên. Vậy đọc diễn cảm là gì? Ngồi việc đọc đúng quy
tắc ngữ pháp, đúng đặc trưng thể loại. Mỗi tác phẩm có một giọng điệu riêng.
Nắm bắt đúng giọng điệu của tác phẩm chính là nắm bắt đúng tư tưởng và tình
cảm của tác giả. Tác phẩm trữ tình cần đọc khác với tác phẩm tự sự; đọc đoạn
đối thoại khác đoạn độc thoại nội tâm; đọc văn tả khác đọc văn kể, văn tường
thuật; đọc văn chính luận khác với đọc bài tùy bút…
Đối với học sinh, muốn đạt tới trình độ đọc diễn cảm, học sinh phải đọc
đúng đọc hay. Đọc đúng là đọc trung thành với nội dung ý nghĩa của văn bản.
Đọc hay là biết phát huy ưu thế về chất giọng, biết khắc phục những nhược điểm
về phát âm để làm chủ giọng đọc và kỹ thuật đọc phù hợp với giọng điệu cảm
xúc của nhà văn và ý nghĩa của tác phẩm.
Đọc sẽ làm âm vang lên những tín hiệu của cuộc sống mà nhà văn định gửi
gắm. Âm vang của lời đọc kích thích q trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện
tình cảm.Nhập thân vào tác phẩm chỉ có thể bắt đầu bằng đọc diễn cảm. Nghệ
thuật đọc diễn cảm chính là nghệ thuật xử lý một cách hợp lý mối quan hệ giữa
khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện của tác giả, quan hệ giữa chủ quan
người đọc và chủ quan tác giả đến bạn đọc. Giọng đọc là thước đo tần số rung
động rung cảm của người đọc đối với tác phẩm và tác giả. Bằng ngữ điệu của
mình, học sinh làm nổi bật được tiếng nói nhất là ngụ ý của nhà văn trong từng
dòng thơ, từng đoạn thơ qua việc nhấn mạnh trọng âm lơ gíc, trọng âm tâm lý và
ngữ pháp. Đọc diễn cảm có thể dưới nhiều hình thức khác nhau, đọc to, đọc
thầm, đọc theo vai. Đọc có thể thực hiện ở tất cả các bước của tiến trình giờ dạy
với những yêu cầu không giống nhau: đọc cả bài, đọc từng đoạn, đọc để gây

khơng khí; đọc để sáng tỏ lời bình, đọc đầu giờ và đọc ở phần kết thúc bài giảng.
Như vậy, qua âm vang của giọng đọc, học sinh nắm được chi tiết cụ thể
về nghệ thuật, nội dung từ đó có năng lực cảm nhận về tác phẩm. Một điều đáng
lưu tâm là học sinh phải phân biệt được việc đọc thơ sẽ khác với việc đọc văn
xi. Nếu là tác phẩm thơ thì giọng điệu thường thể hiện trong tiết tấu, nhịp

9


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

điệu, cường độ, âm hưởng, ngơn ngữ...cịn trong tác phẩm văn xi thì giọng
điệu chủ yếu thể hiện qua thái độ, sắc thái ngôn ngữ khác nhau của tác giả.
VÝ dô: - Khi dy bi th Viếng lăng Bác, tụi đã cho học sinh đọc
diễn cảm hai lần đặc biệt lưu ý học sinh khi đọc các câu thơ:
“ Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Khi đọc câu thơ trên học sinh phải bắt cho ra cái giọng tha thiết mà lắng
đọng “ mà sao” để thể hiện nỗi đau xót “nghe nhói” của tác giả, của nhân dân
miền Nam trước sự ra đi của Người.
- Hay khi dạy bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” để giúp các em
đọc đúng, đọc hay bài thơ, tôi đã lưu ý cho các em về ngôn ngữ thơ mà tác giả
sử dụng, cách ngắt nhịp thơ, học sinh đọc thể hiện, và nhận xét, uốn nắn cho các
em. Và cái đích cuối cùng học sinh cần đạt được là đọc bài thơ với một giọng
điệu thản nhiên, khoẻ khoắn, ngang tàng thể hiện sự sôi nổi, trẻ trung của người
lính lái xe bất chấp gian khổ, hiểm nguy…
- Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
- Khơng có kính/ ừ thì có bụi
- Khơng có kính/ ừ thì ướt áo.
Qua việc hướng dẫn học sinh đọc đúng, sáng tạo, tôi nhận thấy học sinh hứng

thú hơn trong các tiết học thơ trữ tình hiện đại và khơng cịn tâm lí e ngại học
giờ Ngữ văn nữa.
Như vậy: Bằng hình thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh
những bất ngờ, hứng thú, giúp các em có cảm nhận mới mẻ về văn bản, kích
thích khả năng liên tưởng, trí tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật
của văn bản. Có thể nói, phát triển năng lực đọc diễn cảm là biện pháp hữu hiệu
trong rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh.
3.2. Biện pháp 2: Bồi dưỡng năng lực liên tưởng, tưởng tượng:
Kỹ năng này phù hợp với giai đoạn bước đầu của cảm thụ tác phẩm từ vỏ
âm thanh đến lớp hình. Đây là hoạt động giúp học sinh bước vào thế giới nghệ
thuật. Tác phẩm được tái hiện trong tưởng tượng của học sinh khơng cịn là tổng
hợp ký hiệu chết, phi vật thể nữa mà là những tác phẩm đích thực đang tồn tại
trong trí tưởng tượng của học sinh. Nếu ta khơng hình thành và phát triển năng
lực này cho học sinh thì khơng có sự thâm nhập vào tác phẩm. Có thể nói đây là
bước giúp cho người đọc “nhìn vào bên trong” tác phẩm .
Để phát triển năng lực liên tưởng, tưởng tượng giáo viên cần có câu hỏi yêu
cầu học sinh liệt kê ghi chú những từ ngữ, hình ảnh mang ý nghĩa nội dung
nhằm nhận diện một nhân vật, một phong cách, một bức tranh...
VÝ dơ: Khi hướng dẫn học sinh phân tích "Bài thơ về tiểu đội xe khơng
kính” sau khi cho học sinh tìm hiểu về hình ảnh những chiếc xe khơng
kính, tơi đã đặt câu hỏi để kích thích khả năng liên tưởng, tưởng tượng của
học sinh:

10


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

Câu hỏi: ? Hình ảnh những chiếc xe khơng kính trong bài thơ giúp em hình
dung ra hiện thực của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ của dân tộc ta như

thế nào?
- Học sinh có thể dựa vào hiểu biết của mình về lịch sử cũng như qua cách
miêu tả của nhà thơ về những chiếc xe khơng kính mà liên tưởng đến hiện thực
của cuộc chiến tranh và từ đo có thể khái quát: Đó là hiện thực của cuộc chiến
tranh khốc liệt. Bom đạn của kẻ thù đã tàn phá đi rất nhiều thứ.
VÝ dô: Ở bài “ Đoàn thuyền đánh cá” , bài thơ dưới cảm hứng lãng
mạn nhưng lại rất hiện thực. Thơ ngắn gọn nhưng “ thơ cũng là hoa”. Vì vậy,
với mọi chi tiết thơ, giáo viên cần cho các em tưởng tượng một cách cụ thể.
Chẳng hạn, đọc khổ đầu , các em có thể hình dung ra cảnh màn đêm bng
xuống và đoàn thuyền ra khơi. Để các em tưởng tượng tốt, giáo viên có thể vẽ
hình ảnh đó và cho các em xem kết hợp với sự thuyết trình về thời gian làm
việc sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn ý nghĩa của vấn đề.
Hay cảnh đánh cá vất vả, gian khổ và nguy hiểm, giáo viên cũng cần gợi
qua về cơng việc của người đánh cá ngồi biển: Phải đi xa, dị sâu mới có nhiều
cá,...Từ đó các em sẽ hình dung ra cảnh lao động của ngư dân trong một chuyến
đi biển nhọc nhằn như thế nào đồng thời cũng thấy được bút pháp lãng mạn
trong thơ Huy Cận.
Kết thúc bài thơ tôi đã đặt câu hỏi để phát triển khả năng liên tưởng, tưởng
tượng của các em:
Câu hỏi: ? Thơng qua việc miêu tả một hình ảnh rất cụ thể: Cảnh đoàn
thuyền ra khơi đánh cá, cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển và đoàn thuyền
đánh cá trở về bằng cảm hứng lãng mạn kết hợp với hiện thực giúp em liên
tưởng đến hiện thực miền Bắc những năm xây dựng CNXH như thế nào?
- Học sinh khái qt: Khơng khí miền Bắc những năm xây dựng CNXH hết
sức khẩn trương, người lao động vui tươi, phấn khởi lao động, tràn đầy niềm tin
vào tương lai đất nước…
VÝ dơ: Khi dạy bài thơ “Đồng chí” , tơi đã giúp học sinh liên tưởng và
tưởng tượng đến quá khứ. Sống trong một xã hội đầy đủ vật chất, nếu khơng
giúp các em tự tưởng tượng thì có lẽ rất khó trong cảm nhận vẻ đẹp bình dị, giản
đơn mà cao đẹp của người lính:

“ Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày”
Đói rách, thiếu thốn là điều kiện thực tế, nhưng các em tưởng tượng ra về
thực tế cuộc sống đó khơng phải để coi thường mà là sự khâm phục, kính trọng
các anh: Trong hồn cảnh khơng mấy thuận lợi ấy, người lính vẫn tốt lên vẻ đẹp
sáng ngời.
Cũng chính từ hồn cảnh ấy, tơi giúp các em ngược dịng hiểu về cuộc chiến
đấu chống Pháp của các anh bộ đội, của dân tộc ta: Sự chiến thắng đã đánh đổi
bằng sự vươn lên, vượt qua khó khăn gian khổ. Từ đó, các em soi rọi vào chính
11


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

bản thân mình cần học đức tính đó trong học tập, trong cuộc sống đời thường,...
noi gương anh bộ đội kính yêu.
Việt Nam cho đến bây giờ vẫn là một dân tộc còn hạn chế về tiềm lực kinh
tế, song từ bài này, cùng với một số bài thơ khác nữa các em cảm thấy tự hào về
truyền thống đánh giặc , về ý thức vượt lên gian khổ đầy nghị lực phi thường.
Cũng từ đó, các em có ý thức giữ gìn và phát huy nét đẹp đó trong tương lai bởi
chính các em là chủ nhân của đất nước này.
Bằng những câu hỏi nhằm khơi gợi khả năng liên tưởng, tưởng tượng của
học sinh, tôi nhận thấy học sinh đã say mê hơn với tiết học, học sinh đã hiểu bài
và cảm thụ văn bản thơ trữ tình nhất là các văn bản thơ trữ tình hiện đại Việt
Nam được đầy đủ và cụ thể hơn.
3.3. Biện pháp 3: Bồi dưỡng năng lực tìm tịi, phát hiện của học sinh:
Tác phẩm văn chương là một tổ chức tinh vi , là một cấu trúc phức tạo
nhiều tầng , là sự kết hợp hữu cơ giữa khách quan được phản ánh với chủ quan

biểu hiện của tác giả. Nếu chỉ tái hiện được lớp cấu tạo âm thanh, lớp vỏ vật
chất, lớp hình vẫn chưa nắm được tác phẩm, lớp nghĩa, lớp ý của tác phẩm.
Bồi dưỡng năng lực cho học sinh khơng chỉ địi hỏi học sinh tri giác ngơn
ngữ nghệ thuật, tưởng tượng mà cịn biết phân tích, cắt nghĩa, so sánh tổng hợp,
khái quát để nắm được tác phẩm. Giáo viên cần đưa ra những câu hỏi cần thiết,
vừa đủ nhằm gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm tịi, khám phá những giá trị của tác
phẩm, đơi khi cần dự tính nhiều đến tình huống có thể xảy ra ở học sinh. Chính
bước dẫn dắt học sinh phát hiện phần nghĩa phần ý của tác phẩm mới biểu lộ rõ
bản chất sáng tạo của câu hỏi.
VÝ dô: Khi dạy bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”, khi hướng dẫn học sinh
tìm hiểu khổ thơ đầu tiên đó là tìm hiểu những cảm xuân của nhà thơ Thanh
Hải về mùa xuân thiên nhiên, tôi đã đặt những câu hỏi để phát triển khả
năng tìm tịi, phát hiện của học sinh:
Câu hỏi: ? Trong khổ thơ thứ nhất, xúc cảm về mùa xuân được thể hiện qua
những hình ảnh và âm thanh nào?
- Học sinh sẽ tìm trong văn bản:
+ Hình ảnh bơng hoa và dịng sơng, sương sớm ngày xuân…
+ Âm thanh tiếng chim chiền chiện
-> Đó là khung cảnh tươi đẹp, sáng sủa, rộn rã, vui tươi.
Câu hỏi: ? Em hãy chỉ ra biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ:
“Từng giọt long lanh rơi
Tơi đưa tay tơi hứng”.
- Học sinh tìm tịi và phát hiện: Nghệ thuật sử dụng trong hai câu thơ
trên là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Giọt long lanh ở đây có thể là giọt
nắng, giọt mùa xuân hay giọt hạnh phúc cuộc đời. Nhưng ở đây chính là giọt âm
thanh của tiếng chim chiền chiện hót. Cái đặc sắc là sử dụng nghệ thuật ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác tiếng chim từ chỗ âm thanh được cảm nhận bằng thính giác

12



Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

chuyển thành hình khối và long lanh ánh sáng và sắc màu ....Tác giả cảm nhận
tất cả vẻ đẹp của mùa xuân bằng cảm xúc say sưa, trân trọng.
Tóm lại, Việc đặt các câu hỏi khi phân tích tìm hiểu các bài thơ làm cho học
sinh phải suy nghĩ, tìm tịi, tổng hợp, khái quát, tự học sinh tìm ra được câu trả
lời. chính là giáo viên đã phát triển được năng lực tìm tịi, phát hiện của học
sinh, tránh lối học thụ động đựa vào văn mẫu hoặc hướng dẫn của thầy cô.
3.4. Biện pháp 4: Bồi dưỡng năng lực phân tích, nhận xét, khái quát
của học sinh:
Năng lực tái hiện và liên tưởng sơ bộ đưa học sinh dần bước vào thế giới
nghệ thuật của tác phẩm. Năng lực tìm tịi, phát hiện nhằm dẫn dắt học sinh
hướng vào cấu tạo đặc thù và tư tưởng cơ bản của tác phẩm. Nhưng mọi tìm
kiếm, nhận biết đó chỉ thực sự có ý nghĩa tiêu biểu quy tụ vào chủ đề của tác
phẩm. Với mức độ từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, cần cho học sinh
đi từ khâu phát hiện hình ảnh, chi tiết, biện pháp nghệ thuật, sau đó mới đi vào
phân tích theo hướng dẫn của thầy. Sau khi học sinh phân tích từ ngữ, hình ảnh,
giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đưa ra những nhận xét hay khái qt của
mình.
VÝ dơ: Khi dạy bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”- Phạm Tiến
Duật, sau khi nêu các câu hỏi để học sinh tìm tịi, phát hiện biện pháp nghệ thuật
được sử dụng trong hai câu thơ cuối:
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
- Học sinh phát hiện nghệ thuật sử dụng trong hình ảnh thơ “ một trái tim” đó
là sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ. Giáo viên cần đặt câu hỏi:
Câu hỏi ? Hình ảnh “ một trái tim” được đưa vào trong thơ mang ý
nghĩa gì? Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh điều gì?
- Học sinh cần nhận xét khái quát được vấn đề : Tình u miền Nam là sức

mạnh vơ song, tinh thần bất khuất của con người quyết tâm giải phóng miền
Nam, xe có thể thiếu nhiều thứ nhưng khơng thể thiếu được trái tim hướng về
miền Nam.
Từ ngữ, hình ảnh thơ tạo nên sự đặc sắc của bài thơ. Giáo viên cần cho
học sinh chọn từ hay và hình ảnh thơ có giá trị để rồi từ đó tự các em phân tích
để tìm nội dung và nghệ thuật.
Ví dụ Khi phân tích phần thứ nhất trong bài thơ “Đồn thuyền đánh
cá”:
“ Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Từ cảnh ra khơi học sinh cần bám sát biện pháp so sánh nhân hóa “mặt trời
xuống biển như hịn lửa”,”sóng cài then”,”đêm sập cửa”, và từ “ lại” để làm rõ
đoàn thuyền ra khơi khi vũ trụ đi vào nghỉ ngơi như bao nhiêu lần đầy khí thế .

13


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

Trong phân tích cũng cần hướng cho học sinh tập trung theo ý thơ dù các ý
đó khơng tập trung ở từng khổ thơ. Ở đây thiên nhiên và con người lao động
luôn song song, không tách rời nhau. Chẳng hạn:
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
“ Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao luà đất Hạ Long” .
Một điều học sinh cần biết thêm đó là Huy Cận viết bài thơ này khi miền
Bắc đang hối hả xây dựng chủ nghĩa xã hội và tâm hồn cũng như con đường thơ
của tác giả đang chuyển mình theo niềm vui thời đại. Điều đó được nhà thơ thể
hiện qua hình ảnh được nhắc đi, nhắc lại “ câu hát” và “ mặt trời”.
Như vậy trong quá trình dạy học tác phẩm trữ tình nếu như giáo viên kết
hợp được sự cảm thụ chi tiết với với sức khái quát sâu sắc khi chiếm lĩnh một
tác phẩm văn chương thì giáo viên đã hình thành và phát triển cho học sinh năng
lực phân tích, khái quát. Đây là một việc làm cực kỳ quan trọng để nâng cao
trình độ cảm thụ tác phẩm văn chương lên một bước cao hơn.
3.5. Biện pháp 5: Bồi dưỡng năng lực tự bộc lộ- bình văn của học sinh:
Bình văn là thể hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc đối với tác
phẩm. Đây là bước cao nhất trong việc tiếp cận tác phẩm văn học ( nhất là tác
phẩm thơ trữ tình) . Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ có khả năng đánh thức
liên tưởng của học sinh, là con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế
giới nghệ thuật văn bản, góp phần nâng cao giá trị thẩm mỹ của bài văn, bài thơ,
khơi dậy ở trái tim non trẻ của các em tình yêu con người và cuộc đời để các em
biết ghét cái ác, cái xấu hướng tới chân, thiện mỹ. Biện pháp này cho phép giáo
viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng
tạo của học sinh, tạo nên sự giao lưu,cộng hưởng về tình cảm trong giờ văn.
Cái khó của đọc thơ là làm sao cảm nhận được được nội tâm và chuyển
được tiếng nói nội tâm ấy sang đời sống nội tâm người tiếp nhận . Dạy một tác
phẩm cho học sinh không chỉ dạy ở mức độ “ nhìn ra”( bên trong) thế giới nghệ
thuật của tác giả. Con đường đi đến là cảm xúc vui, buồn, lo lắng, hồi hộp, đồng
tình phẫn nộ, dạy học sinh chiếm lĩnh là dạy học sinh bộc lộ được những rung
động, những cảm xúc đó trước nghệ thuật của nhà thơ. Hình thành và phát triển
năng lực tự bộc lộ, một mặt là để giáo viên hướng dẫn, điều chỉnh, bổ sung,
nâng cao những thu nhận cảm xúc của học sinh. muốn bộc lộ được tình cảm của
bản thân trước các quan điểm của tác giả, học sinh phải am hiểu được qua hàng

loạt các chi tiết sáng tạo nghệ thuật của tác giả trong tác phẩm.
Quá trình hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tác phẩm nhất thiết là quá trình
giáo viên theo dõi diễn biến tâm lý, tình cảm của học sinh qua sự bộc lộ của các
14


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

em thơng qua những biện pháp sư phạm có thể sắp đặt rất cơng phu của giáo
viên . Bộc lộ tình cảm của bản thân không nhất thiết là bao giờ học sinh cũng
phải nói lên thái độ đồng tình hay phản đối, u hay ghét của mình. Có khi tình
cảm được bộc lộ thông qua một biện pháp nghệ thuật của tác giả.
VÝ dơ: Khi phân tích bài thơ “Đồng chí” , tơi đặt câu hỏi:
? Em hiểu gì về dụng ý của tác giả Chính Hữu khi đặt hai từ “ Đồng chí”
thành một dịng?
- Học sinh bằng khả năng tìm tịi, phát hiện, bằng sự liên tưởng, và bằng sự
hiểu biết của mình sau khi tìm hiểu nội dung các câu thơ ở trên có thể đưa ra
những lời bình của mình về hai từ “Đồng chí”. Tuy nhiên học sinh chưa thể có
được khả năng bình một cách sắc sảo, mới chỉ dừng lại ở sự trình bày cảm nhận,
giáo viên vẫn khuyến khích học sinh, giáo viên cần sửa chữa, bổ sung nên tránh
sự áp đặt một cách khiên cưỡng ý cơ hay ý trị.
- Giáo viên đưa ra những lời bình để học sinh hiểu:
“Từ “Đồng chí” được đặt thành cả một dịng thơ ngắn gọn mà ngân
vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “Đồng chí’ với dấu chấm cảm như một nốt
nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khac nhau, nhấn mạnh sự thiêng
liêng cao cả trong tình cảm mới mẻ này. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục
đích. Nhưng trong tình cảm ấy một khi có cái lõi bên trong là “tình tri kỉ” lại
được thử thách, được tơi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. Khơng
cịn anh, cũng chẳng cịn tơi, họ đã trở thành một khối đồn kết, thống nhất gắn
bó. Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nơng dân),

có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung
mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí” họ khơng chỉ
cịn là người nơng dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành anh em trong cả
một cộng đồng với một lý tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên sự hồi
sinh cho quê hương, cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có 2 chữ như chất chứa, dồn
nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ
tiếp theo. Quả thật ngơn từ Chính Hữu thật là hàm súc”
-> Từ cách bình đó giáo viên hướng cho các em kỹ năng bình từ nghệ thuật
đến nội dung, tư tưởng mà không đơn thuần là chỉ bình về mặt nội dung, ý
nghĩa. Có như vậy, các em mới có kỹ năng sáng tạo cảm nhận trong bài viết tập
làm văn khi phân tích một tác phẩm thơ.
VÝ dô: Ở bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính ", học sinh có thể
bình ở nhiều chi tiết, hình ảnh thơ chẳng hạn “ Ung dung buồng lái ta ngồi”,
điệu cười “ ha ha”; “ bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, ... song sức nặng của bài thơ
dồn tụ lại ở hình ảnh “ một trái tim”. Do vậy, phân tích bài thơ giáo viên cần
hướng dẫn cho các em đây là điểm bình quan trọng.
Trước hết cũng cần cho học sinh xác định đây là hình ảnh hốn dụ thể hiện
tình u lí tưởng, tình yêu nước, tình yêu với miền nam ruột thịt, từ đó các em
nâng lên thành lời bình.
Giáo viên đưa ra lời bình mẫu:

15


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

“ Kẻ thù định biến ta từ “có” thành “ khơng”, ta lại biến ´khơng” thành
“có”. Mặt khác cái khơng có ở đây là cụ thể xác thực, có thể nhìn, đếm, liệt kê
(khơng kính, khơng đèn, khơng mui) cịn cái có là vơ cùng vơ tận. Có thiên
nhiên, đất trời, có bạn bè, gia đình, có miền nam phía trước, có Tổ Quốc,... Tất

cả cái có ấy nảy sinh từ “ một trái tim” yêu nước gan góc, kiên cường, “ một
trái tim” vì miền Nam ruột thịt, say mê lí tưởng, ngữ điệu câu thơ thật nhẹ
nhàng song khả năng khắc họa hình tượng nhân vật lại thật sâu sắc. Hình ảnh
thơ hồn chỉnh vẻ đẹp của người chiến sĩ laí xe biểu thị chi lý tưởng, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng của cả một thời đại. Cũng qua hình ảnh trái tim, phải
chăng nhà thơ cịn muốn khẳng định: Chúng ta thắng giặc khơng chỉ bằng vũ
khí, cơng cụ mà bằng trái tim yêu nước...”
Để bình sâu vấn đề, người giáo viên cần hướng dẫn học sinh chọn hình
ảnh để bình. Khơng phải bình tất cả các chi tiết hay hình ảnh, từ ngữ trong bài
thơ mà phải chọ những hình ảnh tiêu biểu, những từ ngữ.. có giá trị và biểu đạt
được nội dung ý thơ.
VÝ dô: Trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” từ “hát” được lặp lại ở
các khổ thơ. Vậy sự lặp lại có ý nghĩa gì? Giáo viên hướng dẫn học sinh bình từ
“ hát” trong bài thơ.
Bài thơ lặp lại 4 lần chữ "hát" thực chất là một bài ca sảng khoái, một tráng
khúc về lao động và về thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Bài hát căng buồm đưa
đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực
nhọc thành niềm vui, niềm lạc quan yêu đời. Khúc ca ấy vừa hào hứng, vừa
phơi phới và khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hồn của
thiên nhiên vũ trụ”
Để bình sâu vấn đề thì khi bình, giáo viên có thể viện dẫn ý kiến, hay lời
bình của các nhà phê bình về văn bản đang học. Cũng có khi là khi bình có thể
so sánh đối chiếu giữa tác giả này với tác giả khác…
VÝ dơ: Trong bài thơ “ Đồn thuyền đánh cá” có nhiều từ ngữ, hình
ảnh để bình như “câu hát căng buồm”,“mắt cá huy hoàng”, “ Câu hát”, “ mặt
trời”,...song không thể không so sánh, đối chiếu khi bình. Cũng viết về người
dân đánh cá, song với Tế Hanh trong bài “ Quê hương” chỉ dừng lại ở tình u
q hương, con người làng chài q mình. Cịn ở trong bài thơ này, Huy Cận
bộc lộ tình yêu tha thiết, cảm phục, trân trọng những con người lao động mới
vùng biển Quảng Ninh mà ơng có dịp đi tới thăm. Phải chăng đó là chiều sâu, là

ý nghĩa thời đại mà nhà thơ đã thể hiệ trong ngòi bút của mình. Q hương thân
thuộc khơng đơn thần là nơi chôn rau cắt rốn mà là tất cả mọi miền quê của tổ
quốc thân yêu.
Điều nói trên học sinh khơng dễ gì trả lời đúng hết được bởi với trình độ
học sinh THCS các em chưa có khả năng để có những lời bình sâu sắc, chủ yếu
các em mới chỉ dừng lại ở Đọc, cảm thụ và diễn đạt suy nghĩ của mình song
giáo viên cần gợi mở hoặc bổ sung ý kiến của các em để các em làm quen với
kỹ năng bình theo cách đối chiếu.
16


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

3.6. Biện pháp 6: Bồi dưỡng năng lực tự nhận thức, ứng dụng của học
sinh ( Năng lực tự liên hệ vào thực tế đời sống)
Cái đích của văn chương là cuộc đời và con người. Dạy một tác phẩm văn
thơ cái đích cuối cùng là phải tạo được bước chuyển trong học sinh. Giá trị tư
tưởng của văn bản thơ chính là khơi gợi được sự đồng cảm, hành động của
người đọc. Cái quý nhất, cái cần nhất là để mỗi người tự biết mình, tự soi mình,
tự nâng mình lên cao hơn. Dạy một tác phẩm thơ mà chưa đi sâu vào thế giới
nội tâm của học sinh thì tác phẩm chẳng có tác dụng gì đáng kể. Chẳng hạn như
từ những cảm xúc trước bài thơ " Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải học sinh
phải biết biến cảm xúc đó bằng suy nghĩ đúng đắn, bằng hành động và mơ ước,
hồi bão cho riêng mình.
Cịn năng lực ứng dụng là năng lực vận dụng những tri thức vào việc giải
quyết các bài tập và tình huống thực tế . Học một bài thơ không chỉ biết một mà
phải biết thêm một chuỗi các tác phẩm cùng loại thể chủ đề. Công việc dạy một
tác phẩm cho học sinh chỉ được khép kín, hồn thành trong khâu ứng dụng kiến
thức vào hoạt động văn hố cơng dân. Như vậy, năng lực vận dụng vào thực tế
đã tạo điều kiện để phát triển năng lực toàn diện cho học sinh. Chẳng hạn như

học sinh biết vận dụng cách miêu tả trong tác phẩm thơ , cách sử dụng ngôn từ
vào trong viết tập làm văn . Ngoài ra phát triển năng lực cịn phải phù hợp với
trình độ học sinh, tâm lí lứa tuổi bởi vì sự phát triển có định hướng là nhằm phát
triển nhân cách chung cho học sinh. Từ trong thực tế tác phẩm thơ, học sinh tự
kích thích nhu cầu cảm xúc từ đó biến thành quá trình giáo dục tự phát triển
dưới sự hướng dẫn của thầy, cũng có thể học sinh tiếp tục khai thác những yếu
tố nghệ thuật, phát hiện thêm những nét nghĩa mới cịn tiềm ẩn trong tác phẩm.
VÝ dơ: Khi dạy bài “ Mùa xuân nho nhỏ” tôi đặc biệt lưu ý cách
dùng đại từ “ tôi” và “ta” của tác giả. Với bài thơ này nhà thơ đã chuyển đổi từ
đại từ “tôi” sang đại từ “ta”. Dùng đại từ “tôi” khi tác giả thể hiện cảm xúc
của chính tác giả về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước. Còn khi tác giả
dùng đại từ “ta” là dùng chung cho tất cả mọi người. Điều đó có nghĩa “ ta” là
cái chung , là những người không có tên cụ thể ( chị lao cơng – “Tiếng chổi
tre”, là anh thanh niên- “Lặng lẽ Sa Pa”,...) là mọi người và học sinh cần hiểu
rằng có cả bản thân mình. Từ đó, các em tự phát biểu những suy nghĩ của cá
nhân trước sự nghiệp của đất nước ở ngưỡng cửa thế kỷ XXI. Học sinh sẽ phải
suy nghĩ mình đã làm gì và sẽ làm gì để cống hiến cho quê hương, đất nước? Dĩ
nhiên , sẽ có những ý nghĩ chưa hay, chưa đúng , giáo viên có thể nhấn mạnh
sâu hơn, chi tiết hơn nhưng cũng cần tránh hiện tượng khiên cưỡng mang tính
giáo huấn cho học sinh.
Tóm lại: Tinh thần chung của việc dạy thơ Việt Nam sau cách mạng
tháng Tám để phát triển năng lực cảm thụ cho học sinh khối 9 là bám sát những
yêu cầu trong SGK, SGV, tài liệu tham khảo chương trình để xác định dung
lượng kiến thức cần truyền thụ sau đó xác định phương pháp dạy phù hợp đối
tượng.
17


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9


Đối tượng học sinh lớp 9 về đặc điểm tâm lý đã gần với học sinh PTTH. Vì
vậy, việc khai thác sâu hơn những hình tượng thơ theo tơi là rất cần thiết để sau
khi học xong những tác phẩm thơ này học sinh sẽ có một cái nhìn khái qt hơn
hoặc tự mình có thể khám phá ra những tầng ý nghĩa mới được bộc lộ qua cảm
xúc của nhà thơ.
Phần văn học Việt Nam sau cách mạng tháng 8 – 1945 ở chương trình Văn
lớp 9 có 11 bài thơ được phân phối dạy trong 1 tiết hoặc 2 tiết và hướng dẫn đọc
thêm. Trong q trình phân tích mỗi bài thơ để phát triển năng lực đọc, cảm thụ
và viết văn cho học sinh khối 9 đều phải sử dụng một cách có hiệu quả những
hoạt động như: đọc, phân tích, bình, vận dụng. Điều quan trọng là giáo viên tổ
chức hướng dẫn sao cho linh hoạt và có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các hoạt
động, tránh trường hợp chỉ sử dụng duy nhất một loại hoạt động nào đó.
Mặt khác để phát triển các năng lực cho học sinh người giáo viên không thể
tách dời từng bước thành những khâu riêng lẻ mà đó phải là sự kết hợp chặt
chẽ ở từng tiết học, bài học và xuất phát từ mục tiêu cần đạt của từng bài. Do
đó, trong đề tài này tơi khơng tách dời các biện pháp để phát triển các năng lực
cho học sinh trong quá trình đọc- hiểu các văn bản thơ hiện đại Việt Nam lớp 9
thành từng khâu một mà tơi sẽ lồng ghép các biện pháp đó trong từng bài dạy
các tác phẩm trữ tình hiện đại Việt Nam.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
* Đối với hoạt động giáo dục:
Với những phương pháp đã nêu ở trên tôi đã áp dụng vào giảng dạy trong
nhiều năm và kết quả qua các tiết học cũng như qua các bài kiểm tra về thơ hiện
đại Việt Nam, tôi đã nhận thấy đã có nhiều kết quả đáng mừng ở học sinh lớp 9:
- Khả năng đọc và đọc sáng tạo của học sinh đã có chất lượng hơn, đúng yêu
cầu hơn.
- Học sinh say mê hơn trong các tiết học Ngữ văn nhất là các tiết học phần thơ
trữ tình hiện đại Việt Nam: Học sinh chú ý và ln cố gắng tìm tịi, phát hiện,
suy nghĩ để xây dựng bài hơn.
- Các em cũng đã có nhiều cố gắng trong việc bình văn, tuy cịn nhiều lỗi như

diễn đạt còn vụng, hiểu ý nhưng dùng từ chưa hay...Nhưng đây cũng là kết quả
đáng mừng trong việc giúp học sinh cảm thụ văn bản thơ trữ tình hiện đại Việt
Nam.
- Việc sử dụng ngôn ngữ diễn đạt trong các bài văn cũng đã có nhiều tiến bộ
hơn, các bài văn đã mang đậm dấu ấn văn chương hơn.
* Kết quả cụ thể của tiết kiểm tra thơ hiện đại Việt Nam- tiết 129- Lớp 9 năm
học 2014- 2015 và thu c nhng kt qu nh sau:
Năm học
2014-

Lớp / sĩ số

Điểm

Điểm

Điểm

9B / 33

Khá- giỏi
16 em

Trung bình
16 em

Yếu- Kém
1 em
18



Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

2015
* Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Thông qua các tiết dạy thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 ở các năm tơi đã có
thêm những kinh nghiệm trong việc dạy các tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam lớp
9, lơi cuốn các em cùng tham gia tìm hiểu và cảm thụ tác phẩm một cách hăng
hái, nhiệt tình. Các tiết dạy phần thơ hiện đại Việt Nam ở lớp 9 khơng cịn nhàm
chán nữa. Kết quả qua các bài kiểm tra cũng như kết quả thi vào 10 PTTH môn
Ngữ văn hằng năm ngày càng nâng cao đã khẳng định tính hiệu quả của những
kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng khi dạy phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9.
* Bài học kinh nghiệm:
Qua thực tế giảng dạy tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Giờ dạy phải vận dụng được những đặc trưng thơ trữ tình hiện đại và đặc
điểm thơ trữ tình giai đoạn sau 1945.
- Để có ấn tượng về nhà thơ từ đó tạo được những ấn tượng sâu hơn, sự
hiểu biết sâu hơn về nhà thơ cần cho học sinh làm quen với cách khai thác bài
thơ trên cơ sở đặc trưng bút pháp , phong cách tác giả.
- Để phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh cần cho các em cách thức tự
mình khám phá, tìm hiểu , cảm thụ về vẻ đẹp của ngôn ngữ sáng tạo trong thơ.
- Lưu ý cách đặt câu hỏi đàm thoại sao cho cảm xúc của bài thơ được liền
mạch, khơng rời rạc.
- Mỗi bài nên có những câu hỏi tình huống kích thích hứng thú khám phá
của học sinh.

III. PHẦN KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Qua thực tế giảng dạy phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 tôi nhận thấy: Việc
giảng thơ để học sinh hiểu được nghệ thuật và nội dung của tác phẩm đã khó mà

giảng thơ trữ tình để phát triển năng lực đọc- hiểu cho học sinh thì càng khó hơn
Đi tìm một phương pháp giảng đúng, giảng tốt, giảng hay thơ trữ tình Việt Nam
từ sau cách mạng tháng Tám để tạo ra những con người năng động sáng tạo, có
tâm hồn trong sáng, biết u thương, biết hịa đồng …là một yêu cầu cần thiết.
Bản thân tôi thiết nghĩ, xác định được tầm quan trọng của đổi mới phương pháp
dạy học lấy học sinh làm trung tâm đồng thời thấy rõ được vị trí và hiểu rõ
những tác phẩm thơ Việt Nam sau cách mạng tháng Tám được chọn dạy trong
chương trình Văn ở THCS nói chung và ở lớp 9 nói riêng sẽ là cơ sở cho giáo
viên giảng tốt, giảng hay; giáo viên phải xác định rõ vai trị của cấp học, đối
tượng học sinh mà có phương pháp dạy phù hợp đồng thời học sinh phải có tâm
thế, hứng thú say mê khi tìm hiểu những tác phẩm văn học này.
Như vậy đề tài “ Bồi dưỡng năng lực đoc- hiểu cho học sinh qua dạy- học
phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9” tôi đã giải quyết được hai vấn đề chính: Tìm
hiểu phương hướng để bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu các văn bản thơ trữ tình
Việt Nam hiện đại lớp 9 cho học sinh và việc vận dụng vào giảng dạy trong nhà
19


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

trường THCS . Các em học sinh say mê hơn trong các tiết học Ngữ văn nhất là
các tiết học phần thơ trữ tình hiện đại Việt Nam; chú ý và ln cố gắng tìm tịi,
phát hiện, suy nghĩ để xây dựng bài hơn.
Tất cả những nghiên cứu và kinh nghiệm trên chỉ là bước đầu xong nó có ý
nghĩa to lớn đối với tơi. Chắc chắn những gì tơi trình bày ở đây cịn khó tránh
khỏi những thiếu sót rất mong nhận được sự góp ý tận tình của Hội đồng khoa
học và các đồng chí, đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
2. Kiến nghị:
* Đối với ngành giáo dục:
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi xin đề xuất với các đồng chí lãnh đạo

ngành giáo dục một số vấn đề như sau:
- Bổ sung thêm tài liệu tham khảo và tranh minh họa cho một số tiết dạy để
giờ học thêm sinh động.
- Các cấp chỉ đạo chuyên môn tổ chức bồi dưỡng thêm cho giáo viên THCS
một số vấn đề chuyên môn về thơ.
+ Đặc trưng thơ trữ tình
+ Thi pháp thơ hiện đại Việt Nam cách mạng tháng Tám
+ Phương pháp thẩm bình thơ và giảng dạy thơ
+ Phong cách bút pháp của các tác giả trong chương trình văn THCS.
+Tạo điều kiện thuận lợi về hệ thống điện để giúp giáo viên thực hành băng
đĩa trong giảng dạy.
* Đối với giáo viên:
Cần phải đổi mới phương pháp dạy học để phát huy những tài năng sẵn có
cịn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh qua các tiết dạy phần thơ hiện đại Việt
Nam, giúp các em hoàn thiện nhân cách, phát huy vốn tri thức của nhân loại làm
giàu cho quê hương đất nước.
Cần tham khảo tài liệu, tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên đề về dạy học
phần thơ Việt Nam hiện đại, nghiên cứu bài dạy, hiểu sâu bài dạy, cần cảm nhận
các văn bản thơ bằng cả tâm hồn mình để giúp học sinh cảm nhận được cái hay,
cái đẹp của các văn bản thơ và từ đó các em hứng thú, say mê hơn với môn học.
Cuèi cùng tôi xin chân thành cám ơn BGH nhà trờng, Tổ
Xà hội trng THCS XH đà tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành sáng
kiến kinh nghiệm này.
XC NHN
CA TH TRNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, Ngày 1 tháng 4 năm 2016
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung

của người khác
TÁC GIẢ

20


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

PHẦN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO- PHỤ LỤC

1. “ Phương pháp dạy học văn bậc THCS”
Phan Trọng luận- Vũ Nho - Nguyễn Thúy Hồng – Nguyễn Thị Ngọc.
2. “Một số ván đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS – Mơn Ngữ
văn”– Bộ GD & ĐT - Nhóm tác giả: Vũ Nho – Nguyễn Trọng Hoàn – Nguyễn
Thúy Hồng – Nguyễn Thị Ngọc - Đỗ Việt Hùng.
3. “Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn – Bộ GD &
ĐT” – Tác giả: Nguyễn Hải Châu – Nguyễn Trọng Hoàn – Vũ Nho.
4. “Từ điển Tiếng Việt”: Đỗ Hữu Châu – Hoàng Hữu Bội.
5. “Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh lớp 9”- Nguyễn Trọng HoànNXB Đại học quốc gia TP hồ Chí Minh
6. SGK Ngữ văn 9 , tập 1,2.
7. SGK Ngữ văn 6,7, tập 1,2.
8. SGV Ngữ văn 6,7,9, tập 1,2.
9. “Tuyển tập thơ Tố Hữu”.

21


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

22



Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

23


Bồi dưỡng năng lực đọc- hiểu cho học sinh qua dạy- học phần thơ hiện đại Việt Nam lớp 9

24



×