Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Một số biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp của thành phố hải phòng giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 82 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác

Hải Phòng, ngày 15 tháng 3 năm 2016
Tác giả

KS. Trần Quý Dƣơng

i


LỜI CẢM ƠN
Đƣợc sự phân công của Viện đào tạo sau Đại học trƣờng Đại Học Hàng Hải
Việt Nam, và đƣợc sự đồng ý của Thầy giáo hƣớng dẫn PGS.TS.Đan Đức Hiệp, em
đã thực hiện đề tài: “Một số biện pháp nâng cao năng lực canh tranh Ngành công
nghiệp Thành phố Hải Phòng giai đoạn 2016 – 2020”.
Xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hƣớng dẫn PGS.TS.Đan Đức Hiệp đã tận
tình, chu đáo hƣớng dẫn thực hiện bài luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất. Song
do còn hạn chế về kiến thức cũng nhƣ kinh nghiệm thực tế nên không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định mà bản thân chƣa nhận thấy đƣợc. Em rất mong đƣợc sự
đóng góp của quý Thầy, Cô giáo và các bạn học viên trong lớp để bài luận văn đƣợc
hoàn thiện hơn
Em xin chân thành cảm ơn!

Hải Phòng, ngày tháng năm 2016
Tác giả


Trần Quý Dƣơng

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii
DANH SÁCH CÁC BẢNG BIỂU ................................................................................iii
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
CÔNG NGHIỆP ............................................................................................................ 4
1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh. ............................................................................ 4
1.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp. ......... 7
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành. .................................... 11
1.4. Kinh nghiệm và bài học nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp
Thành phố Hải Phòng. .......................................................................................... 16
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CÔNG
NGHIỆP THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN 2010-2015 ............................. 24
2.1. Tình hình kinh tế - xã hội thành phố giai đoạn 2010 – 2015. ........................... 24
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp Thành phố Hải Phòng giai
đoạn 2010 – 2015. ....................................................................................................... 34
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH
NGÀNH CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2016-2020 ....................... 48
3.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 – 2020. ..... 48
3.2. Định hƣớng phát triển ngành công nghiệp thành phố đến năm 2020. .............. 51
3.3. Một số biện pháp nâng cao tính cạnh tranh của ngành công nghiệp. ............... 53
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 76


iii


DANH SÁCH CÁC BẢNG BIỂU
Số bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Cơ cấu kinh tế thành phố trong 5 năm 2011 – 2015

27

2.2

Tốc độ tăng trƣởng GDP, GRDP Thành phố Hải Phòng 2011 –
2015

28

2.3

Xuất nhập khẩu 5 năm 2011 – 2015

30

2.4


Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 2011 – 2015

31

2.5

Kế hoạch ngành công nghiệp Hải Phòng 2011 – 2015

32

2.6

Sản lƣợng một số nhóm ngành công nghiệp chủ yếu 2011 – 2015

35

2.7

Tốc độ tăng trƣởng giá trị sản xuất công nghiệp cả nƣớc 2011 –
2015 so với năm trƣớc

38

2.8

Giá trị sản xuất công nghiệp theo GSS 2010

38


2.9

Giá một số sản phẩm công nghiệp của các địa phƣơng 2015

39

2.10

Kim ngạch xuất khẩu năm 2013 của 19 tỉnh, thành phố

41

iv


LỜI MỞ ĐẦU
Hải Phòng là thành phố cảng biển, cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc,
cực tăng trƣởng vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đầu mối giao thông quan trọng.
Lợi thế so sánh đã tạo cho Hải Phòng phát triển kinh tế biển, chủ yếu là ngành
cảng – hàng hải, du lịch biển, thủy sản, dầu khí và các dịch vụ kinh tế biển. Trong
10 năm kể từ năm 2000 đến năm 2010, kinh tế Hải Phòng đạt nhiều kết quả đáng
kể. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế đã tăng bình quân 11,2%/năm, cơ cấu kinh tế đã
chuyển dịch theo hƣớng tích cực. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch
vụ tƣơng ứng từ 34,1% và 48,1% lên 36,97% và 53,02%.
Trong mọi nền kinh tế, ngành công nghiệp luôn đóng vai trò chủ lực, có tác
dụng thúc đẩy sự tăng trƣởng của toàn nền kinh tế cũng nhƣ đảm bảo sự phát triển
bền vững của an sinh xã hội. Đối với Hải Phòng cũng vậy, ngành công nghiệp giữ
vị trí chủ lực, chiếm hơn 30% trong toàn bộ GDP của Thành phố. Ngành công
nghiệp còn góp phần quan trọng, làm nền tảng cho Thành phố đi lên con đƣờng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; trong đó không thể không nhắc đến những sản

phẩm mũi nhọn nhƣ: thép tấm, xi măng, nhiệt điện, cơ khí, phôi thép, xơ sợi tổng
hợp, phân bón DAP… Thành phố vẫn đang từng bƣớc triển khai xây dựng các
trung tâm công nghiệp đóng tàu, vật liệu xây dựng, sản xuất kim loại mang tầm
vóc quy mô lớn. Bên cạnh đó, các ngành ứng dụng kỹ thuật cao cũng đang đƣợc
phát triển nhƣ sản xuất dụng cụ y tế, sản xuất máy móc thiết bị điện, điện tử, thiết
bị văn phòng và máy tính…. Một trong những vấn đề quan trọng nữa là công tác
quy hoạch cũng nhƣ xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho các khu, cụm công nghiệp, các
đặc khu kinh tế cũng có những chuyển biến căn bản, và đang trở thành một trong
những mục tiêu trọng tâm của thành phố nhằm tạo không gian phát triển cho ngành
công nghiệp một cách hiệu quả và bền vững.
Tuy nhiên, vấn đề phát triển kinh tếcũng nhƣ năng lực cạnh tranh của Hải
Phòng vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết, tiềm năng phát triển của ngành công
1


nghiệp chƣa đƣợc phát huy. Cơ cấu ngành công nghiệp Hải Phòng chủ yếu vẫn là
lắp ráp, gia công, sử dụng nhiều lao động, giá trị gia tăng thấp, tỷ trọng tới 98%;
công nghiệp phụ trợ vẫn chƣa phát triển; tỷ lệ nội địa hóa của các ngành công
nghiệp chủ lực thấp, trình độ công nghệ chủ yếu vẫn là cơ khí hóa, tỷ lệ tự động
hóa chỉ đạt 15%, tỷ lệ vốn đầu tƣ GDP luôn ở mức cao trên 50%.
Từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài : “Một số biện pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp của Thành phố Hải Phòng giai
đoạn 2016-2020”.
Dựa trên việc tìm hiểu hệ thống một lý luận về năng lực cạnh tranh và thực
trạng của ngành công nghiệp đểđƣa ra các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành công nghiệp Thành phố Hải Phòng, mục tiêu cụ thể của đề tài bao
gồm:
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luậnvềnăng lực cạnh tranh của ngành công
nghiệp.
Những nhân tố ảnh hƣởng và một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh

của ngành công nghiệp Thành phố Hải Phòng.
Một số biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp
Thành phố Hải Phòng giai đoạn 2016 – 2020.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tƣợng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp của Thành
phố Hải Phòng.
Phạm vi nghiên cứu: tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh ngành công
nghiệp trong cơ cấu kinh tế của Thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 20102015để xác định các vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng
và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp Thành phố giai đoạn 2016-2020.
2


Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phƣơng pháp thống kê, phân tích và tổng hợp để thu thập và xử lý số liệu.
Phƣơng pháp so sánh, đối chứng để tiến hành đánh giá thực trạng phát triển
công nghiệp của các tỉnh, thành phố cũng nhƣ một số quốc gia đang phát triển, từ
đó đƣa ra tầm nhìn chung về tình hình phát triển ngành công nghiệp Thành phố Hải
Phòng, và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngành.
Với mục tiêu trên, đề tài đƣợc kết cấu nhƣ sau: ngoài phần mở đầu và kết
luận, đề tài gồm 3 phần:
Chƣơng 1: Hệ thống hóa một số lý luậnvề năng lực cạnh tranh của ngành
công nghiệp.
Chƣơng 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp của
Thành phố Hải Phòng giai đoạn 2010 – 2015.
Chƣơng 3: Một số biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công
nghiệp của Thành phố Hải Phòng giai đoạn 2016-2020.

3



CHƢƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh.
1.1.1.Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
Cạnh tranh là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này
đƣợc sử dụng cho cả phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc
phạm vi khu vực liên quốc gia…điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu đƣợc đặt ra
ở phạm vi doanh nghiệp hay ở phạm vi ngành hay ở phạm vi quốc gia mà thôi.
Vậy cạnh tranh là gì? Toàn bộ ý nghĩa của khái niệm này là ngƣời mua đƣợc
quyền lựa chọn. Tất nhiên những ngƣời mua này có thể là doanh nghiệp khác hoặc
cá nhân ngƣời tiêu dùng.
Theo Michael Porter (1987): “năng lực cạnh tranh là khả năng sáng tạo ra
những sản phẩm có quy trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị gia tăng cao, phù
hợp với nhu cầu khách hàng, hoặc sản phẩm có chi phí thấp, năng suất cao nhằm
tăng lợi nhuận”.
Theo P.Buckley (1991) lại xem “năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ
hàng hóa, duy trì và mở rộng thị phần và thu lợi nhuận của doanh nghiệp so với
các đối thủ. Quan điểm của P.Bucley đã gắn năng lực cạnh tranh với khách hàng và
hiệu quả kinh doanh thông qua lợi nhuận”.
Dunning lại cho rằng, “năng lực cạnh tranh là năng lực cung cấp sản phẩm
của chính doanh nghiệp trên các thị trƣờng khác nhau mà không phân biệt nơi bố
trí sản xuất của doanh nghiệp đó”, có nghĩa cạnh tranh không chỉ trong sản xuất mà
gắn với tiêu thụ, thị trƣờng tiêu thụ và chuỗi cung ứng. Năng lực cạnh tranh là
năng lực giành đƣợc và duy trì thị phần trên thị trƣờng
4


Trong tác phẩm “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thời hội
nhập”(2010), tác giả Đặng Đức Thành nêu: “ Năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp đƣợc đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận cho
doanh nghiệp trong môi trƣờng cạnh tranh trong nƣớc và ngoài nƣớc”.
“Năng lực cạnh tranh, khả năng dành đƣợc thị phần lớn trƣớc các đối thủ
cạnh tranh trên thị trƣờng, kể cả khả năng dành lại một phần hay toàn bộ thị phần
của đồng nghiệp” (theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB từ điển Bách
khoa Hà Nội, trang 349).
Có thể thấy rằng, khái niệm năng lực cạnh tranh đã đƣợc rất nhiều tác giả
trong nƣớc và quốc tế đƣa ra, ở những thời điểm và mức độ khác nhau làm cơ sở
để xem xét và đánh giá với các Quốc gia, ngành, doanh nghiệp.
Nói tóm lại “cạnh tranh là sự ganh đua giữa những các tổ chức, cá nhân có
chức năng nhƣ nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các biện pháp để giành
phần thắng trong cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các mục tiêu này
có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn, danh tiếng....”
Cạnh tranh cũng luôn tồn tại hai mặt của một vấn đề đó là mặt tích cực và
mặt tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, cạnh tranh là nhân tố quan trọng góp phần phân
bổ các nguồn lực có hạn của xã hội một cách hợp lý, trên cơ sở đó giúp nền kinh tế
tạo lập một cơ cấu kinh tế hợp lý và hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, cạnh
tranh góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ, dẫn đến gia tăng năng
suất sản xuất xã hội, sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất đầu vào nhằm thỏa mãn
tối đa nhu cầu xã hội thông qua các sản phẩm, dịch vụ chất lƣợng cao, giá thành
hạ, mẫu mã đa dạng... Ở khía cạnh tiêu cực, nếu cạnh tranh chỉ nhằm mục đích
chạy theo lợi nhuận mà bất chấp tất cả thì song song với lợi nhuận đƣợc tạo ra, có
thể xảy ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội nhƣ môi trƣờng sinh thái bị hủy
hoại, nguy hại cho sức khỏe con ngƣời, đạo đức xã hội bị xuống cấp, nhân cách
5


con ngƣời bị tha hóa. Nếu xảy ra tình trạng này, nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển
một cách lệch lạc và không vì lợi ích của số đông.
Năng lực cạnh tranh ngành: Năng lực cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh

tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích đầu
tƣ có lợi hơn. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận
bình quân và giá trị sản xuất hàng hóa.
Năng lực cạnh tranh của ngành phụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố:
Nhóm yếu tố do ngành tự quyết định bao gồm chiến lƣợc phát triển
ngành, sản phẩm chế tạo, lựa chọn công nghệ, đào tạo cán bộ, đầu tƣ nghiên cứu công
nghệ và phát triển sản phẩm, chi phí sản xuất và quan hệ với bạn hàng...
Nhóm các yếu tố do Chính phủ quyết định, tạo ra môi trƣờng kinh doanh
bao gồm: thuế, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái, chi ngân sách cho hoạt động R&D,
hệ thống luật pháp điều chỉnh quan hệ giữa các bên tham gia thị trƣờng...
Nhóm các yếu tố mà Chính phủ và ngành chỉ quyết định đƣợc một phần
nhƣ: nguyên liệu đầu vào sản xuất, nhu cầu của ngƣời tiêu dùng, môi trƣờng thƣơng
mại quốc tế...
Nhóm các yếu tố hoàn toàn không thể quyết định đƣợc nhƣ: môi trƣờng
tự nhiên, quy luật kinh tế...
1.1.2.Các cấp độ của năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh có thể đƣợc phân biệt thành bốn cấp độ:
Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia,
Năng lực cạnh tranh cấp ngành.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá.
6


Chúng có mối tƣơng quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và
của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp.Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối
quan hệ và chịu ảnh hƣởng của năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm
tƣơng tự nhƣ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp.

1.2.1. Các nhân tố bên ngoài.
1.2.1.1. Các xu hướng phát triển trên thế giới.
Bƣớc sang thế kỷ XXI, chúng ta đang đứng trƣớc thời cơ mới, nhân loại đang
từng bƣớc đi vào sử dụng tri thức cho phát triển và đang hình thành nền kinh tế dựa
vào tri thức, sử dụng nhanh và gần nhƣ trực tiếp các thành tựu của khoa học công
nghệ vào phục vụ sản xuất đời sống. Đây là thời kỳ mà các quan hệ quốc tế đã phát
triển tới mức không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ thống kinh tế xã
hội nào có thể tồn tại và phát triển mà không chịu sự tác động ấy
Xu hƣớng nền kinh tế thế giới chuyển sang nền kinh tế có cơ sở vật chất kỹ
thuật mới về chất - một nền văn minh hậu công nghiệp.
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ công nghiệp hoá cao coi khoa
học công nghệ là cốt lõi của biến đổi nền kinh tế. Các nƣớc này áp dụng nhiều biện
pháp để dành đƣợc các ƣu thế trong sáng tạo kỹ thuật công nghệ nhƣ: tăng cƣờng
quản lý nhà nƣớc về lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ, thực hiện kế hoạch
nghiên cứu khoa học công nghệ và tăng cƣờng đầu tƣ nghiên cứu khoa học, cải cách
và chấn hƣng giáo dục, bồi dƣỡng và thu hút nhân tài, thành lập các thành phố khoa
học kỹ thuật cao.
Các nƣớc đang phát triển hiện đứng trƣớc một thách thức mới. Đó là lợi thế của
các quốc gia này về nguồn nguyên liệu, nhƣng tỷ trọng giao dịch nông sản phẩm
khoáng sản trên thị trƣờng thế giới ngày càng giảm do cách mạng khoa học kỹ thuật
7


công nghệ đang phổ biến. Vì vậy, các nƣớc đang phát triển phải áp dụng chính sách
kinh tế mới, thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài, tham gia cạnh tranh quốc tế,
sử dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và dịch vụ quốc tế.
Những thay đổi về cơ cấu kinh tế thế giới dẫn tới những thay đổi về thị trƣờng:
thị trƣờng của hàng hoá có hàm lƣợng kỹ thuật cao và thị trƣờng dịch vụ sẽ ngày càng
mở rộng, còn thị trƣờng hàng hoá truyền thống sẽ ngày càng thu hẹp và cạnh tranh để
tiêu thụ ngày càng gay gắt.

1.2.1.2. Môi trường kinh tế xã hội.
Sự ổn định về môi trƣờng kinh tế và xã hội là một yếu tố quan trọng, đƣợc
coi là điều kiện cần thiết để các ngành nói chung, và ngành công nghiệp nói riêng
yên tâm đầu tƣ vào phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành.
Sự ổn định về chính trị và đảm bảo an toàn xã hội làm giảm rủi ro trong kinh
doanh. Hệ thống pháp luật nhất quán, ổn định tạo môi trƣờng thuận lợi cho sự phát
triển của ngành, từ đó năng lực cạnh tranh của ngành sẽ đƣợc nâng cao. Khi xã hội
phát triển, cuộc sống con ngƣời đƣợc cải thiện, do đó nhu cầu của khách hàng ngày
một tăng, nhất là đối với các sản phẩm cao cấp. Chính vì vậy sẽ thúc đẩy doanh
nghiệp tìm cách cải tiến nâng cao chất lƣợng sản phẩm và dịch vụ, từ đó nâng cao
sức cạnh trạnh của ngành.
1.2.1.3. Đối thủ cạnh tranh.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều có cơ hội nhƣ
nhau trên thị trƣờng. Để có thể tồn tại và phát triển, mỗi doanh nghiệp phải có
chiến lƣợc thật hiệu quả để không ngừng đổi mới nâng cao chất lƣợng sản phẩm,
nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm vƣợt qua đối thủ, dành chỗ đứng trên thị
trƣờng. Doanh nghiệp luôn phải duy trì khả năng lợi thế cạnh tranh của mình và
liên tục nâng cao năng lực cạnh tranh, nhƣ vậy mới có thể phát triển đƣợc.

8


Trong thị trƣờng tự do cạnh tranh, gần nhƣ không có rào cản gia nhập thị
trƣờng, luôn có các đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng tham gia thị trƣờng bất cứ lúc nào. Sự
xuất hiện của đối thủ mới có thể gây ra những cú sốc mạnh cho các doanh nghiệp hiện
tại vì thông thƣờng những ngƣời đi sau thƣờng có nhiều căn cứ cho việc ra quyết định
hơn và các chiêu bài của họ thƣờng có tính bất ngờ. Để chống lại các đối thủ tiềm ẩn,
doanh nghiệp phải thƣờng xuyên củng cố năng lực cạnh tranh của mình bằng cách
không ngừng nâng cao chất lƣợng dịch vụ, đổi mới phƣơng thức tổ chức dịch vụ cung
ứng.

1.2.2. Các nhân tố bên trong.
1.2.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngành.
Chiến lƣợc cạnh tranh có tầm ảnh hƣởng quan trọng đến xây dựng và nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngành. Hơn nữa, thông qua các chiến lƣợc cạnh tranh
có thể tạo dựng, duy trì và phát triển các lợi thế cạnh tranh mới, do đó năng lực
cạnh tranh của ngành sẽ đƣợc nâng cao. Nhƣng điều quan trọng nhất là ngành phải
xây dựng, lựa chọn và thực hiện có hiệu quả các chiến lƣợc thích hợp để khai thác
tốt nhất các điều kiện môi trƣờng kinh doanh bên ngoài và nội bộ ngành.
1.2.2.2. Nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính là một trong những nhân tố quyết định đến năng lực
cạnh tranh cũng nhƣ ảnh hƣởng đến khả năng duy trì chiến lƣợc cạnh tranh, khả
năng mở rộng quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm, xây dựng thƣơng hiệu, xây
dựng hệ thống hậu cần, kho, bãi. Nguồn lực tài chính đƣợc thể hiện ở quy mô vốn tự
có, khả năng huy động các nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử
dụng các nguồn vốn đó. Tuy nhiên quy mô vốn của ngành không quan trọng là lớn
hay nhỏ, điểm then chốt là ngành sử dụng vốn vào lĩnh vực kinh doanh phục vụ nhu
cầu của khách hàng tốt đến đâu.

9


Ngành có năng lực tài chính mạnh sẽ là điều kiện cần thiết và vô cùng quan
trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành.
1.2.2.3.Nguồn lực về máy móc thiết bị và kỹ thuật, cơ sở vật chất hạ tầng.
Máy móc thiết bị là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong tài sản cố định,
nó là những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu quyết định năng lực sản xuất của ngành,
là nhân tố đảm bảo năng lực cạnh tranh, máy móc thiết bị tốt sẽ nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong các khâu thu mua, vận chuyển, bảo quản sản phẩm
hàng hóa đến khi phân phối; tìm kiếm thông tin, thanh toán...
Ngoài ra điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng, trong đó công nghệ đóng vai trò

rất lớn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực công
nghệ không chỉ thể hiện ở trình độ trang thiết bị công nghệ mà còn thể hiện ở trình độ
chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo của ngƣời lao động.
Nếu doanh nghiệp có điều kiện cơ sở kỹ thuật tiên tiến thì năng suất lao động
của doanh nghiệp sẽ đƣợc nâng cao, từ đó doanh nghiệp sẽ nâng cao đƣợc năng lực
cạnh tranh của bản thân.
1.2.2.4. Nguồn nhân lực.
Nhân lực là nhân tố vô cùng quan trọng đối với bất cứ hoạt động kinh doanh
sản xuất nào của ngành công nghiệp. Nguồn nhân lực không đảm bảo về số lƣợng và
chất lƣợng là nguyên nhân giảm sút năng suất lao động và chất lƣợng sản phẩm. Làm
tốt công tác quản lý nguồn nhân lực là con đƣờng dẫn tới thành công của doanh
nghiệp, quản lý nguồn nhân lực giúp doanh nghịêp khai thác đƣợc mọi tiềm năng của
ngƣời lao động, qua đó, đóng góp vào sự phát triển của doanh nghiệp; sử dụng hợp lý
chi phí tiền lƣơng là một cách hiệu quả để hạn chế sự di chuyển lao động ra khỏi
doanh nghiệp, làm ảnh hƣởng đến hoạt động của bộ máy

10


Có thể nói năng lực của ban lãnh đạo góp phần không nhỏ vào việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu ban lãnh đạo không có định hƣớng, quyết
tâm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty thì nhân viên cấp dƣới cũng không có
quyết tâm, động lực để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ cao, có nguồn lực tài
chính vững mạnh, nhƣng nếu không có một đội ngũ lao động lành nghề, có trình độ
cao thì cũng không thể có năng lực cạnh tranh mạnh. Vì vậy việc sử dụng đội ngũ
laođộng có trình độ là một nhân tố quan trọng tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành.
1.3.1.Tỉ trọng sản xuất công nghiệp của địa phương trong tổng số quốc gia.

Đây là một tiêu chí quan trọng đánh giá đƣợc năng lực sản xuất cũng nhƣ
sức cạnh tranh ngành công nghiệp của một tỉnh, thành phố đối với toàn bộ nền kinh
tế của một quốc gia.
Đối với Hải Phòng, sản xuất công nghiệp năm 2015 có mức tăng trƣởng khá
cao, đạt 16,52%, vƣợt xa mức kế hoạch (9-10%). Đây là kết quả từ việc một loạt
dự án công nghiệp mới có quy mô lớn đi vào hoạt động, nhƣng quan trọng hơn là
nhờ mô hình tăng trƣởng kinh tế của Hải Phòng sau một thời gian đã có những
bƣớc đổi mới rõ nét, quan trọng về chất, tạo nên giá trị và hiệu quả cao.
1.3.2. Chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm.
Nâng cao chất lƣợng sản phẩm vừa làm tăng uy tín thƣơng hiệu của sản
phẩm đó, vừa tạo ra nhiều giá trị hơn cho khách hàng và từ đấy ngành có thể định
giá cao hơn cho sản phẩm đó. Hơn nữa, chất lƣợng sản phẩm của nội bộ ngành
đƣợc nâng cao sẽ làm tăng hiệu quả, giảm chi phí sản xuất.

11


Nâng cao chất lƣợng quá trình sản xuất sẽ làm giảm tỷ lệ sai hỏng, giảm thời
gian và chi phí sửa chữa, phục hồi các sản phẩm hỏng…từ đó năng suất lao động
và năng suất các yếu tố khác đều tăng, và hệ quả tất yếu là chi phí giảm.
Khi sản xuất đƣợc sản phẩm có chất lƣợng cao, ngành sẽ đạt đƣợc vị trí trên
thị trƣờng, ngành sẽ nhận đƣợc sự tin tƣởng của khách hàng, điều này cho thấy
năng lực cạnh tranh của ngành sẽ càng cao.
Từ đó có thể thấy đƣợc chất lƣợng sản phẩm là một trong những tiêu chí
quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành.
Tới thời điểm hiện tại, hàng trăm sản phẩm sản xuất tại Hải Phòng đã và
đang tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu nhƣ lốp xe ô tô, điện lạnh,
điện thoại di động, các sản phẩm điện tử, máy tính văn phòng, dƣợc phẩm, thiết bị
y tế, sơn, hóa mỹ phẩm, ống nhựa, giấy, bột giặt…Một vài ngành công nghiệp có
tỷ trọng trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao nhƣ sản xuất sản phẩm điện tử,

máy vi tính….Điều này chứng tỏ chất lƣợng sản phẩm của ngành công nghiệp Hải
Phòng đang từng bƣớc đƣợc nâng cao, chiếm một vị trí nhất định trong thị trƣờng
toàn cầu, thể hiện sức cạnh tranh cao đối với các ngành khác.
1.3.3. Năng suất lao động của ngành
Năng suất lao động ảnh hƣởng rất lớn đến chi phí để sản xuất một đơn vị sản
phẩm. Năng suất lao động cao làm giá thành sản phẩm hạ giá cả hàng hóa giảm,
điều này chứng tỏ khả năng thâm nhập thị trƣờng của sản phẩm cũng nhƣ sức cạnh
tranh của ngành đƣợc nâng cao. Ngƣợc lại nếu năng suất lao động thấp, giá thành
sản phẩm tăng cao dẫn đến hàng hóa tiêu thụ kém, gây ứ đọng, hiệu quả sản xuất
kinh doanh không cao. Tới một mức nào đó, ngành hàng sẽ không chịu đƣợc sức
ép cạnh tranh do năng suất lao động thấp dẫn đến sản xuất trì trệ, cuối cùng là phá
sản.
1.3.4. Khả năng đổi mới của ngành.
12


Bất kỳ sự đổi mới hữu ích nào trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ
phƣơng thức sản xuất cho đến dịch vụ cung ứng mang lại doanh thu cho doanh
nghiệp cũng nhƣ của ngành. Đổi mới bao gồm sự cải tiến, sáng tạo, áp dụng các
sáng kiến khoa học mới vào quá trình sản xuất, cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh,
các chiến lƣợc mà ngành xây dựng và thực hiện. Từ đó có thể hiểu, đổi mới thể
hiện tính linh hoạt và năng động của doanh nghiệp khi thích ứng với mọi điều kiện
thay đổi của môi trƣờng kinh doanh.
Đổi mới có thể đƣợc coi là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra lợi thế cạnh tranh
cho ngành. Nếu đổi mới thành công, doanh nghiệp sẽ tạo ra những nét độc đáo
riêng biệt mà không doanh nghiệp nào có đƣợc, từ đó trở thành lợi thế cạnh tranh
chiến lƣợc của riêng mình.
1.3.5. Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Muốn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đƣợc nâng cao, điều tất yếu là
phải thỏa mãn đƣợc nhu cầu của khách hàng tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh. Khả

năng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng đƣợc thể hiện qua nhiều yếu tố:
Doanh nghiệp có khả năng cung cấp, thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng đúng loại hàng hóa, sản phẩm vào đúng thời điểm họ cần, họ mong muốn.
Cung cấp cho khách hàng những sản phẩm chất lƣợng hơn, ƣu việt hơn nhƣng giá
thành lại thấp hơn và có những dịch vụ ƣu đãi hấp dẫn hơn so với đối thủ cạnh
tranh.
Doanh nghiệp cung ứng đƣợc nhiều loại hàng hóa, sản phẩm sẽ có khả
năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, và từ đó năng lực cạnh tranh sẽ
đƣợc nâng cao hơn.
Thời gian đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng là một yếu tố quan
trọng. Những doanh nghiệp khác nhau sẽ có cách tính khoảng thời gian này khác
13


nhau, doanh nghiệp nào càng rút ngắn đƣợc thời gian thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng thì doanh nghiệp đó càng có nhiều cơ hội chiến thắng hơn trên thị trƣờng.
Sự hoàn hảo của các dịch vụ trƣớc, trong và sau khi bán hàng đang ngày
càng đƣợc quan tâm hơn trƣớc. Đây là một trong những yếu tố quan trọng thu hút
sự quay trở lại của khách hàng, tăng uy tín cho doanh nghiệp, nuôi dƣỡng sự trung
thành của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp, đồng thời nâng cao tầm
nhìn của khách hàng đối với cả một ngành công nghiệp.
1.3.6. Sự liên kết, hợp tác giữa các công ty trong ngành
Trong sản xuất kinh doanh; hợp tác, liên kết là một trong những yếu tố tự
nhiên để tăng năng suất lao động của mỗi doanh nghiệp. Trong môi trƣờng kinh tế
hiện nay, khi phần lớn các doanh nghiệp trong nƣớc còn nhỏ và vừa, thì việc liên
kết, liên doanh để bổ sung năng lực, khắc phục yếu kém nhẳm tăng khả năng cạnh
tranh lại càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Việc liên kết không chỉ giúp doanh nghiệp làm giảm giá thành sản phẩm,
tăng chất lƣợng hàng hóa, mà còn giúp các doanh nghiệp có thể tiếp nhận những
đơn hàng lớn vốn dĩ một mình không thể làm đƣợc, từ đó mở rộng thị trƣờng tiêu

thụ, tạo điều kiện phát triển cho doanh nghiệp trong tƣơng lai.
Liên kết để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, liên kết để tăng quy mô doanh
nghiệp, hình thành những tập đoàn kinh tế lớn tầm cơ quốc tế. Có thể nói liên kết
trong sản xuất là một khâu quan trọng, giúp nhau đổi mới công nghệ, trao đổi kỹ
năng quản lý doanh nghiệp, giúp nhau tiền vốn…liên kết cung ứng vật tƣ, nguyên
liệu, tiêu thụ sản phẩm.
Trong kinh tế thị trƣờng và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của các hiệp hội
doanh nghiệp, hiệp hội các ngành nghề càng ngày càng đƣợc khẳng định và phát
huy, đó chính là cạnh tranh trong hợp tác, hợp tác để cạnh tranh tốt hơn, để tăng
14


thêm sức mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, của ngành và
của cả nền kinh tế.
1.3.7. Đầu tư cho nghiên cứu phát triển, thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp.
Trừ một số doanh nghiệp có quy mô lớn, nhiều doanh nghiệp Việt nam chi
phí quá ít (không đến 1% doanh thu) cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Nhiều doanh nghiệp an tâm với cách làm gia công cho nƣớc ngoài, làm cho doanh
nghiệp chỉ là ngƣời làm thuê lớn, không có thƣơng hiệu, không có sản phẩm riêng.
Công tác tiếp thị, xúc tiến thị trƣờng cũng còn rất nhiều hạn chế, ít đƣợc đầu tƣ và
nhìn nhận đúng vai trò của nó. Thậm chí nhiều doanh nghiệp chƣa ý thức trong nền
kinh tế thị trƣờng, hội nhập kinh tế quốc tế, bán hàng còn khó hơn sản xuất ra hàng
hoá đó.
Ngành công nghiệp của Thành phố Hải Phòng đƣợc cả nƣớc biết đến với
những thƣơng hiệu uy tín chất lƣợng.
Điển hình nhƣ Xi măng Hải Phòng với nhãn hiệu Rồng xanh đã hiện hữu
trên thị trƣờng xây dựng của Việt Nam và khu vực hơn 110 năm nay. Xi măng
"Con Rồng" màu xanh đƣợc ngƣời Pháp đăng ký bảo hộ, đƣợc chứng nhận đạt chất
lƣợng châu Âu.
Hay thƣơng hiệu nƣớc mắm Cát Hải; Là một trong những đặc sản ẩm thực

của miền Bắc Việt Nam, nƣớc mắm Cát Hải (Cát Bà, Hải Phòng) từ lâu đã đƣợc
ngƣời tiêu dùng trong và ngoài nƣớc ƣa chuộng với hƣơng vị mặn mòi của biển.
Nƣớc mắm Cát Hải là một thƣơng hiệu nổi tiếng, đã có mặt ở 24 tỉnh, thành với
hơn 700 đại lý và điểm bán hàng lớn nhỏ. Không chỉ ở thị trƣờng trong nƣớc, nƣớc
mắm Cát Hải còn xuất khẩu đến nhiều quốc gia nhƣ: Trung Quốc, Đông Âu,
Philippines, Lào.
Nhắc đến các thƣơng hiệu nổi tiếng của thành phố cảng, không thể không
nhắc đến Sơn Hải Phòng của tập đoàn kinh tế VLC. Hiện đây là công ty cổ phần
15


đứng đầu về lĩnh vực sơn tàu biển lớn nhất Việt Nam có vốn 100% trong nƣớc. Sản
phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều công trình biển và các khu công nghiệp trọng
điểm của quốc gia nhƣ các nhà máy hoá chất, nhà máy điện và các công trình cầu
đƣờng lớn nhất Việt Nam.
Có thể nói ngành công nghiệp của Thành phố Hải Phòng đang có vị thế nhất
định trong toàn bộ nền kinh tế cả nƣớc cũng nhƣ nền kinh tế khu vực, từng bƣớc
cạnh tranh với các ngành khác, đƣa các sản phẩm của thành phố vƣơn ra tầm vóc
quốc tế, tạo dựng danh tiếng thƣơng hiệu cho thành phố cảng.
1.4.Kinh nghiệm và bài học nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công
nghiệp một số nƣớc trong khu vực.
1.4.1. Kinh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp Trung Quốc.
Từ năm 1977 đến năm 2007, tổng sản phẩm quốc nội thực của Trung Quốc đã tăng 16
lần. GDP tăng thêm của năm 2008 so với 2007 cao hơn tổng sản lƣợng của năm 1977.
Đây là mức tăng trƣởng ngoạn mục của một quốc gia lớn với mức tăng trƣởng cao
liên tục trên 30 năm
Cơ cấu ngành kinh tế của Trung Quốc đã có sự dịch chuyển rõ rệt. Tỷ trọng ngành
nông nghiệp giảm từ 40% (năm 1970) xuống còn 16% (năm 2000), tỷ trọng ngành
công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh.
Từ năm 2005 đến nay, Trung Quốc bắt đầu tiến hành điều chỉnh trực tiếp và

gián tiếp một số ngành thông qua thực hiện chính sách công nghiệp có mục tiêu và
chính sách phát triển doanh nghiệp. Chính sách công nghiệp có mục tiêu hƣớng
vào điều chỉnh các ngành đƣợc bảo hộ trƣớc đây hay các ngành đang bị co hẹp
trong quá trình dịch cơ cấu. Đồng thời khuyến khích và củng cố các ngành then
chốt, công nghiệp mũi nhọn. Chính sách phát triển doanh nghiệp bao gồm cải cách
doanh nghiệp Nhà nƣớc, chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách
phát triển các xí nghiệp hƣơng trấn và chính sách khoa học – công nghệ trong
16


doanh nghiệp. Các biện pháp công cụ can thiệp cũng đƣợc điều chỉnh mạnh hơn,
trong đó giảm các biện pháp bảo hộ trực tiếp. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã học hỏi
kinh nghiệm thành công của các nƣớc đi trƣớc, đặc biệt là các nƣớc Đông Á, và
xây dựng các tập đoàn kinh doanh nhằm tăng năng lực cạnh tranh. Mối quan hệ
giữa chính phủ và doanh nghiệp đã thay đổi theo cách chính phủ không can thiệp
trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Có thể thấy sau khi gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (2001) các mục tiêu
của chuyển dịch cơ cấu ngành của Trung Quốc về cơ bản đã đạt đƣợc. Cơ cấu
ngành bƣớc đầu đƣợc hiện đại hóa với tỷ trọng của các ngành sử dụng kỹ thuật cao
tăng dần trong cơ cấu công nghiệp so với trƣớc đây. Khu vực nông nghiệp giảm tỷ
trọng, còn khoảng 13,1% vào năm 2004, đóng góp của dịch vụ vào GDP tăng dần,
đạt 40,7% và khu vực công nghiệp đóng góp 46,2% trong năm.
Các ngành công nghiệp nhẹ đƣợc ƣu tiên phát triển là những ngành tập trung
nhiều lao động, yếu tố mà Trung Quốc có lợi thế so sánh. Tuy nhiên, cho đến đầu
những năm 90, sự gia tăng đầu tƣ quá mức vào các ngành công nghiệp nhẹ, các
ngành sử dụng nhiều lao động đã khiến nhiều ngành dƣ thƣa công suất, gây mất
cân đối với cơ cấu công nghiệp, cơ cấu ngành cũng nhƣ dẫn đến sự phân hóa giữa
các vùng. Ngoài ra, chính sách phát triển công nghệ cao không đạt kết quả nhƣ
mong muốn. Chẳng hạn, sản phẩm của Chƣơng trình Torch là sự ra đời của 53
công viên phát triển công nghệ cao, nhƣng chỉ có một số hoạt động tốt, số còn lại

vẫn chƣa phát huy tác dụng, thậm chí không đủ kỹ năng để quản lý. Mục tiêu nhằm
thu hút FDI vào phát triển công nghệ cao thông qua chƣơng trình này cũng không
đƣợc tốt nhƣ mong muốn. Do thiếu đổi mới công nghệ nên nhiều sản phẩm công
nghiệp nhẹ trở nên lạc hậu nhanh chóng và sức cạnh tranh thấp.
“Khu vực nông thôn Trung Quốc vẫn rất rộng lớn với 61% dân số sinh sống
trong năm 2002, lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm 45,9% tổng số lao động
17


làm việc trong năm 2004” (Tổng cục thống kê, 2006). Chuyển dịch cơ cấu lao
động chậm, chƣa tƣơng thích với chuyển dịch cơ cấu ngành, gây ra sự tách biệt
giữa nông thôn và thành thị. Chuyển dịch cơ cấu cũng mang chiều hƣớng vùng và
miền, tức là các ngành công nghiệp có giá trị tăng cao hơn tập trung nhiều ở thành
thị và miền Đông hơn là ở nông thôn và miền Tây. Hiệu ứng lan tỏa từ các vùng
kinh tế trọng điểm, đầu tàu còn yếu. Các yếu tố đó làm gia tăng chênh lệch về thu
thập giữa các vùng miền.
1.4.2. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng ở Hàn Quốc.
Hàn Quốc là một đất nƣớc nghèo tài nguyên, trƣớc thập niên 60, Hàn Quốc vẫn
là một đất nƣớc chƣa phát triển. Nhƣng bắt đầu từ thập niên 60 đó, kinh tế Hàn
Quốc bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh, đến giữa thập niên 80, Hàn Quốc trở
thành một nƣớc công nghiệp phát triển mới (NICS). Đặc điểm của nền kinh tế Hàn
Quốc là một nền kinh tế thị trƣờng nhƣng sự điều tiết của nhà nƣớc đóng vai trò
quan trọng.
Từ năm 1970 đến 1980, Hàn Quốc bắt đầu tập trung vào ngành công nghiệp
nặng và sản xuất ô tô. Với sự hỗ trợ của chính phủ, POSCO, một công ty sản xuất
thép, đƣợc thành lập trong vòng gần 3 năm, là một xƣơng sống đầu tiên cho nền
kinh tế Hàn Quốc trong những năm tiếp theo. Năm 1996, Hàn Quốc trở thành
thành viên của OECD, một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của đất nƣớc.
Duy trì sự tăng trƣởng kinh tế của Hàn Quốc là những ngành công nghiệp then
chốt và đã đƣợc thế giới công nhận.Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa đã làm

giảm nhanh dân số làm nông nghiệp. Tỷ lệ dân số nông thôn trong tổng dân số
giảm mạnh từ 57% năm 1962 xuống dƣới 9% vào cuối những năm 2000. Xu hƣớng
này đã ảnh hƣởng đến cơ cấu lao động của các ngành công nghiệp quốc gia. Để
giải quyết vấn đề lao động trong ngành nông nghiệp đang giảm nhanh, Chính phủ

18


đã có những nỗ lực lớn nhằm thúc đẩy cơ giới hóa nông nghiệp. Cơ giới hóa đã
mang lại những thành tựu đáng kể trong việc trồng và thu hoạch lúa.
Trong quá trình phát triển kinh tế, Hàn Quốc lấy chính sách hƣớng ngoại, định
hƣớng xuất khẩu là hạt nhân đã có tác động mạnh tới chuyển dịch cơ cấu ngành ở
nƣớc này. Chƣa đầy 3 thập kỷ kể từ năm 1960, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP
giảm 20 điểm phần trăm, còn 10,8% vào năm 1987. Công nghiệp có tốc độ tăng
trƣởng rất cao và nâng tỷ trọng trong GDP từ chỉ 18,6% lên 43,2% trong cùng kỳ.
Trái với nông nghiệp và công nghiệp, trong 15 năm đầu (từ 1960 – 1975 ) khu vực
dịch vụ bị giảm tỷ trọng trong GDP, sau đó đổi hƣớng và tăng lên đạt 46% vào
năm 1987. Chuyển dịch cơ cấu ngành của Hàn Quốc phản ánh đặc trƣng của chính
sách hƣớng vào xuất khẩu với đóng góp chính của công nghiệp chế biến, trong khi
cơ cấu ngành phản ánh rất rõ xuất phát điểm của Hàn Quốc là nƣớc nghèo về
nguồn tài nguyên. Tỷ trọng công nghiệp chế biến trong GDP tăng nhanh chóng từ
12,1% năm 1960 lên 31,6% năm 1987, trong khi tỷ trọng công nghiệp khai thác tài
nguyên đạt mức cao nhất 2,3% trong năm 1960, giảm đi chỉ còn 0,7% vào năm
1987.
Năm 2005, mức tăng trƣởng GDP của Hàn Quốc là 3,9% với tổng số 901,2 tỷ
USD, mức thu nhập bình quân theo đầu ngƣời là 20.400 USD/năm. Lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp đóng góp 3,7% GDP, công nghiệp là 40,1% và dịch vụ là 56,2%.
Riêng lĩnh vực công nghiệp, tốc độ tăng trƣởng là 7,3% trong năm 2005.
Trải qua giai đoạn phát triển trong một thời gian tƣơng đối ngắn, chính phủ Hàn
Quốc hiện nay đang chú ý tới chất lƣợng của tăng trƣởng. Để đạt đƣợc mục tiêu

này, Hàn Quốc đề cập tới 3 trụ cột cho tăng trƣởng trong tƣơng lai: tăng trƣởng mà
thúc đẩy tạo ra việc làm, tăng trƣởng mà thúc đẩy sáng tạo trong các ngành công
nghiệp và tăng trƣởng đem lại sự phát triển cân bằng giữa các tỉnh cũng nhƣ giữa
các vùng đô thị, giữa các công ty lớn và nhỏ.
19


1.4.3. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh ngành
công nghiệp ở Busan.
Ở thời kỳ đầu công nghiệp hóa những năm 1960, thời kỳ công nghiệp hóa
hƣớng vào xuất khẩu, Busan chủ yếu tăng trƣởng nhờ vào các ngành công nghiệp
chế tạo. Do là thành phố có vị trí cảng biển nên Busan thực hiện công nghiệp hóa
mạnh mẽ và sớm hơn các địa phƣơng khác, thêm vào đó thành phố có sẵn một cơ
sở hạ tầng nhƣ cảng và các cơ sở hạ tầng giao thông nên điều này cũng rất thuận
lợi cho sự phát triển của thành phố. Nhƣng tại thời kỳ đó, do hạn chế vốn và công
nghệ, nên thành phố tăng trƣởng chủ yếu dựa vào các ngành công nghệ thâm dụng
lao động có giá trị gia tăng thấp nhƣ dệt may và da giày.
Một số ngành chế tạo cụ thể gồm dệt may và da giày, thuộc da, hóa chất, dầu,
than, cao su và nhựa đã chiếm 53,3% lực lƣợng lao động của Thành phố năm 1963.
Lao động di cƣ đến Thành phố chủ yếu là lao động là phổ thông làm việc cho
những ngành thâm dụng lao động nhất là lao động nữ, sau đó mức lƣơng tăng
nhanh làm cho các doanh nghiệp phải thuê những công nhân là nữ có tuổi phần lớn
là những ngƣời đã lập gia đình, và đƣơng nhiên là năng suất lao động của họ không
bằng những phụ nữ trẻ chƣa lập gia đình.
Thêm vào đó, một lực lƣợng lao động làm việc trong ngành chế tạo đã chuyển
sang làm ngành dịch vụ vì lƣơng cao hơn, môi trƣờng làm việc tốt hơn. Lúc đó, ý
tƣởng của lãnh đạo là Busan là một thành phố lớn nên hƣớng vào ngành dịch vụ đô
thị, nhƣng dịch vụ đô thị thì đòi hỏi nhân công có trình độ, tuy nhiên với lực lƣợng
lao động trình độ thấp nhƣ vậy thì chỉ làm trong các ngành dịch vụ với giá trị gia
tăng thấp.

Thời kỳ đầu, Busan đã đầu tƣ xây dựng để hỗ trợ các ngành công nghiệp xuất
khẩu tập trung vào các ngành chế tạo. Năm 1965 ngành chế tạo của Busan chiếm
40,5% tổng sản phẩm của thành phố và đạt tỷ trọng cao nhất năm 1970 (54,9%).
20


Trong giai đoạn từ 1965 đến 1980 có sự dịch chuyển tỷ trọng đáng kể giữa ngành
công nghiệp và dịch vụ của Busan, đặc biệt là giai đoạn 1975 – 1980, tỷ trọng
ngành công nghiệp đã giảm 10% và ngành dịch vụ tăng 9%, năm 1980 tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ lần lƣợt là 35,5% và 61,5%. Cũng trong giai đoạn 70 – 80
các ngành công nghiệp thâm dụng lao động đã nhanh chóng mất đi lợi thế cạnh
tranh nhờ vào lao động giá rẻ đã gây ra nhiều vấn đề cho nền kinh tế Busan. Nhiều
biện phát về tái cơ cấu các ngành công nghiệp thâm dụng lao động đặc biệt là
ngành da giày tại các doanh nghiệp, ở cấp độ ngành và chính quyền đã đƣợc thảo
luận. Sau đó chính quyền đã xây dựng chiến lƣợc ngành hợp lý và hiệu quả.
Busan cũng đã phải đối mặt với vấn đề về cơ sở hạ tầng, từ đầu những năm 60
đến đầu những năm 90, dân số Busan đã tăng 4 lần, cộng thêm phƣơng tiện giao
thông tăng nhanh cùng với sự gia tăng của thu nhập và thƣơng mại quốc tế. Cảng
Busan thông qua 95% container của Hàn Quốc, điều này làm cho vấn đề giao
thông của thành phố trở nên trầm trọng. Điều này đòi hỏi phải có biện pháp nhanh
chóng để giải quyết vấn đề, chính vì vậy thành phố đã tập trung để đƣa ra các giải
pháp khắc phục vấn đề này. Để giải quyết vấn đề, thành phố đã tập trung vào 5 vấn
đề chính. Thứ nhất, mở rộng tiện ích giao thông cơ bản là giải pháp cơ bản, xây
dựng các đƣờng cao tốc đô thị mới và đƣờng vành đai để giảm các vấn đề giao
thông cho nội thành. Thứ hai, là xây dựng đƣờng cao tốc bắc nam. Thứ ba, là xây
dựng thêm tàu điện ngầm. Thứ tƣ, là xây dựng chỗ đỗ xe do lƣợng xe lớn nên vấn
đề bãi đỗ xe trở nên cấp thiết. Thứ năm, là tập trung quản lý hệ thống giao thông
hiệu quả.
Vấn đề tiếp theo thành phố phải đối mặt với thiếu quỹ đất. Với sự phát triển
nhanh chóng các ngành công nghiệp nên thành phố thiếu quỹ đất để cho các doanh

nghiệp mới và để xây dựng nhà ở cho dân cƣ.

21


×