Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Một số biện pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng tài nguyên đất đai trên địa bàn thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.46 KB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Sau thành công của Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đất nước ta bắt đầu
bước vào công cuộc đổi mới về kinh tế, xã hội. Cùng với các tỉnh thành trong cả
nước, thành phố Hải Phòng hăng say thi đua sản xuất, phấn đấu để thực hiện chủ
trương, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và đã đạt được sự tăng trưởng, phát
triển đáng kể về kinh tế, xã hội; hàng năm mức tăng trưởng của thành phố là khá
cao so với các tỉnh thành và so với tăng trưởng kinh tế chung của cả nước. Năm
2015, năm chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ XV, tăng trưởng kinh tế của thành phố đạt mức hai con số
10,17%. Cơ cấu ngành kinh tế có xu hướng dịch chuyển dần sang các khối ngành
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Ngành công nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn
thách thức nhưng vẫn tiếp tục đứng vững với vai trò lực lượng chủ công trong nền
kinh tế thành phố. Khá nhiều dự án đầu tư với quy mô lớn đã và đang được triển
khai thực hiện làm thay đổi tích cực diện mạo đô thị thành phố.
Những kết quả đạt được và sự chuyển mình của thành phố đã có sự đóng
góp không nhỏ của nguồn lực khai thác từ đất đai. Để nguồn lực này không ngừng
phát huy hiệu quả, thành phố Hải Phòng đã chú ý tăng cường công tác quản lý đất
đai, thực hiện việc phân chia cho các cấp, các ngành và từng bước phát huy tác
dụng, khẳng định được tính tự lập và làm chủ của địa phương, cụ thể là:
Thành phố đã tập trung cao, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuẩn bị,
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Công tác triển khai các quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất cũng được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định và dần đi vào nề
nếp.
Từ khi thực hiện Luật Đất đai năm 1993, sau đó là Luật Đất đai năm 2003
và Luật Đất đai năm 2013 đến nay việc cho thuê đất và giao đất nông nghiệp cho
cá nhân và hộ gia đình khai thác, sử dụng đã cơ bản hoàn thành. Kết quả này có ý
nghĩa to lớn trong việc ổn định sản xuất nông nghiệp, làm cho người nông dân yên
1



tâm gắn bó với ruộng đồng, hăng say sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội và cải
thiện đời sống chung của người dân thành phố.
Thành phố đã có những thành công trong công tác GPMB, thu hồi đất. Việc
đo vẽ kiểm kê, tính toán hỗ trợ, bồi thường vật trên đất, và tái định cư phục vụ các
dự án đầu tư phát triển kinh tế có thu hồi đất luôn được bảo đảm tiến độ, đáp ứng
tốt cho từng giai đoạn triển khai của dự án.
Tuy nhiên, tình hình công tác sử dụng và quản lý đất đai hiện nay của thành
phố còn tồn tại một số khiếm khuyết, chưa hoàn thiện như:
Việc giao đất, cho thuê đất ở các địa phương còn nhiều yếu kém và không
phù hợp với quy định của luật Đất đai qua các thời kỳ, đặc biệt là trong việc giao
đât cho người dân làm nhà ở. Trên một số địa bàn cũng còn nhiều công trình, dự án
có sử dụng đất đai làm mặt bằng nhưng lại cố ý sử dụng đất không đúng với các
nội dung ghi trong hồ sơ đất đai, lấn chiếm thêm diện tích, làm sai lệch vị trí sử
dụng , sai mục đích sử dụng, để đất trống không đầu tư sử dụng, cố tình chây ỳ
không nộp hoặc nộp chậm tiền đất.
Một số quận, huyện thiếu tinh thần chủ động trong việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của quận, huyện mình. Việc triển khai lập quy hoạch sử dụng
đất cấp quận, huyện còn không bảo đảm tiến độ, vượt quá thời gian theo quy định
do phải bổ sung, điều chỉnh nhiều lần kéo theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm
cũng thường ban hành chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
của thành phố.
Quản lý thị trường bất động sản trong đó có thị trường đất đai thời gian vừa
qua còn tồn tại nhiều yếu kém, đôi lúc còn bị buông lỏng, để hoạt động tự phát dẫn
đến thị trường bị thao túng trong tay một số ít kẻ đầu cơ, gây ra hiện tượng bong
bóng bất động sản, đẩy giá cả đất đai lên cao hơn rất nhiều so với giá trị thực. Còn
chưa đạt hiệu quả trong quản lý tài chính về đất đai, không khai thác được các tiềm
năng thực tế về đất đai của thành phố.

2



Những hành vi sai phạm trong QL và SDĐ còn khá phổ biến như việc lạm
quyền, sử dụng quyền không phải của mình trong việc giao, cho thuê đất và cho
phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất; xâm lấn đất tôn giáo như đất đền, chùa,
miếu, nhà thờ và đất công ích do xã, phường quản lý; xâm phạm hành lang bảo vệ
của các công trình giao thông, thủy lợi, đê điều, thông tin liên lạc, các khu di tích
lịch sử, văn hóa; chuyển nhượng quyền sử dụng đất không đúng luật định,…
Các nội dung khiếu tố, tranh giành quyền lợi về đất đai hoặc có liên quan
đến vấn đề đất đai còn diễn ra khá nhiều với tính chất phức tạp gia tăng, thời gian
vụ việc kéo dài, gây tác động không nhỏ đến hình ảnh và tình hình chung của
thành phố.
Việc QL và SDĐ còn khá nhiều yếu kém, bất cập như trên là do:
Luật pháp về đất đai ở nước ta nhiều lần được thay đổi, điều chỉnh, bổ sung
cho phù hợp với tình hình thực tế phát triển của đất nước.
Luật pháp về đất đai (Luật Đất đai năm 2003) có nhiều mâu thuẫn và chồng
chéo với các pháp luật khác có liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp,
Luật Kinh doanh bất động sản,…
Bên cạnh đó, còn tồn tại không ít các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất
đai mang tính hình thức, nặng về thủ tục nhưng lại chồng chéo, mất thời gian và
thiếu tính minh bạch và tính giải trình. Hiệu quả xử lý các thủ tục thuê đất, giao đât
cho một số dự án có sử dụng đất không cao, với thời gian kéo dài làm mất cơ hội
của các nhà đầu tư, giảm sức cạnh tranh, thu hút dự án đầu tư của thành phố đối
với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Trình độ quản lý về đất đai của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức ở
cả ba cấp thành phố, quận huyện, xã phường còn có những hạn chế và chưa thể
đảm đương được tính chất, mức độ công việc đặt ra. Hệ thống công chức làm
nhiệm vụ quản lý đất đai ở xã, phường, thị trấn tuy đã được tham gia học tập, bồi
dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ nhưng còn chưa bài bản; điều kiện làm
việc khó khăn, khi thực thi nhiệm vụ lại thiếu phương tiện làm việc, bên cạnh đó
3



ngoài công việc địa chính lại phải kiêm nhiệm nhiều việc khác như công tác ứng
phó với biến đổi khí hậu, xây dựng, môi trường,…
Từ tóm lược những tồn tại hạn chế đã nêu ở trên đòi hỏi phải có những biện
pháp hữu hiệu để khắc phục, xử lý và tăng cường hơn nữa trong công tác quản lý,
sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố, đó chính là sự cấp thiết để tác giả lựa chọn
Đề tài: “Một số biện pháp tăng cƣờng công tác quản lý và sử dụng tài nguyên
đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng” làm nội dung nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở dữ liệu về tình hình quản lý nhà nước và thực trạng sử
dụng tài nguyên đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2010-2015.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý và sử dụng tài nguyên đất đai của Hải
Phòng trong giai đoạn 2010-2015.
- Đề xuất một số nhóm biện pháp để tăng cường công tác quản lý nhà nước về
đất đai và sử dụng tài nguyên đất đai một cách hợp lý, tiết kiệm, mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề án là công tác quản lý và sử dụng nguồn tài
nguyên đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài là thành phố Hải Phòng; thời gian thực hiện từ năm
2016 đến năm 2020.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài: phương pháp
thống kê thu thập số liệu, phương pháp xử lý, phân tích, tổng hợp số liệu và so
sánh,...
4



5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là cơ sở để ngành quản lý đất đai thành
phố Hải Phòng ứng dụng triển khai thành đề án cụ thể nhằm đánh giá thực trạng,
tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai và nâng cao hiệu quả sử dụng đất
đai trên địa bàn thành phố trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.

5


CHƢƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm về tài nguyên, tài nguyên đất đai, quản lý và sử dụng tài
nguyên đất đai
1.1.1. Tài nguyên
1.1.1.1. Khái niệm
Tài nguyên có thể được hiểu là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử
dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người.
Đối tượng sản xuất của con người là tài nguyên. Theo thời gian lịch sử, xã
hội loài người phát triển lên cao và cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ
thì con người phát hiện ra càng nhiều loại tài nguyên khác nhau. Dẫn đến số lượng
các loại tài nguyên được con người khai thác sẽ ngày một tăng [14].
1.1.1.2. Phân loại
Tài nguyên có rất nhiều dạng loại, người ta có thể phân loại tài nguyên dựa
vào mối quan hệ với con người, dựa vào bản chất tự nhiên hoặc phương thức và
khả năng tái tạo [14].
Dựa vào mối quan hệ với con người, có hai loại tài nguyên là tài nguyên
thiên nhiên và tài nguyên xã hội.
Theo bản chất tự nhiên thì tài nguyên được phân ra thành một số loại như
sau: tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài

nguyên biển, tài nguyên năng lượng, tài nguyên khí hậu cảnh quan, di sản văn hoá
kiến trúc, tri thức khoa học và thông tin [14].
Theo phương thức và khả năng tái tạo tài nguyên được phân thành 2 loại
loại: tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo.
Tài nguyên có khả năng tái tạo như nước ngọt, đất đai, động vật, thực
vật,...là loại tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung liên tục khi được quản lý
6


và khai thác một cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu quản lý và sử dụng không hợp lý,
loại tài nguyên tái tạo cũng có thể bị suy thoái không thể tái tạo được. Chẳng hạn
như tài nguyên nước ngọt có thể bị ô nhiễm hóa chất, bị khan hiếm, cạn kiệt; tài
nguyên đất đai có thể bị nhiễm mặn, xâm nhập mặn ở các vùng ven biển, bị bạc
màu, xói mòn ở các vùng có địa hình dốc cao, đồi núi.
Tài nguyên không tái tạo là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, không thể phục
hồi, sẽ suy thoái, cạn kiệt hoặc biến đổi trong và sau quá trình sử dụng của con
người. Điển hình của loại tài nguyên không tái tạo đó là tài nguyên khoáng sản như
dầu mỏ, kim cương, than đá, quặng sắt, đồng, nhôm, đá vôi,... sẽ bị cạn kiệt theo
thời gian khi bị con người tổ chức khai thác; tài nguyên gen di truyền của một số
loài quý hiếm có thể mất đi cùng với sự tuyệt diệt của chúng.
Ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển đã và đang làm thay đổi giá trị
của nhiều loại tài nguyên. Nhờ sự tiến bộ của khoa học- kỹ thuật, có nhiều loại tài
nguyên cạn kiệt, khan hiếm trước đây đã được thay thế bởi các loại tài nguyên
khác. Một số loại tài nguyên trước đây có giá trị kinh tế cao được khai thác, sử
dụng hạn chế nay trở thành phổ biến được sử dụng rộng rãi do tìm được phương
pháp chế biến nhanh, hiệu quả, với năng suất cao hơn [14].
1.1.1.3. Vai trò của tài nguyên đối với sự phát triển
Tài nguyên nói chung có vị trí và vai trò quan trọng, không thể thiếu trong
sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Có thể thấy rõ vai trò của nó trong sự sinh
tồn và phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia nghèo với nền

kinh tế đang phát triển:
- Đối với những nước nghèo, đang phát triển thì tài nguyên đóng vai trò nền
tảng đảm bảo cho sự sinh tồn. Các quốc gia đang phát triển thường gắn với nền sản
xuất nông nghiệp, người dân có thu nhập thấp và không ổn định, khoa học công
nghệ lạc hậu, yếu kém, nền kinh tế chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng. Hầu hết
các quốc gia này nếu nhiều tài nguyên, khoáng sản thì họ tập trung vào khai thác
tài nguyên với số lượng lớn để đem bán thu ngoại tệ.
7


- Tài nguyên là nguồn lực cho tài chính phát triển. Nguồn tài nguyên thiên
nhiên thương mại có thể là một nguồn lực quan trọng cho lợi nhuận và giao thương
quốc tế. Thuế và các loại phí trong khai thác tài nguyên không phục hồi, tài nguyên
có thể tái tạo và các nguồn tài nguyên có thể khai thác bền vững có thể được dùng
để đầu tư tài chính dưới một hình thức khác của nguồn lực.
Tiết kiệm tài nguyên là vấn đề nòng cốt của sự phát triển. Nếu không tạo ra
khoản dư tiết kiệm để tiếp tục đầu tư, thì các quốc gia không có cách nào thoát
khỏi tình trạng đói nghèo, mức sống với thu nhập thấp. Sự phụ thuộc vào tài
nguyên làm cho việc đo lường các nỗ lực tiết kiệm trở nên phức tạp vì sự suy thoái
của tài nguyên thiên nhiên không phải là tài sản hữu hình trong tài khoản ngân
sách tiêu chuẩn của quốc gia. Bởi vì, sự tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên phải tính
đến sự khấu hao vốn sản xuất, các khoản đầu tư vào nguồn lực con người (như chi
phí cho giáo dục, đào tạo, dạy nghề,...), sự cạn kiệt, suy thoái của khoáng sản, năng
lượng, rừng; các thiệt hại từ ô nhiễm không khí [14].
1.1.1.4. Quản lý tài nguyên
Quản lý tài nguyên trong đó có tài nguyên thiên nhiên có thể hiểu là việc
quản lý các nguồn lực tự nhiên như đất, nước, thực vật, động vật,... trong đó tập
trung chủ yếu về các tác động đến chất lượng cuộc sống cho cả thế hệ hiện tại và
tương lai.
Trong công tác quản lý tài nguyên cần phải đưa ra các phương hướng chiến

lược cụ thể, các quy hoạch, kế hoạch và cùng với đó là những chế tài phù hợp, tuân
thủ pháp luật nhằm giúp cho công việc quản lý, khai thác, sử dụng và tái tạo một
cách hợp lý, đúng đắn để mang lại lợi ích tối ưu cho quốc gia, dân tộc. Khi khai
thác và sử dụng tài nguyên cần phải có biện pháp kiểm soát và hạn chế tối đa mức
độ ô nhiễm môi trường [14].
1.1.2. Tài nguyên đất đai
1.1.2.1. Khái niệm

8


Đất đai có thể được hiểu là một phạm vi không gian, như một vật mang
những giá trị theo ý tưởng và quan niệm của con người. Theo cách định nghĩa này,
đất đai thường gắn với một giá trị kinh tế nhất định và được thể hiện bằng số lượng
tiền (giá cả) trên một đơn vị diện tích đất đai khi có sự chuyển nhượng quyền sở
hữu giữa các chủ thể sở hữu.
Cũng có những quan điểm khác, tổng hợp hơn cho rằng đất đai là những tài
nguyên sinh thái và tài nguyên kinh tế, xã hội của của một tổng thể vật chất [14].
1.1.2.2. Các chức năng cơ bản của đất đai
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển nhận thức về thế giới tự
nhiên con người đã thừa nhận đất đai có những chức năng chủ yếu sau:
- Chức năng là môi trường sống;
- Chức năng sản xuất;
- Chức năng lưu trữ;
- Chức năng không gian sự sống;
- Chức năng bảo tồn, bảo tàng lịch sử;
- Chức năng tàng trữ và cung cấp nguồn nước;
- Chức năng cân bằng sinh thái;
- Chức năng vật mang sự sống [14].
1.1.3. Quản lý và sử dụng tài nguyên đất đai

1.1.3.1. Quản lý nhà nước về đất đai
a. Khái niệm về QLNN và QLNN về đất đai ở nước ta:
Để tìm hiểu về QLNN, trước tiên cần trao đổi về công tác quản lý nói chung.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về công tác quản lý. Nhiều người cho rằng quản lý
là việc điều khiển, điều hành, chỉ huy; có người lại đánh đồng, coi quản lý chính là
sự cai trị. Tuy nhiên một cách chung nhất có thể hiểu quản lý là sự tác động định

9


hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa và hướng nó phát triển phù
hợp với những quy luật nhất định [14].
Theo nghĩa hẹp nếu hiểu quản lý tức là quản lý xã hội thì quản lý chính là sự
tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người để chúng diễn biến, phát triển phù hợp với các quy luật, đạt được mục tiêu
đề ra và đúng theo ý chí của người quản lý.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quản lý, trong đó có một số yếu tố cơ bản đó
là yếu tố con người, quyền uy, thông tin, tổ chức và chính trị. Trong các yếu tố ảnh
hưởng đến công tác quản lý nêu trên thì yếu tố con người và yếu tố chính trị là mục
đích chính trị của công tác quản lý; 3 yếu tố còn lại chính là nghệ thuật và biện
pháp quản lý.
Một xã hội nhất định có thể có nhiều chủ thể quản lý. Trong hệ thống rất
nhiều các cơ quan, tổ chức quản lý xã hội thì nhà nước thực hiện công tác quản lý
xã hội bằng luật pháp, thông qua bộ máy của mình và trên cơ sở thực hiện uy
quyền của nhà nước.
Có thể nói QLNN là dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà
nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành
vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự
pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Trong thực tế đời sống xã hội, các quan hệ đất đai là các quan hệ xã hội

trong lĩnh vực kinh tế, nó bao gồm quan hệ về sở hữu đất đai, quan hệ về sử dụng
đất đai, quan hệ về mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai, phân phối các
sản phẩm do sử dụng đất đai mà có,...
QLNN về đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai; đó
là các hoạt động điều tra, khảo sát, thống kê, kiểm kê, nắm tình hình sử dụng đất;
phân phối và phân phối lại quỹ đất đai theo quy hoạch, kế hoạch; kiểm tra giám sát
quá trình QL và SDĐ; điều tiết các nguồn lợi thu được từ đất đai [14].
10


b. Mục đích QLNN về đất đai:
Nhà nước Việt Nam tiến hành công tác QLNN về đất đai nhằm một số mục
đích như sau [21]:
- Bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với tài nguyên đất theo quy định của
pháp luật; bảo đảm người sử dụng đất có đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp
theo quy định;
- Bảo đảm sử dụng nguồn đất đai của đất nước một cách hợp lý;
- Nân cao hiệu quả khai thác sử dụng đất;
- Thực hiện các biện pháp giữ gìn bảo vệ đất; cải tạo môi trường đất đai và
bảo vệ môi trường chung.
c. Một số nguyên tắc trong QLNN về đất đai ở nước ta hiện nay:
- Đảm bảo Nhà nước quản lý tập trung và thống nhất tài nguyên đất đai: Vấn
đề này được quy định tại Điều 18, Hiến pháp 1992 "Nhà nước thống nhất quản lý
toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có
hiệu quả"[8] và được cụ thể hơn tại Điều 4, Luật Đất đai 2013 "Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước
trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này"[10].
- Bảo đảm sự hài hoà giữa quyền lợi và lợi ích của các bên sử dụng đất đai
và sở hữu đất đai: Để sử dụng đất đai có hiệu quả Nhà nước không trực tiếp sử

dụng toàn bộ đất đai mà giao đất cho các chủ thể khác nhau khai thác sử dụng. Nhà
nước ban hành một môi trường luật pháp phù hợp để cân bằng lợi ích giữa người
sử dụng đất và lợi ích của Nhà nước. Vấn đề này được thể hiện tại Điều 17, Luật
Đất đai 2013: "Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua
các hình thức sau đây: quyết định giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có
thu tiền sử dụng đất; quyết định cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, cho thuê
đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; công nhận quyền sử dụng
đất"[10] và Điều 20: “Nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
11


phù hợp với hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nguồn
gốc sử dụng đất và nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất”[10].
- Tiết kiệm và hiệu quả: Về bản chất vấn đề quản lý đất đai cũng là một bộ
phận của quản lý kinh tế nên nó phải tuân thủ nguyên tắc đạt hiệu quả kinh tế cao
và tiết kiệm chi phí.
d. Các đối tượng của QLNN về đất đai:
Đối tượng của QLNN về đất đai gồm hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các chủ
thể quản lý đất đai và người sử dụng đất đai; nhóm thứ hai là đối tượng đất đai.
Nhóm 1: Các chủ thể quản lý đất đai và người sử dụng đất đai
Các chủ thể quản lý đất đai có thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
tổ chức. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay mặt Nhà nước thực hiện quyền
QLNN về đất đai ở địa phương theo cấp hành chính, đó là UBND các cấp và cơ
quan chuyên môn ngành quản lý đất đai ở các cấp. Các chủ thể quản lý đất đai là
các tổ chức như các Ban quản lý khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu
kinh tế,... Những chủ thể này không trực tiếp sử dụng đất mà được Nhà nước cho
phép thay mặt Nhà nước thực hiện quyền quản lý đất đai. Các tổ chức này được
Nhà nước giao quyền cho thuê đất gắn liền với cơ sở hạ tầng trong khu công
nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế mà các tổ chức này quản lý. Tuy nhiên các
tổ chức này cũng là đối tượng quản lý của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực đất

đai.
Người sử dụng đất đai là đối tượng của các cơ quan QLNN trong lĩnh vực
đất đai. Theo Điều 5, Luật Đất đai 2013, “người sử dụng đất là đối tượng được nhà
nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật”[10], bao gồm các đối tượng sau: các tổ chức
trong nước; hộ gia đình, cá nhân trong nước; cộng đồng dân cư; cơ sở tôn giáo; tổ
chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; người Việt Nam định cư ở nước ngoài
theo quy định của pháp luật về quốc tịch; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
[10].
12


Nhóm 2: Đất đai
Theo nội dung quy định tại Điều 10, Luật Đất đai năm 2013, nếu căn cứ vào
mục đích sử dụng thì đất đai được chia thành 3 nhóm: “Nhóm đất nông nghiệp;
nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng”[10].
Nhóm đất nông nghiệp bao gồm đất trồng cây hàng năm; đất trồng cây lâu
năm; đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy sản; đất
làm muối và đất nông nghiệp khác như đất để xây dựng nhà kính, các loại nhà khác
phục vụ mục đích trồng trọt, đất chuồng trại chăn nuôi, ươm tạo cây, trồng hoa,
cây cảnh,...
Nhóm đất phi nông nghiệp gồm đất ở; đất xây dựng trụ sở cơ quan; đất sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất xây dựng công trình sự nghiệp; sản
xuất, kinh doanh phi nông nghiệp như đất khu cụm công nghiệp, khu chế xuất,
thương mại, dịch vụ,...; đất sử dụng vào mục đích công cộng như đất giao thông,,
thủy lợi, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, khu vui chơi, sinh hoạt cộng đồng,
chợ, bãi thải, xử lý chất thải,...; đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng; đất làm nghĩa trang,
nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng; đất sông, ngòi, kênh, rạch,...; đất phi nông
nghiệp khác.
Nhóm đất chưa sử dụng gồm các loại đất chưa xác định rõ ràng mục đích sử

dụng [10].
e. Các công cụ QLNN về đất đai:
Nhà nước có khá nhiều công cụ để quản lý đất đai, tuy nhiên trong đó có thể
kể đến 3 công cụ cơ bản, đó là: công cụ pháp luật; công cụ quy hoạch và kế hoạch
sử dụng đất; công cụ tài chính.
* Công cụ pháp luật:
Pháp luật là công cụ để duy trì trật tự an toàn xã hội trong lĩnh vực đất đai,
bắt buộc các đơn vị, tổ chức, cá nhân đi đôi với quyền được sử dụng đất phải thực
hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác. Cũng thông qua công cụ pháp
13


luật, Nhà nước bảo đảm được mối quan hệ bình đẳng giữa đối tượng quản lý và đối
tượng sử dụng đất; bảo đảm sự công bằng, giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích
giữa những người sử dụng đất trong lĩnh vực đất đai.
* Công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai là một nội dung quan trọng trong việc
QL và SDĐ, nó đảm bảo cho sự lãnh đạo, chỉ đạo một cách thống nhất trong
QLNN về đất đai. Thông qua các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê
duyệt, việc sử dụng các loại đất được bố trí, sắp xếp một cách hợp lý.
Ở nước ta, nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được luật hóa và quy
định rất chi tiết, cụ thể.
Theo Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013 thì “Quy hoạch sử dụng đất là việc
phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng cho các mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi
khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh
vực đối với từng vùng kinh tế-xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời
gian xác định”[10].
“Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời
gian để thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất”[10].

Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai
năm 2013 có năm loại:
- “Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia;
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh;
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện;
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng;
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất an ninh”[10].

14


Kỳ quy hoạch sử dụng đất được quy định trong Luật Đất đai là 10 năm. Kỳ
kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh và đất quốc phòng, an ninh là 5 năm;
cấp huyện được lập hàng năm.
* Công cụ tài chính:
Nhà nước thông qua công cụ tài chính để quản lý, gây ảnh hưởng đến các tổ
chức, cá nhân và hộ gia đình sử dụng đất. Công cụ tài chính chính là công cụ chủ
đạo để nhà nước tăng thu cho ngân sách và bảo đảm cho mọi chủ thể sử dụng đất
bình đẳng trước pháp luật về quyền lợi và nghĩa vụ.
Công cụ tài chính trong quản lý đất đai bao gồm các loại thuế và lệ phí; giá
đất; hệ thống ngân hàng (cung cấp vốn cho việc khai hoang, cải tạo đất của Chính
phủ).
1.1.3.2. Sử dụng đất đai
Sử dụng đất đai có thể được hiểu là quá trình con người bằng những hoạt
động có mục đích của mình tác động vào đất đai để nhằm thu lại những lợi ích từ
đất phục vụ cho sự tồn tại và phát triển.
Nguyên tắc sử dụng đất đai là phải theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất và đúng mục đích sử dụng đất đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; trong
quá trình sử dụng đất phải tiết kiệm, hiệu quả và không làm tổn hại hay ảnh hưởng
đến lợi ích của người sử dụng đất xung quanh; người sử dụng đất có trách nhiệm

thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật trong thời gian
mình sử dụng đất đai được giao.
Nhà nước có chính sách khuyến khích người sử dụng đất đai đầu tư sức lực
lao động, vật tư, tiền vốn, áp dụng các tiến bộ công nghệ, thành tựu khoa học kỹ
thuật vào việc bảo vệ, cải tạo làm độ màu mỡ, tăng giá trị sử dụng của đất đai;
khuyến khích người sử dụng đất khai hoang, phục hóa, lấn biển, đưa các diện đất
hoang hóa bãi bồi ven sông, ven biển, đất mặt nước chưa sử dụng vào khai thác sử
dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

15


1.2. Cơ sở pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng tài nguyên đất đai
Một số cơ sở pháp lý liên quan đến công tác quản lý và sử dụng tài nguyên
đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng gồm có:
“Luật Đất đai số 45/2013/QH13”[10];
“Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai”;
“Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về
giá đất”;
“Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về
thu tiền sử dụng đất”;
“Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về
thu tiền thuê đất, thuê mặt nước”;
“Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về
bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất”;
Các thông tư liên bộ và thông tư hướng dẫn thi hành Luật Đất đai của Bộ
Tài nguyên và Môi trường;
“Kết luận số 72-KL/TW ngày 10/10/2013 của bộ Chính trị về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 05/8/2003 của Bộ Chính trị khóa

IX “Về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”[1];
“Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 29/3/2013 của Chính phủ về quy hoạch sử
dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu 2011 - 2015 của
thành phố Hải Phòng”;
“Quyết định số 271/QĐ-TTg ngày 27/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
thành phố Hải Phòng đến năm 2020”;

16


“Quyết định số 1448/QĐ-TTg ngày 16/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến
năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050”[11];
“Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ
đầu 2011 - 2015 của thành phố”;
“Nghị quyết số 37/NQ-HĐND12 ngày 11/7/2002 của Hội đồng nhân dân
thành phố khóa XII về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường công tác QLNN
về đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng”[7];
“Kết luận số 167-TB/TU ngày 29/10/2013 của Ban Thường vụ Thành ủy về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TU (khoá XII) về công tác bảo vệ môi
trường; tăng cường quản lý tài nguyên đến năm 2015 và 2020”[2];
“Chương trình hành động số 36-CTr/TU ngày 18/5/2015 của Ban Thường
vụ Thành ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương (khóa XI) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[4];
“Kết luận số 31-KL/TU ngày 18/5/2015 của Ban Thường vụ Thành ủy về
việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TU ngày 06/1/2009 của Ban Thường

vụ Thành ủy (khoá XIII) về chủ trương, giải pháp tăng cường QLNN, phát triển thị
trường nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, bất động sản thành phố Hải Phòng
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”[3].
1.3. Các tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hƣởng đến quản lý và sử dụng tài
nguyên đất đai
1.3.1. Các tiêu chí đánh giá
1.3.1.1. Quản lý đất đai
Các nội dung để xem xét, đánh giá về công tác quản lý đất đai đó là sự hoàn
chỉnh của hệ thống các văn bản pháp luật ban hành; cơ cấu tổ chức bộ máy quản
17


lý; việc quản lý địa giới, hồ sơ địa chính; thống kê, kiểm kê đất đai; xây dựng và
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quản lý giao đất, cho thuê đất; đăng ký,
cấp quyền sử dụng đất; quản lý tài chính đất đai; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
và giải quyết các tranh chấp khiếu nại, tố cáo; sự quản lý về các dịch vụ công trong
lĩnh vực đất đai.
1.3.1.2. Sử dụng đất đai
Tiêu chí đánh giá vấn đề sử dụng đất đai chính là hiệu quả sử dụng đất. Hiệu
quả sử dụng đất biểu thị mức độ khai thác sử dụng đất đai và thường được đánh giá
thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau [21]:
- Tỷ lệ sử dụng đất đai được xác định bằng phần trăm diện tích đất đai đang
được khai thác, sử dụng trên tổng diện tích đất đai;
- Tỷ lệ sử dụng loại đất được xác định bằng phần trăm giữa diện tích của
loại đất (đất ở, đất nông nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dùng,...) trên tổng diện tích
đất đai;
- Hệ số sử dụng đất đai là tỷ lệ giữa tổng diện tích gieo trồng trong năm với
tổng diện tích đất canh tác (đất trồng cây hàng năm);
- Độ che phủ đất đai (đối với các loại đất nông, lâm nghiệp) được xác định
bằng tỷ lệ giữa tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng và diện tích đất trồng cây lâu

năm với tổng diện tích đất đai. Chỉ tiêu độ che phủ còn là chỉ tiêu đánh giá về hiệu
quả môi trường.
Hiện nay, một số mâu thuẫn đã và đang xuất hiện trong việc khai thác, sử
dụng tài nguyên đất đai. Đó là nhu cầu của con người về đất nông nghiệp, bảo vệ
thiên nhiên, đất rừng, đất phục vụ du lịch và phát triển đô thị ngày càng tăng và lớn
hơn nhiều so với diện tích tài nguyên đất đai hiện có. Ở các nước đang phát triển
trong đó có nước ta hiện nay thì nhu cầu về đất đai càng ngày càng cấp bách hơn
trong mỗi năm. Trong vòng 30 đến 50 năm tới dân số sẽ tăng lên đáng kể kéo theo
đó là vấn đề gia tăng về đât ở, lương thực, việc làm,... trong khi lượng lương thực,
thực phẩm cung cấp lại phụ thuộc vào diện tích đất trồng cây nông nghiệp, đất
18


chăn nuôi đang bị thu hẹp dần. Đó là vấn đề người dân không đạt được mức lợi
nhuận kỳ vọng trong việc sử dụng đất đai mặc dù đã cố gắng đầu tư vào khai thác,
cải tạo đất. Bên cạnh đó, sự suy thoái đất đai ở các khu rừng, khu chăn nuôi, trồng
trọt, canh tác hay nguồn nước ngày càng gia tăng, nhưng mỗi cá nhân của cộng
đồng, mỗi người sử dụng đất không thể có biện pháp giải quyết hữu hiệu để hạn
chế hoặc chấm dứt tình trạng suy thoái này [21].
1.3.2. Các nhân tố ảnh hƣởng
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng đất đai, tuy nhiên
có thể phân chia thành ba nhóm nhân tố ảnh hưởng cơ bản đó là nhân tố điều kiện tự
nhiên, nhân tố kinh tế-xã hội và nhân tố không gian.
- Nhân tố điều kiện tự nhiên bao gồm các điều kiện khí hậu, thủy văn; yếu tố
địa hình; yếu tố thổ nhưỡng. Những yếu tố này có tác động rất lớn công tác quản lý
và hiệu quả sử dụng đất. Đặc biệt thấy rõ đối với đất sản xuất nông nghiệp, nó ảnh
hưởng rõ rệt đến năng suất cây trồng, vật nuôi.
- Nhân tố kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc quản lý,
sử dụng đất đai. Nó là nhân tố quyết định phương hướng sử dụng đất đai. Các yếu tố
cấu thành nhân tố kinh tế - xã hội bao gồm yếu tố chính trị, quản lý (cơ chế, chính

sách), dân số, lao động, ứng dụng khoa học kỹ thuật.
- Nhân tố không gian của đất đai có ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị sử dụng.
Đó là nhân tố quyết định giá trị kinh tế của tài nguyên đất.
1.4. Kinh nghiệm của một số địa phƣơng trong quản lý và sử dụng tài nguyên
đất đai
Các kinh nghiệm khai thác nguồn lực tài chính từ đất của các địa phương có
tốc độ đô thị hoá cao, thị trường bất động sản phát triển như : “Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai”[12] ,... Nguồn thu ngân sách nhà
nước từ đất đai của các địa phương này thực sự trở thành một nguồn lực quan trọng
phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội.

19


Một số kinh nghiệm trong triển khai thực hiện khuyến khích người nông dân
“góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có đất thuộc quy hoạch dự án của các tỉnh
Thanh Hóa, Sơn La” [12].

20


CHƢƠNG II:
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ NGUỒN TÀI NGUYÊN ĐẤT
ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN 2010-2015
2.1. Giới thiệu chung về thành phố Hải Phòng
2.1.1. Giới thiệu chung
Thành phố Hải Phòng được thành lập ngày 19-7-1888, trải qua hơn 120 năm
xây dựng và phát triển, đến nay thành phố là một đô thị loại I, đô thị trung tâm cấp
quốc gia với 7 quận, 8 huyện (trong đó có 2 huyện đảo), nơi sinh sống của 1,837
triệu người dân. Nằm ở trung tâm vùng Duyên hải Bắc bộ, cách thủ đô Hà Nội 102

km về phía Đông; diện tích tự nhiên rộng 1.561,76 km2 (theo số liệu kiểm kê đất
đai mới nhất vào năm 2014), “đường bờ biển dài 125 km, Hải Phòng có vị thế
chiến lược về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh đối với toàn vùng Bắc bộ
cũng như cả nước; là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; là
cửa chính ra biển của các tỉnh Bắc bộ và hai hành lang, một vành đai kinh tế trong
hợp tác Việt Nam - Trung Quốc; là trọng điểm kinh tế biển của cả nước, một pháo
đài bất khả xâm phạm về quốc phòng - an ninh, lá chắn cho thủ đô Hà Nội”[24].
Về điều kiện khí hậu, “thành phố Hải Phòng nằm trong vành đai nhiệt đới
gió mùa Châu Á, sát Biển Đông nên chịu ảnh hưởng của gió mùa lạnh và khô kéo
dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Gió mùa nồm (mùa hè) mát mẻ, nhiều mưa
kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.600- 1.800
mm. Bão thường xảy ra từ tháng 6 đến tháng 9. Nhiệt độ trung bình hàng năm
khoảng 20- 230C, cao nhất có khi tới 400C, thấp nhất ít khi dưới 50C. Độ ẩm trung
bình trong năm 80- 85%, cao nhất 100% vào các tháng 7, 8, 9, thấp nhất là vào
tháng 12 và tháng 1. Trong năm có khoảng 1.692,4 giờ nắng. Lượng bức xạ mặt
đất trung bình 117 Kcal/cm2/năm”1[23].
Đặc điểm khí hậu của Hải Phòng tuy có thuận lợi cho sự phát triển, song
cũng gây không ít khó khăn cho du lịch tắm biển. Mưa lớn gây ra mất cân đối nước
cục bộ, tình trạng úng lụt và hiện tượng sạt lở ở một số đoạn sông, xói lở bờ biển,
1

http//www. haiphong.gov.vn

21


sa bồi luồng bến, xâm mặn ngày càng sâu.
Về địa hình, thổ nhưỡng, sông ngòi: Địa hình Hải Phòng rất đa dạng phản
ánh một quá trình lịch sử địa chất lâu dài và phức tạp. Đồi núi tuy chỉ chiếm 15%
tổng diện tích tự nhiên nhưng phân bố rải ra hơn nửa phần bắc thành phố thành

từng dải liên tục theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, có quá trình phát sinh gắn liền
với hệ núi Quảng Ninh thuộc khu Đông Bắc Bộ về phía Nam.
Mạng lưới sông ngòi dày đặc, mật độ trung bình từ 0,6- 0,8 km/km2 với 5
con sông chính phân chia địa hình thành phố thành những vùng tương đối biệt lập.
Với vị trí chiến lược của mình, đặc biệt là sự hội tụ đủ năm loại giao thông,
Hải Phòng đã trở thành một trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, một đầu
mối giao thông quan trọng trong nước và quốc tế. Trong thời kỳ đổi mới, chủ động
hội nhập quốc tế, vị thế Hải Phòng là cửa chính ra biển của các tỉnh, thành phố
phía Bắc, của hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc và của
hành lang kinh tế Đông - Tây ngày càng được khẳng định.
Do những yếu tố về chính trị, điều kiện lịch sử và đặc thù địa phương nên
các quận, huyện tại Hải Phòng có sự khác biệt khá lớn về quy mô diện tích, dân số
cũng như tính chất và cơ cấu kinh tế. Trong số 8 huyện, Bạch Long Vĩ là đặc biệt
nhất. Huyện đảo này có sự khác biệt hẳn về quy mô diện tích, dân số. Diện tích tự
nhiên của Bạch Long Vĩ chỉ là 2,33 km2, dân số của huyện chỉ gần 1.000 người.
Huyện cũng là địa phương có hệ thống chính trị đặc biệt khi không có chính quyền
cấp xã mà chỉ có chính quyền cấp huyện và các tổ dân phố. Trở thành trung tâm
chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá cho các tỉnh ven biển Bắc Bộ là định hướng
phát triển kinh tế chính và dường như là duy nhất của huyện.
Trong các huyện còn lại thì Thủy Nguyên có dân số lớn nhất với hơn 31 vạn
người và có diện tích đứng thứ hai, với hơn 240 km2. Trong khi đó, Cát Hải lại
rộng nhất với tổng diện tích trên 345 km2 nhưng dân số lại nhỏ nhất (chỉ trên 3 vạn
người). Các huyện còn lại có quy mô diện tích khá gần nhau, giao động từ khoảng
100 km2 đến 200 km2 và dân số giao động trong khoảng từ 10 vạn đến 18 vạn.
Cơ cấu kinh tế của các huyện cũng rất khác nhau. Trong khi Thủy Nguyên
22


rất giàu tiềm năng về kinh tế, đa dạng về ngành nghề, có đủ các loại hình công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì một số huyện như An Lão, Vĩnh Bảo, Tiên

Lãng, Kiến Thụy, An Dương lại chủ yếu là các huyện thuần nông. Trong những
năm qua, các khu, cụm công nghiệp được xây dựng tại các huyện vốn thuần nông
đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương này theo hướng công nghiệp
hóa. Tuy nhiên, ngoại trừ An Dương có sự đột phá trong phát triển công nghiệp khi
tổ hợp sản xuất của Tập đoàn LG đặt tại khu công nghiệp Tràng Duệ trên địa bàn
huyện, các huyện còn lại vẫn lấy phát triển nông nghiệp làm chủ đạo.
Trong 7 quận nội thành của Hải Phòng, có ba quận gắn liền với lịch sử phát
triển của thành phố, đó là ba quận Hồng Bàng, Lê Chân và Ngô Quyền. Ba quận
này có quy mô diện tích gần giống nhau, trên 10 km2 mỗi quận. Lê Chân có mật độ
dân số đông nhất với tổng dân số khoảng 21 vạn, gần gấp 2 lần dân số của Hồng
Bàng. Đây là ba quận có có vị trí quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế-xã
hội, quốc phòng an ninh của Hải Phòng. Về cơ cấu kinh tế, cả ba quận đều có
ngành dịch vụ và thương mại chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế. Trong
bốn quận còn lại thì hai quận được hình thành từ hai thị xã của Hải Phòng, đó là thị
xã Kiến An và thị xã Đồ Sơn. Cả Kiến An và Đồ Sơn đều có diện tích khá lớn (lần
lượt là gần 30 km2 và trên 42 km2) nhưng dân số lại nhỏ (lần lượt là hơn 8 vạn và
hơn 5 vạn người). Nếu như Kiến An có cơ cấu kinh tế chủ yếu là công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp thì Đồ Sơn từ lâu đã nổi tiếng là khu dịch vụ du lịch của vùng
và cả nước. Cùng là hai quận được thành lập mới nhưng Hải An có diện tích gấp
hơn 2 lần và dân số gấp gần 3 lần Dương Kinh. Về cơ cấu kinh tế cũng có sự khác
biệt căn bản khi Hải An là trọng điểm phát triển công nghiệp, dịch vụ của thành
phố, nhất là dịch vụ cảng biển và logistic khi quận này hội tụ và là đầu mối của 5
loại giao thông đường bộ, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường sắt và đường
hàng không. Trong khi phần lớn quận Dương Kinh được hình thành từ đất của
huyện thuần nông Kiến Thụy nên vẫn còn kém phát triển với một số khu, cụm
công nghiệp quy mô nhỏ.
Sau gần 30 năm chuyển mình theo sự đổi mới của đất nước, hơn 10 năm
23



triển khai thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị, con đường phát triển
của Hải Phòng đã được hình thành ngày càng rõ nét. Thành phố đã và đang tạo cho
mình một thế đứng, đà phát triển mới cho giai đoạn tiếp theo. Cơ cấu kinh tế thành
phố Hải Phòng đã có những bước chuyển dịch theo hướng ngày càng đổi mới và
phát triển. Công tác quản lý, sử dụng tài nguyên đất đai trên địa bàn đã góp một
phần đáng kể vào sự phát triển chung của thành phố; sự chuyển đổi cơ cấu sử dụng
đất được gắn liền với sự chuyển đổi của cơ cấu kinh tế thành phố. Diện tích đất
dành cho phát triển các ngành công nghiệp, ngành dịch vụ, cho đầu tư xây dựng hạ
tầng, xây dựng các khu đô thị tăng đáng kể với tốc độ khá nhanh, cơ bản phục vụ
được nhu cầu sử dụng đất đai trong các lĩnh vực.
2.1.2. Định hƣớng phát triển và những cơ hội, thách thức của thành phố
2.1.2.1. Định hướng phát triển
Trên nền tảng những thành tựu Hải Phòng đã đạt được sau 10 năm triển khai
Nghị quyết số 32-NQ/TW, Bộ Chính trị đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết và
ban hành Kết luận số 72-KL/TW ngày 10-10-2013, xác định rõ hơn mô hình phát
triển cho Hải Phòng trong giai đoạn tiếp theo. Cụ thể, từ nay đến năm 2020, Hải
Phòng cần phát triển theo hướng “phát huy tối đa các nguồn lực, lợi thế để xây
dựng Hải Phòng trở thành thành phố Cảng xanh, văn minh, hiện đại, trung tâm
dịch vụ, công nghiệp lớn có sức cạnh tranh cao; là trọng điểm phát triển kinh tế
biển của cả nước; trung tâm giáo dục - đào tạo, y tế và khoa học - công nghệ của
vùng duyên hải Bắc Bộ; là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, cửa chính
ra biển của các địa phương phía Bắc và hành lang kinh tế Việt Nam - Trung Quốc;
đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng nâng cao; một pháo đài
bất khả xâm phạm về quốc phòng - an ninh; có tổ chức đảng và hệ thống chính trị
vững mạnh; hoàn thành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước năm 2020”[1] .
Nghị quyết của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ, để triển khai thực hiện mô hình
phát triển trên, từ nay đến năm 2020, thành phố Hải Phòng phải thực hiện được
những mục tiêu và nhiệm vụ:
Thứ nhất, “phải đẩy mạnh việc thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và
24



cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển nhanh, bền vững; chuyển từ phát triển
chủ yếu theo chiều rộng sang theo chiều sâu; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế, nhất là sự đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào
tăng trưởng GDP của thành phố. Tập trung phát triển những lĩnh vực mang tính đột
phá thuộc thế mạnh của thành phố, như các ngành dịch vụ cảng biển, sân bay, du
lịch, kinh tế biển và vận tải biển, logistics, tài chính, xuất nhập khẩu... Chú trọng
phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn, có năng suất, giá trị gia
tăng và hàm lượng khoa học - công nghệ cao, sử dụng công nghệ sạch, thân thiện
với môi trường. Nâng cao tỉ lệ nội địa trong sản phẩm, chuyển dần từ gia công, lắp
ráp sang chế tạo và chế tác. Ưu tiên phát triển những sản phẩm có khả năng tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, giảm dần những sản phẩm sơ chế, tiêu tốn tài
nguyên. Phát triển nông nghiệp sinh thái với các sản phẩm sạch, giá trị thu nhập
cao; đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới” [1].
Thứ hai, “xây dựng và phát triển đô thị Hải Phòng theo hướng đô thị cảng
biển xanh, văn minh, hiện đại. Thực hiện tốt ba khâu đột phá chiến lược mà Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra (hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn nhân
lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng). Trong phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng phải bảo đảm đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố và
vùng. Cần huy động mọi nguồn lực để đầu tư, kể cả vốn nước ngoài dưới nhiều
hình thức (BOT, BTO, BT, PPP...).2 Đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành các dự án trọng
điểm trên địa bàn thành phố” [1].
Thứ ba, “phải tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển xanh của thành phố. Tạo chuyển biến toàn diện, sâu sắc về cải cách
hành chính, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tăng cường kỷ
cương, hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành của các cấp chính quyền; đẩy
mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” [1].
Thứ tư, “phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với việc thực hiện tốt


2

BOT (Build - Operation - Transfer) là xây dựng - kinh doanh - chuyển giao; BTO (Build – Transfer - Operation) là
xây dựng - chuyển giao - kinh doanh; BT (Build – Transfer) là xây dựng – chuyển giao; PPP (Public Private
Partnership) là hợp tác công tư.

25


×