Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tích cực hóa hoạt động của học sinh trường THCS tiến lộc thông qua tiết ôn tập địa lí 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 27 trang )

MỤC LỤC
1.MỞ ĐẦU :..........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài :..........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu :....................................................................................2
1.3. Đội tượng nghiên cứu:....................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:...............................................................................2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN.................................................................................3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:......................................................3
2.2.Thực trạng của vấn đề:....................................................................................4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để rèn đọc cho học sinh:.......................................5
2.3.1 Giáo viên cần nắm và nghiên cứu kỹ nộ dung chương trình SGK........... ..5
2.3.2 Rèn luyện giọng đọc mẫu của giáo viên .................................................... 7
2.3.3. Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh............................................................8
2.3.4 Hướng dẫn tốc độ đọc cho học sinh...........................................................10
2.3.5. Rèn kỹ năng đọc có ý thức (Đọc hiểu)......................................................10
2.3.6. Rèn kỹ năng đọc hay cho học sinh............................................................13
2.3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng..........................................
15
2.3.8. Đổi mới cách đánh giá cho học sinh và hình thức xây dựng đề kiểm tra
định kỳ phân môn tập đọc theo thông tư 22....................................................... 18
2.4. Hiệu quả của sáng
kiến:................................................................................19
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: ............................................................................
19
3.1 Kết luận ...................................................................................................... 19
3.2. Kiến nghị ................................................................................................... 20



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:


Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong chương trình giảng
dạy môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học. Học tốt Tập đọc không những giúp cho học
sinh rèn luyện kỹ năng đọc - nghe - nói - viết mà còn tạo điều kiện cho học sinh
học tốt các môn học khác trong bộ môn Tiếng Việt.Tập đọc là một phân môn
không thể thiếu đối với học sinh tiểu học, nó là một công cụ, là chìa khóa, là
phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức của loài người. Nó là môn mang tính
chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ
trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh (Về phát âm, từ ngữ, câu văn),
kiến thức ban đầu về văn học đời sống giáo dục thẩm mỹ. Phân môn Tập đọc ở
tiểu học nói chung và ở lớp Ba nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng. Trong
các giờ Tập đọc học sinh biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ, đã tạo cho các em
hứng thú say mê và để lại một vốn văn học đáng kể cho các em. Mặt khác nó
còn có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mỹ cảm, giúp các em hiểu được cái
đúng, cái đẹp, cái tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Học đọc, các em đồng thời học
cách nói, cách viết một cách trong sáng, có nghệ thuật góp phần không nhỏ vào
việc rèn luyện cách suy nghĩ diễn đạt. Dạy Tập đọc không những rèn kỹ năng
đọc mà còn phát triển ở các em vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú.Từ đó giúp các
em học tất cả các môn học khác bởi: Đọc đúng mới viết đúng, mới hiểu đúng và
làm đúng. [ 2]
Những điều trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát triển một
cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Là người giáo viên
nếu chỉ bằng lòng với những kiến thức mình đã có được ở trong trường học và
lượng kiến thức đã được tiếp thu chuyên đề thì đó sẽ là một điều đáng tiếc. Theo
tôi, một mặt phải nắm chắc được yêu cầu của cả cấp học, lớp học. Mặt khác,
phải tiếp tục tìm tòi phương pháp, hình thức tổ chức cụ thể cho từng tiết học của
mỗi phân môn. Sau một tiết dạy, phải tự đúc rút được kinh nghiệm để rồi tìm ra
những cái hay hơn và mạnh dạn tổ chức các hoạt động dạy- học theo quy trình
hợp lý, linh hoạt có sáng tạo nhằm đổi mới phương pháp dạy- học đạt hiệu quả
cao trong giảng dạy.
Quá trình dự giờ trên lớp cũng như qua các đợt thực hiện chuyên đề tôi thấy

chất lượng đọc của học sinh còn yếu. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, xã hội
ngày càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi tri thức con người ngày càng cao. Trong
đó, ngôn ngữ nói và viết là rất cần thiết cho mỗi người, mỗi thành công không
phải tự nhiên có được, mà phải trải qua một quá trình rèn luyện kiên trì ngay từ
đầu.Việc dạy Tập đọc cho học sinh bên cạnh những thành công còn có nhiều hạn
chế như: Học sinh chúng ta chưa đọc được như mong muốn, kết quả học đọc của
các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kỹ năng đọc. Các em
chưa nắm chắc được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng tình cảm của
người khác chứa đựng trong văn bản được đọc. Trong khi dạy, nhiều giáo viên
chưa thực sự phát huy hết khả năng của mình để làm thế nào để chữa lỗi phát âm
cho học sinh, làm thế nào đề các em đọc nhanh hơn, hay hơn diễn cảm hơn, làm
1


thế nào để các em hiểu văn bản được đọc, làm thế nào để phối hợp đọc thành
tiếng và đọc hiểu. Xuất phát từ những thiếu sót và vướng măc trong quá trình giảng
dạy tôi đã đi sâu nghiên cứu “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh nhằm
nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc ở lớp Ba”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp cho các em ở bậc tiểu học nói chung, lớp Ba nói riêng, rèn được kỹ
năng đọc và cảm thụ tốt bài văn, bài thơ, góp phần hình thành nhân cách con
người một cách toàn diện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các kỹ năng đọc đối với yêu cầu cần đạt của học sinh lớp Ba theo chuẩn
kiến thức, kỹ năng.
Nghiên cứu kỹ các giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp Ba ở trường Tiểu học
Hưng Lộc 2, huyện Hậu Lộc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.

- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Hoạt động trong giờ Tập đọc đó là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở
là việc tiếp nhận thông tin, dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Đọc được
xem là hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là cơ chế sử dụng mật
mã gồm hai phương diện. Một là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã
chữ âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi lại lời nói âm
thanh. Thứ hai là sự vận dụng tư tưởng, tình cảm sử dụng bộ mã chữ - nghĩa (tức
là mối quan hệ giữa các con chữ và lý tưởng). Khái niệm chứa đựng bên trong
để nhớ và hiểu được nội dung những gì đã đọc được. Mục tiêu cuối cùng của
phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng lẻ của quá
trình đọc [ 2]
Dạy Tập đọc là dạy đọc đúng, từ đọc đúng sẽ đi đến đọc hiểu, chính đọc
hiểu là mục tiêu cuối cùng của dạy Tập đọc. Phương pháp dạy Tập đọc phải dựa
trên những cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên quan mật thiết đến vấn đề ngôn ngữ
học như vấn đề chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học) vấn
đề dấu câu, các kiểu câu (thuộc ngữ pháp học), vấn đề nghĩa của câu, đoạn, bài.
Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu phải dựa trên
những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản, tính chính xác, tính đúng đắn, tính thẩm
mỹ, dựa trên những đặc điểm kiểu ngôn ngữ, của phong cách chức năng, các thể
loại văn bản được dùng làm ngữ liệu ở Tiểu học. Hướng đẫn học sinh đọc diễn
cảm phải dựa trên những hiểu biết văn học, tính hình tượng, tính tổ chức cao và
tính đa nghĩa của nó. [ 2] Với học sinh lớp Ba, đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi này
đã bắt đầu từ nhận thức cảm tính sang màu sắc lý tính nhiều hơn. Vì vậy trong

mục tiêu, yêu cầu của dạy Tập đọc cũng được nâng cao lên, đó là học sinh ngoài
đọc đúng, đọc hay, các em còn phải rèn kĩ năng đọc thầm, đọc hiểu đọc cảm thụ
tốt nội dung văn bản. Ở giai đoạn này ngôn ngữ của các em rất phát triển, cùng
vốn ngôn ngữ thì tư duy của các em cũng rất phong phú, đa dạng, có tính sáng
tạo, tưởng tượng cao. Chính vì vậy rèn cho các em kĩ năng đọc, đặc biệt là kĩ
năng cảm thụ văn bản tốt để các em có thể đọc văn bản một cách hay hơn, để
phát huy tối đa hiệu quả một giờ dạy tập đọc đó chính là mục tiêu của mỗi
chúng ta. đó là công cụ của học sinh tiếp cận thế giới, tiếp cận với tri thức nhân
loại.
Tất cả những vấn đề trên là cơ sở vững chắc và có ý nghĩa to lớn đối với
học sinh Tiểu học. Nắm vững được điều này giáo viên sẽ tạo điều kiện để học
sinh tiếp thu kiến thức một cách thoải mái, chủ động và nắm chắc các kĩ năng
dạy phân môn Tập đọc, từ đó phát huy tính tích cực của các em, nâng cao hiệu
quả giờ học. Hơn nữa, tuổi của các em ở Tiểu học là tuổi chơi mà học, học mà
chơi. Các cơ quan trong cơ thể chưa phát triển hoàn thiện nên mức độ tập trung
chú ý lâu chưa bền vững, ngồi lâu trong một tiết học nếu không thay đổi hình
thức tổ chức dạy học chắc các em sẽ không thấy thoải mái. Bởi vậy, cần có
3


những biện pháp tổ chức hoạt động dạy và học linh hoạt để các em có cơ hội
vừa học, vừa vận động cơ thể. Thông qua trò chơi để học và trong một giờ học,
mỗi em được gọi ít nhất hai lần đứng dậy phát biểu ý kiến để có cơ hội thay đổi
tư thế. Học phân môn Tập đọc, việc đọc đúng, đọc hiểu và cảm thụ là hai khâu
có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp
cho việc đọc diễn cảm được tốt. Ngược lại việc đọc diễn cảm giúp cho cảm thụ
bài văn về những cái hay, cái tinh tế, những tình cảm tốt đẹp về văn bản mình
đã đọc.
2.2. Thực trạng việc dạy và rèn đọc cho học sinh ở trường Tiểu học Hưng
Lộc 2 .

+ Đối với giáo viên :
- Giáo viên đã nắm rõ tầm quan trọng của việc dạy Tập đọc ở Tiểu học.
Giáo viên đã chú trọng phương pháp dạy học mới. Đảm bảo quy trình tiết dạy,
chú ý luyện phát âm cho học sinh, đã giúp học sinh hiểu nội dung bài học.
- Một số giáo viên chuẩn bị bài còn phụ thuộc nhiều vào câu hỏi sách giáo
khoa, gợi ý sách giáo viên. Chính vì vậy bài dạy mang tính áp đặt đơn điệu,chưa
phù hợp với đối tượng học sinh, làm cho học sinh tiếp thu một cách thụ động,
ghi nhớ máy móc lời giảng của giáo viên .
- Quá trình hướng dẫn học sinh đọc cảm thụ chưa quán xuyến tất cả các loại
đối tượng mà chỉ tập trung chú ý đến học sinh giao nhiệm vụ luyện đọc cá nhân
hoặc đọc để tìm hiểu bài.
- Việc chọn từ giải nghĩa ở một số giáo viên còn lúng túng, chưa phân biệt
được từ khó cần cung cấp và từ chọn cần để giảng về nội dung và nghệ thuật.
Giảng từ chưa kết hợp với giảng ý và gắn với văn cảnh cụ thể.
- Một số giáo viên lại biến giờ Tập đọc thành giờ “Giảng văn” nặng nề,
không phù hợp đối tượng học sinh. Giọng đọc của nhiều giáo viên chưa thực sự
hay, còn mang nặng giọng địa phương, chưa chú trọng việc nhấn giọng ở những
từ ngữ mang tính gợi tả, gợi cảm. Thời gian luyện đọc ít, áp đặt cách đọc để học
sinh phải đọc thụ động, ít gợi ý để học sinh khám phá, tìm hiểu cách đọc, dẫn
đến hiệu quả được trong giờ Tập đọc chưa cao. Chưa chú ý đến việc dạy cho học
sinh ngắt, nghỉ và giọng đọc của bài, đặc biệt là chưa dành thời gian cho học
sinh được đọc diễn cảm bài văn, bài thơ.
- Phương tiện trực quan chủ yếu trong tiết Tập đọc là ngôn ngữ của giáo viên
và bài tập đọc trong sách giáo khoa, tranh màu phóng to minh họa và một số vật
thật hoặc mô hình để giảng từ và ý chưa được sử dụng thường xuyên, triệt để.
- Giáo viên chưa chú ý đến việc dạy cho học sinh ngắt, nghỉ và giọng đọc
của bài, đặc biệt là chưa dành thời gian cho học sinh được từ đọc đúng dẫn đến
đọc hay bài văn, bài thơ.
+ Thực trạng việc đọc của học sinh:
- Học sinh nhìn chung ít học phân môn Tập đọc ở nhà, nếu có thì học sinh

cũng chưa biết cách đọc, chỉ đọc bài một cách qua loa, chiếu lệ chưa có sự
chuẩn bị chu đáo.
4


- Đến lớp nhiều em chưa phát huy vai trò của cá nhân trong quá trình luyện
đọc nhất là đọc thầm (Vì đòi hỏi tính tự giác là chủ yếu, trong lúc học sinh khác
đọc thành tiếng thì một số em chưa theo dõi) quá trình đọc thành tiếng của bạn
là thời gian “nghỉ ngơi’’của một số em khác.
- Tuy nhiên ở trường Tiểu học hiện nay, trong một lớp trình độ học sinh
không đồng đều. Có học sinh đọc đúng, nhanh, đọc hay nhưng cũng không ít
học sinh đọc còn ngắc ngứ, lý nhí, không biết ngắt nghỉ khi gặp dấu câu, không
hiểu được sắc thái tình cảm điều đó dẫn đến việc cảm nhận văn bản còn hạn chế.
Đặc biệt học sinh lớp 3B ở trường tôi, học sinh thường phát âm sai ở những
tiếng có âm đầu như l/n, s/x, t/ch, vần ăn/ ăng.
- Phần đọc hiểu nắm nội dung bài ở một số học sinh còn khó khăn.
* Kết quả thực trạng:
Ngay từ đầu năm (năm học: 2016 – 2017), sau quá trình tìm hiểu thực tế tôi
tiến hành điều tra kết quả học tập của học sinh lớp 3B trường Tiểu học Hưng
Lộc 2, tôi nhận thấy: Các em mới chỉ dừng lại ở việc đọc to nhưng mức độ đọc
lưu loát còn một số em vẫn chưa đạt yêu cầu, các em còn đọc nhát gừng, đọc lặp
từ, thêm từ, bớt từ đọc sai về các lỗi phát âm. Số em đọc đúng đọc trôi chảy
,ngắt nghỉ đúng chưa đạt. Mức độ đọc hay chỉ có rất ít em đạt được. Các em
chưa thể hiện rõ giọng đọc của từng thể loại như thơ, văn bản kịch… Đặc biệt
vẫn còn một số học sinh không biết thế nào là đọc hay. Ngay từ đầu năm học tôi
đã phân loại để nắm được trình độ của học sinh, từ đó có kế hoạch luyện đọc
cho từng em. Tôi đã thống kê chất lượng đọc của học sinh lớp 3B như sau:
Lớ Sĩ
Chất lượng, mức độ đọc
Số

Tỷ lệ
p
số
lượng
3
30
Đọc đúng tiếng, từ
21
70.0%
B
Đọc vừa đủ nghe, rõ ràng, tốc độ đọc đạt yêu cầu
19
63.3%
Ngắt nghỉ hơi đúng
17
56.6%
Đọc hiểu
13
43,3%
Đọc hay
4
13,3%
Như vậy chất lượng đọc thực tế cho thấy còn thấp. Đặc biệt là các kỹ năng
đọc hiểu và đọc hay trong tiết học Tập đọc. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã
tìm ra một số giải pháp rèn đọc nhằm nâng cao kỹ năng đọc cho học sinh khối
lớp Ba trong tiết Tập đọc đạt hiệu quả cao.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để rèn đọc cho học sinh:
2.3.1- Giáo viên cần nắm và nghiên cứu kỹ nội dung chương trình SGK
Tiếng Việt Lớp 3 đặc biệt là phân môn Tập đọc.
*Nội dung chương trình sách giáo khoa gồm có các: Phân môn, đơn vị

học, cấu trúc của một đơn vị học.
-Phân môn: Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh kỹ năng: Đọc - nghe nói- viết. Bên cạnh đó thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu
hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc.

5


- Các đơn vị học: Sách giáo khoa tiếng việt lớp Ba gồm 15 đơn vị học,
mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm học trong 2 tuần( riêng chủ điểm Ngôi nhà
chung học trong 3 tuần).
- Cấu trúc của một đơn vị học: trong một tuần gồm 8 tiết: 2,5 tiết Tập đọc
0,5 tiết kể chuyện, 2 tiết chính tả, 1tiết luyện từ và câu, 1 tiết tập viết ,1 tiết tập
làm văn. Sách gồm 93 bài tập đọc, trong đó có 30 bài thơ, 63 bài văn xuôi
(truyện miêu tả, văn bản khoa học, nghị luận và văn bản thông thường),18 bài là
tác phẩm văn học nước ngoài hoặc có nội dung về người nước ngoài và người
ngoài nước.
Ngoài việc nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa thì trong dạy
học, để tổ chức các hoạt động dạy học tốt phải xác định đúng mục tiêu của phân
môn đó, của từng bài cụ thể. Xác định càng rõ ràng, đúng đắn thì tổ chức các
hoạt động sẽ tốt.
Để tổ chức các hoạt động dạy - học phân môn Tập đọc thì trước hết phải bố
trí thời gian nghiên cứu hệ thống chủ điểm trong SGK Tiếng Việt, nghiên cứu kĩ
từng tiết học, sự phân bố các bài tập đọc ở mỗi đơn vị học, phải xác định rõ vị trí
của từng bài trong chương trình, bài đó thuộc thể loại văn bản nào (Văn xuôi,
thơ, văn bản hành chính ) bài đó thuộc chủ đề gì? Bài trước đó là bài nào? Bố trí
như vậy sẽ tạo nên một số thuận lợi như: Giúp người giáo viên nắm được mục
tiêu, giọng đọc của từng bài và mức độ yêu cầu học sinh học xong bài đó đọc
với giọng như thế nào? Với bài học này học sinh thường phát âm sai tiếng nào
(Do ảnh hưởng của phương ngữ) và cần hướng dẫn học sinh luyện đọc như thế
nào cho chuẩn.

Ví dụ: Bài “ Người mẹ” là bài dạy thuộc tiết thứ ba, tuần 4, chủ đề “ Mái
ấm”- Chủ đề thứ ba của TV3 (Tập một). Chính vì thế, yêu cầu học sinh đọc
thành tiếng ở mức độ: Biết thể hiện giọng đọc như :Ở đoạn 1: Giọng đọc hồi
hộp, dồn dập thể hiện tâm trạng hoảng hốt của người mẹ khi bị mất con. Nhấn
giọng các từ ngữ: hớt hải, thiếp đi, nhanh hơn gió, chẳng bao giờ trả lại, khẩn
khoản cầu xin. Đoạn 2 và đoạn 3: Giọng thết tha thể hiện sự sẵn lòng hy sinh
của người mẹ trên đường đi tìm con. Nhấn giọng các từ ngữ: không biết, băng
tuyết bám đầy, ủ ấm, ôm ghì, đâm, nhỏ xuống ,đâm chồi nảy lộc, nở hoa
Đoạn 4: Đọc chậm rõ ràng từng câu. Giọng thần chết ngạc nhiên. Giọng người
mẹ khi nói câu“ Vì tôi là mẹ” điềm đạm khiêm tốn; Khi yêu cầu Thần Chết “
hãy trả con cho tôi ! ”- dứt khoát. Chú ý đọc các từ ngữ mới các từ dễ sai do
ảnh hưởng phương ngữ như: Hớt hải, khẩn khoản,lã chả, lạnh lẽo( SGV có thể
yêu cầu các từ khác như: thiếp đi, áo choàng, mấy đêm ròng giáo viên cần
chắt lọc từ ngữ khó đọc theo đặc điểm của địa phương lớp mình phụ trách không
nhất thiết theo SGV, biết nghỉ hơi sau dấu chấm, dấu phẩy và các cụm từ cho
hợp lý.
Nhưng tới bài “ Hũ bạc của người cha” (Tiết thứ nhất,của tuần 15 thuộc
chủ đề: Anh em một nhà) ở mức độ bài này yêu cầu học sinh ở mức độ cao hơn
đó là biết đọc phân biệt lời dẫn chuyện với các lời nhân vật (Giọng ông lão
,giọng người kể ) đọc đúng lời của nhân vật( giọng ông lão) khuyên bảo( khi đưa
6


tiền cho con ra đi tập kiếm lấy cơm ăn; nghiêm khắc ( khi vứt nắm tiền xuống
ao); cảm động (khi thấy con đã biết quý đồng tiền làm nên nhờ lao động); ân cần
trang trọng lời nói với con ở cuối truyện khi trao hũ bạc cho con. Giọng kể của
người dẫn chuyện: chậm rãi, khoan thai, hồi hồi hộp cùng với sự phát triển tình
tiết truyện.
* Nghiên cứu được mục đích, yêu cầu của từng bài dạy thì sẽ lựa chọn được
các biện pháp, hình thức tổ chức phù hợp với tiết dạy, lựa chọn được đồ dùng

nào sẽ phục vụ cho từng hoạt động trong tiết dạy.
2.3.2. Rèn luyện giọng đọc mẫu của giáo viên.
Quá trình dạy tập đọc giáo viên đọc mẫu tốt cũng góp phần đáng kể trong
việc rèn đọc cho học sinh rất nhiều. Bởi vì, các em luôn luôn lấy giọng đọc của
thầy cô giáo làm mẫu. Bởi vậy, trước giờ Tập đọc, giáo viên phải nghiên cứu nội
dung, cách đọc và tập đọc nhiều lần.
+ Có thể đọc mẫu trong các trường hợp:
- Đọc mẫu toàn bài để gây hứng thú cho học sinh.
- Đọc mẫu âm, vần, tiếng khó.
- Đọc câu, đoạn giúp học sinh nhận xét, giải thích tìm ra cách đọc.
Tùy theo từng bài mà giáo viên đọc mẫu cả bài hoặc một đoạn, nhưng trước
hết người giáo viên phải đọc đúng, ngoài ra còn phải đọc diễn cảm tốt bài văn,
bài thơ. Muốn vậy giáo viên phải rèn luyện kỹ năng đọc cho mình một cách
nghiêm túc, giáo viên phải nghiên cứu kỹ cách đọc từng bài, và luyện đọc nhiều
lần trước khi đến lớp. Luyện đọc diễn cảm sao cho mỗi bài đọc của giáo viên
xứng đáng là bài đọc mẫu cho học sinh. Để đọc mẫu tốt tôi nghĩ giáo viên phải
rèn luyện công phu cả về giọng đọc kỹ năng đọc và cảm thụ văn học. Bản thân
người đọc phải hiểu kỹ bài văn bài thơ để cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc,
tinh tế và nhờ nó sẽ tìm được giọng đọc phù hợp. Để đọc mẫu tốt bài văn cần
tiến hành như sau:
+Trước khi soạn bài giáo viên phải đọc bài nhiều lần, đọc cảm xúc của tác
giả khi viết bài văn bài thơ đó.
+Xác định sắc thái giọng đọc tùy theo đối tượng miêu tả, tính cách của từng
nhân vật trong văn bản.Tập ngắt nhịp theo đấu hiệu ngữ pháp.Tìm từ nhấn
giọng, từ thể hiện cảm xúc tâm trạng.
Ví dụ 1: Đọc bài: “Người lính dũng cảm” (TV3 - T1) giọng đọc phù hợp
với từng nhân vật như sau:
Giọng đọc người dẫn chuyện: Gọn, rõ, nhanh. Nhấn giọng tự nhiên ở những
từ ngữ : Hạ lệnh ,ngập ngừng,chui, chối tai.
Giọng viên tướng :Tự tin, ra lệnh.

Giọng chú lính nhỏ: rụt rè bối rối ở phần đầu truyện chuyển thành quả quyết
( trong lời đáp: Như vậy là hèn) ở cuối truyện.
Giọng thầy giáo: lúc nghiêm khắc, lúc dịu dàng buồn bã .
Khi đọc giáo viên cũng phải chú ý đọc đúng đến các câu mệnh lệnh.
Lời viên tướng :Vượt rào,/ bắt sống lấy nó!// - Chỉ những thằng hèn mới
chui. - Về thôi ! (mệnh lệnh, dứt khoát)
7


Lời chú lính nhỏ: Chui vào à? (Rụt rè, ngập ngừng) - Ra vườn đi! (Khẽ rụt
rè) - Nhưng như vậy là hèn (quả quyết )
Ví dụ 2 : Khi chuẩn bị dạy bài “Ai có lỗi?” (TV3-T1). Chuẩn bị cho việc dạy
bài này tôi nghĩ mình phải rèn giọng đọc cho mình như sau:
+ Đọc câu chuyện nhiều lần .
+ Nghiên cứu kỹ nắm chắc ý nghĩa câu chuyện là phải biết nhường nhịn
bạn, nghĩ tốt về bạn, dũng cảm nhận lỗi khi trót cư xử không tốt với bạn .
+ Nghiên cứu các loại sách tham khảo và sẽ xác định được giọng cần đọc.
Giọng nhân vật “tôi” ( En - ri- cô) ở đoạn 1 đọc chậm rãi, nhấn giọng các từ:
nắn nót, nguệch ra, nổi giận ,càng tức kiêu căng.
Đọc nhanh căng thẳng hơn (ở đoạn 2- hai bạn cãi nhau), nhấn giọng ở các
từ ngữ: trả thù, đẩy, hỏng hết, giận đỏ mặt. Lời Cô - rét-ti bực tức.
Trở lại chậm rãi, nhẹ nhàng (ở đoạn 3) khi En - ri-cô hối hận, thương bạn
muốn xin lỗi bạn, nhấn giọng các từ: lắng xuống, hối hận.
Ở đoạn 4 và 5: Nhấn giọng ở các từ : ngạc nhiên, gây ra, ôm chầm,…Lời
Cô - ret - ti dịu dàng. Lời của bố En - ri - cô nghiêm khắc.
Với cách xác định như vậy, việc đọc lại bài thơ nhiều lần cộng với sự
chuyển giọng linh hoạt, tôi nghĩ mình có thể tự tin hơn khi thể hiện giọng đọc
của mình trước lớp. Qua việc đọc của giáo viên sẽ giúp học sinh hứng thú học
tập và tự tin hơn khi đọc.
2.3.3 - Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh

Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần và tiếng. Đọc
đúng bao gồm: Phát âm, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ. [ 3]
* Cách thực hiện: Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thực hiện:
+ Trước khi lên lớp, giáo viên dự kiến các lỗi của học sinh trong lớp dễ mắc.
Những từ, những câu khó trong bài để luyện đọc.
Ví dụ:
- Luyện đọc đúng các tiếng có âm đầu dễ lẫn là s/x, l/n, tr/ch: sung sướng,,
sản xuất, lặng lẽ, lần lượt, lạnh lùng, len lách, loanh quanh, lúp xúp, sắc nắng,
da trắng, đêm trăng, trong vắt, chiến tranh, chiêng trống …
- Đọc đúng các tiếng có chứa vần khó đọc: khuôn, cuộn tròn, tựu trường
Lưu luyến, loanh quanh, loay hoay, khuynh hướng .
- Đọc đúng các tiếng có thanh ngã và thanh hỏi: nghĩ ngợi, quyến rủ, trỗ,
lão, rong ruổi, nẻo, vỗ, vỡ,… Phần luyện đọc này phải kết hợp luôn trong phần
đọc cá nhân.
+ Lên lớp: Khi dạy bài: “ Chú sẻ và bông hoa bằng lăng” (TV3 - T1)
Học sinh A đọc đoạn 1, học sinh B nhận xét: Phát hiện bạn đọc sai “sẻ lon,
bằng năng, lở hoa,”Giáo viên cho học sinh A đọc lại cho đúng:“sẻ non, bằng
lăng, nở hoa,” sau đó giáo viên gọi 3 đến 4 em hay mắc lỗi phát âm sai phụ âm
đầu l/ n như trên đọc lại.
+ Ngoài việc luyện cho học sinh biết cách phát âm đúng, giáo viên còn phải
chú trọng cách nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm. Đặc
8


biệt phải hướng dẫn học sinh ngắt hơi ở các cụm từ ngữ để tách ý. Có nhiều cách
để hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ đúng.
Ví dụ 1: Khi đọc bài: “ Chiếc áo len” (TV3 - T1) Học sinh đọc:
Nằm cuộn tròn trong chiếc chăn bông/ ấm áp/ Lan ân hận quá.// Em
muốn ngồi dậy xin lỗi mẹ/ và anh,/ nhưng lại xấu hổ vì mình / đã vờ ngủ.

Áp mặt xuống gối,/em mong trời mau sáng để nói với mẹ://“con không thích
chiếc áo ấy nữa./ Mẹ hãy để tiền mua chiếc áo ấm/ cho cả hai nh em”.//
+ GV giúp học sinh sửa lại bằng cách cho học sinh nhận xét: trình chiếu
câu văn đã ngắt sẵn như sau:
Nằm cuộn tròn/ trong chiếc chăn bông ấm áp,/ Lan ân hận quá.//Em
muốn ngồi dậy/ xin lỗi mẹ và anh,/ nhưng lại xấu hổ/ vì mình / đã vờ ngủ.//
Áp mặt xuống gối,/ em mong trời mau sáng/ để nói với mẹ://“con không thích
chiếc áo ấy nữa.// Mẹ hãy để tiền/ mua chiếc áo ấm/ cho cả hai anh em”.// [1]
+ Sau đó yêu cầu học sinh đọc lại để so sánh hai cách đọc cách nào đúng.
Các em đều thống nhất là đọc theo cách thứ hai mà giáo viên đã trình chiếu
sẵn câu văn trên màn hình .
Rồi yêu cầu học sinh đọc lại với giọng nhẹ nhàng, ngắt đúng nhấn giọng
ở các từ in đậm. Đặc biệt câu nói của Lan khi học sinh thể hiện sự ân hận, có
như vậy mới biểu đạt được trạng thái cảm xúc của tác giả
Ví dụ 2: Trong bài: “ Giọng quê hương ” (TV3 - T1).
Học sinh đọc như sau: Mẹ tôi/ là người miền trung….//Bà đã qua đời đã
hơn tám mươi năm rồi.//
- Giáo viên đọc lại câu văn và yêu cầu học sinh lắng nghe, phát hiện chỗ cô
giáo ngắt giọng: Mẹ tôi là người miền trung..// Bà đã qua đời/ đã hơn tám mươi
năm rồi.//
Sau đó giáo viên yêu cầu 3 em đọc lại câu văn trên. Từ đó giúp học sinh
phát hiện và ngắt nghỉ đúng .
Ví dụ 3: Đối với câu:“Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy
nảy trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng’’
( Nhớ lại buổi đầu đi học TV3 – T1).
- Giáo viên treo bảng phụ viết sẵn câu văn yêu cầu một học sinh giỏi lên
bảng đánh dấu chỗ ngắt nghỉ và đọc để các bạn trong lớp nhận xét, thống nhất
cách đọc đúng như sau:“Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy
nảy trong lòng tôi/ như mấy cánh hoa tươi/ mỉm cười giữa bầu trời quang
đãng.//

Đối với những bài thơ, GV hướng dẫn HS ngắt nghỉ cần đúng với nhịp thơ.
Ví dụ 4: -Với bài Quê hương, nhịp thơ phổ biến là 2/4 và 4/2. Giáo viên kết
hợp nhắc nhở các em ngắt nghỉ hơi đúng, tự nhiên và thể hiện tình cảm qua
giọng đọc.
Quê hương/ là con diều biếc /
Tuổi thơ/ con thả trên đồng/
Quê hương là con đò nhỏ/
Êm đềm khua nước /ven sông.//
Quê hương/ nếu ai không nhớ/
Sẽ không lớn nỗi/ thành người.//
(Quê hương TV3-T1)
9


- Với bài: Nhà bố ở, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc thể hiện tâm
trạng ngạc nhiên, ngỡ ngàng của bạn nhỏ ở miền núi lần đầu tiên về
thăm bố ở thành phố. Giọng đoc thong thả, chậm rãi theo bước chân của
Páo (khổ 1); ngạc nhiên, háo hức (các khổ thơ 2,3,4), tha thiết tình cảm
nhớ quê nhà khổ thơ cuối. Với khổ thơ :
- Con đường sao mà rộng thế /
Sông sâu/ chẳng lội được qua /
Người,/ xe / đi như gió thổi /
Ngước lên /mới thấy mái nhà.//
Khổ thơ trên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ hơi đúng giữa các
dòng. Với những bài thơ có thể thơ tự do, giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý
tới vần nhịp để ngắt nghỉ đúng và nhấn giọn một số từ ngữ:
“ Chim đừng hót nữa,//
Chín lặng trong vườn,/
Bà em ốm rồi./
Bà mơ tay cháu/

Lặng/ cho bà ngủ//
Quạt /đầy hương thơm.//”
Hoa cam,/ hoa khế
(Quạt cho bà ngủ TV3-T1)
Như vậy, từ một số biện pháp trên giáo viên đã giúp học sinh dần dần có ý
thức tìm hiểu giọng đọc, cách đọc đúng và tự tin hơn khi đọc.
2.3.4- Hướng dẫn tốc độ đọc cho học sinh
Như chúng ta đã biết, đối với học sinh Tiểu học đọc lưu loát là nói đến phẩm
chất đọc về mặt tốc độ, đọc không ê a, ngắc ngứ. Tốc độ đọc nhanh chỉ thực
hiện khi đã đọc đúng, khi đọc phải chú ý xác định tốc độ để cho người nghe hiểu
kịp được. Nhưng đọc nhanh ở đây không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ đọc
thành tiếng của lớp Ba yêu cầu tối thiểu là 70 tiếng / phút.
+ Cách thực hiện:
- Hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách giáo viên đọc mẫu hoặc
chọn học sinh đã đọc tốc độ chuẩn đọc mẫu để tất cả học sinh đọc thầm theo.
Ngoài ra, dùng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của
giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ.
Ví dụ: Khi học sinh đọc cá nhân toàn bài hoặc một khổ thơ, một đoạn văn
giáo viên đều nhắc cả lớp đọc thầm theo.
- Giáo viên còn gây hứng thú cho học sinh bằng những trò chơi như: Thi đọc
tiếp sức, đọc thơ truyền điện,… Kết thúc chơi bao giờ giáo viên cũng cho học
sinh chọn và tuyên dương nhóm đọc đúng nhất, nhanh nhất, giỏi nhất và gợi ý
rút kinh nghiệm về cách đọc. Mặt khác muốn học sinh đọc lưu loát, đúng tốc độ
cần có sự chuẩn bị bài ở nhà tốt, học sinh phải được đọc trước nhiều lần. Em nào
đọc còn chậm giáo viên giúp học sinh đọc tốt hơn.
2.3.5- Rèn cho học sinh đọc có ý thức (đọc hiểu).
Để giúp học sinh đọc cảm nhận văn bản, hiểu văn bản thì trong giờ Tập đọc
giáo viên phải chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu cho học sinh. Đó là vấn đề cần
thiết, quan trọng đối với học sinh lớp 3. Có hiểu nội dung bài văn, bài thơ thì
10



mới có cách đọc đúng, đọc hay được.Việc luyện đọc hiểu thường được thực hiện
trong bước đọc thầm.
Sự thực đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc
thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn để tiếp nhận, thông hiểu nội
dung văn bản vì người ta không phải chú ý đến việc phát âm, chỉ tập trung để
hiểu nội dung điều mình đọc. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng
thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý
thức đọc hiểu. Kết quả đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ,
câu, đoạn, bài tức là toàn bộ những gì mà các em đọc được.
+ Cách thực hiện: - Kết hợp chặt chẽ việc tìm hiểu bài với việc luyện đọc. Giáo
viên cho học sinh đọc đến đâu tìm hiểu bài đến đó. Không tách rời hai khâu tìm
hiểu bài và rèn đọc.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Quê hương ” (TV3-T1) của nhà thơ Đỗ Trung Quân.
Sau khi cho học sinh đọc thầm 3 khổ thơ đầu bài thơ, giáo viên cho học sinh tìm
hiểu nội dung: Nêu những hình ảnh gắn liền với quê hương ? Qua việc học sinh
đọc thành tiếng cả lớp đọc thầm theo các em mới cảm nhận được hình ảnh gắn
liền với quê hương đó là: (Chùm khế ngọt, đường đi học rợp bướm vàng bay,
con diều biếc thả trên cánh đồng, con đò nhỏ khua nước ven sông, cầu tre nhỏ,
nón lá nghiêng che, đêm trăng tỏ, hoa cau rụng trắng ngoài hè).
Tiếp đó, giáo viên yêu đọc thầm toàn bộ bài thơ để các em cảm nhận được
đó là nơi ta được sinh ra, được nuôi dưỡng lớn khôn, giống như người mẹ đã
sinh thành và nuôi dưỡng ta.
Quê hương mỗi người chỉ một
Quê hương nếu ai không nhớ
Như là chỉ một mẹ thôi
Sẽ không lớn nỗi thành người.
Như vậy từ việc đọc văn bản các em mới hiểu được nội dung của văn bản và
ngược lại có hiểu được nội dung của văn bản thì các em mới đọc đúng, đọc hay.

- Trong mỗi giờ tập đọc tôi yêu cầu giáo viên cho HS đọc thành tiếng kết
hợp với đọc thầm nhiều lần. Đồng thời tôi giao nhiệm vụ cho HS trong khi đọc
thầm để kiểm tra kỹ năng đọc hiểu.
+ Đọc thầm lần 1: Kết hợp khi đọc nối tiếp từng đoạn.
+ Đọc thầm lần 2: Kết hợp khi 1 bạn đọc cả bài.
+ Đọc thầm lần 3: Khi giáo viên đọc diễn cảm. (lần 2)
+ Lần 4 đọc thầm kết hợp với thành tiếng khi tìm hiểu bài.
+ Lần 5 đọc thầm kết hợp với khi luyện đọc lại.
Như vậy việc đọc thầm kết hợp với việc đọc cá nhân thành tiếng được
luyện nhiều lần, kết hợp nhuần nhuyễn trong một tiết học Tập đọc. Hoạt động
“Tìm hiểu bài” có kết hợp luyện đọc đoạn bài. Các hoạt động được tổ chức diễn
ra một cách nhẹ nhàng, các hoạt động được lồng ghép vào nhau hỗ trợ cho nhau.
- Để giúp học sinh đọc hiểu tốt, giáo viên chuẩn bị hệ thống câu hỏi bổ sung,
thêm một vài câu hỏi ở trong sách giáo khoa phù hợp với từng bài học để học
sinh nêu được nội dung, nghệ thuật từng bài.
Ví dụ: Khi tìm hiểu bài “Con cò” (TV3-T1), giáo viên đặt các câu hỏi sau:
11


Em hãy đọc thầm bài văn, tìm những chi tiết nói về con cò bay trong khung
cảnh thiên nhiên như thế nào? (Con cò bay trong một buổi chiều rất đẹp yên
tĩnh: cánh đồng phẳng lặng, bát ngát xanh; Tìm những chi tiết nói lên dáng vẻ
thong thả, nhẹ nhàng của con cò? (....).Em cần làm gì để giũ mãi cảnh đẹp được
tả trong bài? (....) Thông qua 3 câu hỏi tìm hiểu bài học sinh có thể cảm nhận
được bức tranh đồng quê Việt Nam rất đẹp và thanh bình. Con người cũng phải
biết giữ gìn cảnh đẹp thanh bình ấy. Ngoài việc đọc thầm để hiểu và cảm được
nội dung các câu hỏi trong bài giáo viên cũng cần phải giúp học sinh hiểu các từ
mới thông qua cách luyện đọc và tìm hiểu bài.
Hoặc đối với bài : “Bài hát trồng cây” ( TV3 – T2)
Ai trồng cây

Ai trồng cây
Người đó có tiếng hát
Người đó có ngọn gió
Trên vòm cây
Rung cành cây
Chim hót lời mê say.
Hoa lá đùa lay lay.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm và phát hiện ra các từ ngữ được lập lại
trong bài thơ.Việc lập lại từ ngữ đó như một điệp khúc trong bài nhấn mạnh ý
mọi người hãy hăng hái trồng cây. Đó là giá trị của biện pháp nghệ thuật.
Như vậy tất cả những cách thực hiện trên nhằm giúp học sinh hiểu nội dung
nghệ thuật của văn bản để có cách đọc đúng vươn tới mức độ cao hơn đó là đọc
hay.
Ví dụ :bài “ Nhà rông ở tây nguyên” (TV3-T1) Hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa
một số từ mới xen kẽ các hoạt động, ngay phần giới thiệu bài đã giúp học sinh
hiểu nghĩa“ Nhà rông”. Trong phần tổ chức đọc đoạn, cần đề cập tới 2 từ khó đó
là: “rông chiêng”, “nông cụ”, các từ còn lại chuyển sang hoạt động“Tìm hiểu
bài”. Cụ thể:
+ Hoạt động tìm hiểu bài, tổ chức học sinh dựa vào hệ thống câu hỏi SGK và
bổ sung thêm ý nhằm giúp học sinh phát hiện rõ và minh bạch trong câu trả lời
sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, học sinh tìm hiểu nội dung bài qua các
hình thức như: Thảo luận, phiếu học tập, trò chơi...
+ Ngoài ra chụp một số hình ảnh Nhà rông trình lên màn hình cho học sinh
được biết, hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa từ bằng trực quan cụ thể, giúp học
sinh hiểu nghĩa từ:“nhà rông’’

12


( Ảnh nhà rông ở Tây nguyên)


Qua bức tranh sinh động được giáo viên trình chiếu ở trên giúp học sinh
không những hiểu về từ ngữ mà còn giúp học sinh rõ được hình ảnh“Nhà
rông”. Rõ ràng học sinh phải động não và nói bằng lời của mình, thông qua đó,
Học sinh biết được một kiểu nhà của các dân tộc, nhà rông là nhà công cộng của
buôn làng. Nhà rông có đặc điểm riêng biệt so với các loại nhà mà các em
thường thấy .
Ví dụ: Khi học bài: “Ngày hội rừng xanh” ( TV3 - T2) có các câu thơ:
“Tre /trúc/ thổi nhạc sáo /
Cây/ rủ nhau thay áo /
Khe suối /gảy nhạc đàn/
Khoác bao màu tươi non .//”
Tôi hướng dẫn học sinh tìm và phát hiện cách sử dụng từ ngữ của tác giả, ở
đây không đơn thuần tác giả dùng từ tả hoạt động của sự vật và con vật mà đã sử
dụng biện pháp nhân hóa làm cho cây cối cũng thay áo, cũng đàn sáo như con
người để thể hiện sự sinh động đáng yêu của các con vật trong ngày hội ở rừng
xanh. Đó là giá trị của biện pháp nghệ thuật.
Như vậy, tất cả những cách thực hiện trên nhằm giúp cho học sinh hiểu nội
dung, nghệ thuật của văn bản để có cách đọc đúng và vươn tới mức độ cao hơn
đó là đọc hay đọc (diễn cảm).
2.3.6 - Rèn kỹ năng đọc hay cho học sinh:
Đọc hay(diễn cảm) là một yêu cầu đặt ra khi đọc những câu văn hoặc các
yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm chủ ngữ
điệu, chỗ ngừng, nghỉ, cường độ…để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác
giả đã gửi gắm trong bài đọc. Đồng thời thể hiện được sự thông hiểu, cảm thụ
của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ
cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát. [ 4]
* Cách tiến hành: Tôi đã thực hiện qua các bước:
13



Bước 1: Nội dung của bài đọc đã quy định ngữ điệu của nó nên tôi yêu cầu
học sinh không bao giờ áp đặt sẵn giọng đọc của mỗi bài mà tôi khuyến khích
các em tự tìm hiểu và nêu cách đọc và đọc trên cơ sở hiểu từ, hiểu nghĩa. Giáo
viên chỉ là người lắng nghe, sửa cách đọc cho từng học sinh. Giáo viên nên
khuyến khích, động viên học sinh cố gắng đọc diễn cảm dưới nhiều hình thức
khác nhau để tạo sự hứng thú trong giờ học.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Con cò ” (TV3 - T2).
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc nối tiếp và tự phát hiện ra giọng đọc phù hợp
của bài văn: Toàn bài đọc với giọng tả nhẹ nhàng, có nhịp điệu đọc nhấn giọng
những từ ngữ gợi tả, gợi cảm, làm nổi bật hình ảnh duyên dáng của con cò.
Con cò bay là là ,rồi nhẹ nhàng đặt chân lên mặt đất, dễ dãi tự nhiên như
mọi hoạt động của tạo hóa. Nó thong thả đi trên doi đất. Rồi nó lại cất cánh,
bay nhẹ như chẳng ngờ, không gây một tiếng động trong không khí [1] . Hay bài
Trên đường mòn Hồ Chí Minh’’ tôi hướng dẫn học sinh theo cánh đọc như:
Khuyến khích học sinh đưa ra phương án đọc. Rồi sau đó giáo viên chốt phương
án đúng và cho học sinh luyện.
“ Đoàn quân đột ngột chuyển mạnh. //Những rặm rừng đỏ lên vì bom
Mỹ.//Những rặm rừng xám đi vì chất đọc hóa học Mỹ // Những rặm rừng đen
lại,/ cây cháy thành than chọc lên nền trời mây..//Tất cả, /tất cả/ lướt qua rất
nhanh..// [1] Đọc với giọng đau xót căm thù: Nhấn giọng các từ ngữ tố cáo tội ác
chiến tranh hủy diệt của giặc Mỹ
Cứ cuối mỗi giờ tập đọc, giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn văn (hoặc
khổ thơ) mà em thích và nói lên lí do vì sao mình lại thích đoạn văn, khổ thơ đó.
Hoặc tổ chức thi đọc hay, đọc phân vai (Đối với các tác phẩm có nhiều lời hội
thoại như bài: “ Nhà bác học và bà cụ”, hay bài “Ở lại với chiến khu”
(TV3-T2).
Bởi thế mà trong giờ Tập đọc của lớp 3B (tôi áp dụng dạy thực nghiệm) các
em rất thích tham gia đọc và tiến tới đọc hay.
Bước2: Đọc hay chỉ có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc hay yêu cầu

đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm… phù hợp với từng ý cơ bản
của bài đọc, với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở từ ngữ
biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. Để đọc hay người đọc phải
làm chủ được chỗ ngắt giọng làm chủ được tốc độ đọc, làm chủ được cường độ
và ngữ điệu. Vì vậy, ở mỗi bài tập đọc giáo viên cần quan tâm hướng dẫn học
sinh phát hiện cách đọc hay, qua ý đồ nghệ thuật, bằng cách tự các em tìm tòi,
khám phá và tranh luận.
Ví dụ: Bài“Anh đom đóm” (TV 3- T1). Các em đã ngắt nhịp và nhấn giọng
như sau:
“Mặt trời gác chú /
Đi suốt một đêm /
Bóng tối tan dần,/
Lo cho người ngủ...//
Anh Đóm chuyên cần/
Từng bước /từng bước /
Lên đèn đi gác.//
Vung ngọn đèn lồng /
Theo đàn gió mát /
Anh đóm quay vòng/
14


Đóm đi rất êm,/
Như sao bừng nở ...”
Qua cách đọc ngắt nhịp và nhấn giọng như thế giúp các em cảm nhận
được Bài thơ “Anh Đom đóm” thuộc thể thơ 4 chữ mang âm hưởng của một bài
đồng giao vui nhộn tươi mát hồn nhiên, khi đọc học sinh cần thể hiện âm điệu
của một bài ca tuổi thơ nhí nhảnh, tình cảm đối với cuộc sống của loài vật ở làng
quê về ban đêm rất đẹp và sinh động. Nếu đoạn thơ có nhiều ý hóm hỉnh, vui vẻ
cần đọc nhấn giọng ở một số từ ngữ kèm theo cử chỉ, nét mặt để thể hiện săc

thái đó. Thể tự do học sinh phát hiện nhịp đọc là rất khó. Bởi vậy giáo viên cần
hướng dẫn cụ thể cho học sinh
Hoặc trong bài thơ “Mặt trời xanh của tôi” ( TV3 - T2)
Rừng cọ ơi! /Rừng cọ!/
Tôi yêu thường vẫn gọi /
Lá đẹp /lá ngời ngời
Mặt trời xanh của tôi.//
Với cách đọc như thế học sinh có thể cảm nhận được tình cảm của tác giả
đối với rừng cọ của quê hương. Tác giả trò chuyện với rừng cọ như trò chuyện
với người thân (Rừng cọ ơi! Rừng cọ!) Tả những chiếc lá cọ vừa đẹp vừa ngời
ngời sức sống. Hình ảnh “Mặt trời xanh của tôi” đã bọc lộ rõ tình cảm yêu mến
và tự hào của tác giả về rừng cọ của quê hương.
Hay: Trong bài : “ Bàn tay cô giáo” (TV3-T2). Có câu thơ:
Chiếc thuyền xinh quá ! Đây là câu cảm giáo viên cần hướng dẫn các em
giọng đọc bất ngờ, nhấn giọng ở từ “xinh quá!” thể hiện sự thán phục.
Mặt khác, thể hiện giọng đọc phù hợp với nhân vật cũng là bước thành
công trong quá trình đọc hay. Các loại hình văn bản trong các bài tập đọc lớp Ba
là thơ, văn bản xã hội khoa học, văn bản khoa học tự nhiên, truyện kể, kịch.
Trong đó truyện kể và kịch thường xuất hiện nhiều nhân vật. Chính vì vậy để
nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp Ba, điều không thể xem nhẹ là luyện
đọc cho hoc sinh có giọng đọc phù hợp vớ từng nhân vật.
Ví dụ: Đọc bài: “ Ở lại với chiến khu” (TV3 - T2)
+Giọng xúc động, thể hiện thái độ sẵn sàng, chịu đựng gian khổ, kiên quyết
sống chết cùng chiến khu của các chiến sĩ nhỏ tuổi
+Giọng đau xót căm thù :Những dặm rừng đỏ lên vì bom Mỹ.// Những dặm
rừng xám đi vì chất độc hóa học Mỹ”.(Trên đường Hồ Chí Minh)
+Giọng chậm rãi khoan thai: “Thì ra/ hai pho tượng ấy nặn bằng bột chè
lam.//” (Ông tổ nghề thêu)
+Giọng phấn chấn của bà cụ: “Thế nào già cũng đến...Nhưng ông phải làm
nhanh lên nhé, kẽo tuổi già chẳng được bao lâu đâu.” (Nhà bác học và cụ già)

+Giọng âu yếm ân cần của ngựa Cha: “con trai à,/ con phải đến bác thợ rèn để
xem lại bộ móng. //Nó cần thiết cho cuộc đua / hơn là bộ đồ đẹp.//
+Giọng tự tin chủ quan của ngựa Con“Cha yên tâm đi. //Móng của con chắc
chắn lắm. //Con nhất định sẽ thắng mà! // (Cuộc chạy đua ở trong rừng)
+Giọng thể hiện cảm xúc lưu luyến: “Đã đến lúc chia tay./ Dưới làn tuyết bay
mù mịt,/các em vẫn đứng vẫy tay chào lưu luyến,/cho đến khi xe của chúng tôi /
khuất hẳn trong dòng người/ và xe cộ tấp nập/ của thành phố châu Âu hoa lệ,/
mến khách.” //(Gặp gỡ ở lúc Xăm – Bua)
15


+Giọng hoảng hốt vội vã: “Chàng hoảng hốt,/ chạy tới khóm lau nằm trên bãi,/
nằm xuống,/ bới cát phủ lên mình để ẩn trốn.// (Sự tích lễ hội Chữ Đồng Tử)
Như vậy để hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng giọng nhân vật, giáo viên
phải giúp các em tìm hiểu bài tốt để nắm được đặc điểm, tính cách nhân vật. Từ
đó luyện cho các em có giọng đọc tốt, phù hợp với từng nhân vật, thay đổi và
đan xen cách đọc để tạo không khí sinh động hào hứng cho giờ học.
2.3.7- Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng :
Chúng ta biết rằng, vốn sống, vốn hiểu biết, vốn từ ngữ của học sinh tiểu
học còn hạn chế. Các bài Tập đọc mà học sinh được học có tác dụng mở rộng
tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên và đời sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và
nhân cách cho học sinh.Việc sử dụng đồ dùng trực quan sẽ có tác dụng minh họa
cho lời giới thiệu, lời giảng, giải thích cho học sinh các nội dung khi tìm hiểu bài
trong phân môn Tập đọc. Không những các bài tập đọc là truyện kể hoặc kịch,
hay các văn bản thơ, văn bản khoa học, văn bản miêu tả, đều rất cần đến tranh
ảnh minh họa, học sinh sẽ hứng thú hơn và hiểu, cảm thụ bài tập đọc nhanh hơn,
tốt hơn. Tuy nhiên trong khi dạy Tập đọc tùy vào nội dung từng bài mà giáo viên
lựa chọn hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp, lựa chọn việc sử dụng đồ dùng
dạy học để hiệu quả giờ dạy cao hơn. Để giúp học sinh hiểu bài và gây hứng thú
khi học, giáo viên cần lựa chọn việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ lên

lớp. Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc: Cửa Tùng (TV3- T1)
+ Giới thiệu bài: GV trình chiếu toàn cảnh hình ảnh Cửa Tùngvà giới thiệu:

(Đây là hình ảnh Cửa Tùng một Cửa biển đẹp nhất của miền Trung nước ta.
Bài tập đọc Cửa Tùng sẽ giúp các em thấy được vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên).
Lôi cuốn các em về nội dung bài tập đọc.
+ Khi tìm hiểu bài: Sắc màu nước biển của Cửa Tùng có gì đẹp?(Thay đổi ba
lần trong ngày): “Bình minh mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống
mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa nước biển xanh lơ, và khi
chiều tà thì đổi sang màu xanh lục.”Giáo viên trình chiếu hình ảnh mà học sinh
nêu trên để minh họa. Hình ảnh “nét đặc biệt của sắc màu nước biển Cửa
Tùng” được minh họa:

16


Hình ảnh nước biển lúc bình minh

Hình ảnh nước biển ban trưa

Hình ảnh nước biển lúc chiều tà
Hoặc khi tìm hiểu đến câu hỏi: Người xưa so sánh bãi biển Cửa Tùng
với cái gì ? (Người xưa so sánh bãi biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược
đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển)
Giáo viên trình chiếu hình ảnh mà học sinh nêu trên để minh họa .Hình
ảnh con Đồi mồi và chiếc trâm bằng kim loại màu bạch kim.( đồi mồi: Một loại
rùa biển, mai có vân đẹp; Bạch kim: Kim loại quý, màu trắng). Qua cách quan
sát học sinh cảm nhận được chiếc lược đồi mồi đẹp và quý giá cài trên mái tóc
bạch kim của sóng biển. Hình ảnh so sánh trên làm tăng thêm vẻ đẹp duyên
dáng hấp dẫn của Cửa Tùng.

17


Đồi Mồi
Bạch kim
Từ việc quan sát hình ảnh học sinh cảm nhận được nét riêng biệt mà chỉ ở cửa
Tùng mới có. Qua đó giúp học sinh thấy được vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên
càng yêu thiên nhiên hơn và cảm thụ tốt bài tập đọc).
Như vậy áp dụng công nghệ thông tin vào dạy tập đọc sẽ giúp cho học giáo
viên minh họa được những hình ảnh mà mình giới thiệu, lời giảng, giải thích
thích cho học sinh một cách dễ dàng hơn, vừa cụ thể, sinh động, thực tế mà
không mất nhiều công sức, không tốn kém về kinh tế… Học sinh hứng thú, thu
hút vào bài một cách nhẹ nhàng hơn và cảm nhận được tình cảm đối với bài thơ,
bài văn, câu truyện, kịch hay văn bản khoa học … từ đó mà thể hiện giọng đọc
hay hơn và đọc diễn cảm tốt hơn.
2.3.8- Đổi mới cách đánh giá học sinh và hình thức xây dựng đề kiểm tra
định kỳ phân môn Tập đọc theo Thông tư 22:
+Đổi mới cách đánh giá:
Đánh giá bao gồm tất cả các cách thức giáo viên thu thập và sử dụng các
loại thông tin định tính định lượng thu thập được trong quá trình giảng dạy trên
lớp học nhằm đưa ra phán xét, nhận định, quyết định. Các thông tin này cũng
chính học sinh sử dụng để cải tiến việc học tập, đồng thời giúp giáo viên hiểu
học trò mạnh điểm gì, yếu điểm gì để lập kế hoạch giảng dạy và điều chỉnh việc
giảng dạy. [ 5]
Để giúp các em có được tình cảm, xúc cảm, mỗi khi đọc một bài tập đọc,
hay có niềm tin khi đứng lên đọc bài thì giáo viên dùng lời nói của mình nhận
xét phát hiện ra lỗi và sửa lỗi của mình khi đọc bài đọc hoặc giáo viên giúp học
sinh tự đánh giá phát hiện ra lỗi của mình hay nhận xét cách đọc cách trả lời câu
hỏi của bạn để điều chỉnh theo yêu cầu khuyến khích kịp thời học sinh đọc hay .
Ví dụ : Khi dạy bài: “Hai Bà Trưng” (TV3-T2) Khi học sinh tìm hiểu câu hỏi:

Hãy tìm những chi tiết nói lên khí thế của đoàn quân khởi nghĩa? Nên cho học
sinh thảo luận nhóm đôi về câuhỏi này. Học sinh được khuyến khích nói ra
những suy nghĩ của cá nhân từ đó, quá trình nói ra đó giáo viên biết được những
suy nghĩ đúng sai. Hay học sinh được nhận xét, thảo luận tranh luận về các ý
nghĩ, giúp các em phát huy tối đa sự sáng tạo trong ý tưởng. Trên cơ sở đó giáo
viên biết từng học sinh trong lớp đang nghĩ gì.Từ việc làm trên giáo viên có thể
18


biết được học sinh hoạt động thế nào tích cực đến đâu? Đây cũng chính là cách
thức đánh giá dạy học.
+ Đổi mới hình thức xây dựng đề kiểm tra định kỳ:
Như chúng ta biết đổi mới kiểm tra đánh giá là khâu đột phá nhằm thúc đảy
các quá trình khác như đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách thức tổ chức
hoạt động dạy học, đổi mới quản lý. Nếu thực hiện được việc kiểm tra đánh giá
theo hướng vì sự tiến bộ của người học, như là quá trình thúc đẩy học tập bền
vững, giúp phát triển năng lực người học, thì lúc đó quá trình dạy học trở nên
tích cực hơn nhiều. Đánh giá bao gồm tất cả các cách thức giáo viên thu thập và
sử dụng các loại thông tin định tính định lượng thu thập được trong quá trình
giảng dạy trên lớp học nhằm đưa ra phán xét, nhận định, quyết định. Các thông
tin này cũng chính học sinh sử dụng để cải tiến việc học tập, đồng thời giúp giáo
viên hiểu học trò về những điểm mạnh điểm yếu để lập kế hoạch giảng dạy và
điều chỉnh việc giảng dạy.
Theo Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 về việc ra đề kiểm tra
cho học sinh chỉ ở các mức độ sau: Học sinh nhận biết hoặc nhớ nhắc lại kiến
thức đã học; Học sinh biết nối, sắp xếp lại các kiến thức kỹ năng đã học để giải
quyết các tình huống tương tự tình huống vấn đề đã học; Học sinh biết vận dụng
giải quyết vấn đề mới.
Đối với Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016: Thì việc
ra đề kiểm tra cho học sinh phải ở các mức độ sau:

Học sinh nhận biết hoặc nhớ nhắc lại kiến thức đã học; Hiểu kiến thức kỹ
năng đã học, trình bày giải thích kiến thức theo cách hiểu của cá nhân; Vận dụng
kiến thức kỹ năng để để giải quyết những vấn đề quen thuộc, tương tự trong học
tập cuộc sống; Vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề mới hoặc đưa
ra những vấn đề phản hồi hợp lý trong học tập trong cuộc sống một cách linh
hoạt.
Xuất phát từ những điểm mới của Thông tư 22/BGD&ĐT để nâng cao chất
lượng dạy học môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập đọc giáo viên cần triệt
để việc áp dụng Thông tư 22 về đổi mới hình thức xây dựng đề kiểm tra định kỳ
để nâng cao chất lượng dạy và học
Ví dụ: Đề kiểm tra môn tiếng việt cuối năm. ( Phần Phụ Lục) [ 5]
Như vậy từ cách đổi mới đánh giá học sinh đến đổi mới hình thức xây
dựng đề kiểm tra định kỳ sẽ giúp cho giáo viên thiết lập được một môi trường
tương tác giúp học sinh học tập tiến bộ hơn.
2.4- Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong một khoảng thời gian không dài, với các biện pháp nêu trên, tôi thấy
kết quả khả quan, hiệu quả giờ dạy của giáo viên được nâng lên rõ rệt. Học sinh
hứng thú học tập tích cực hơn, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài. Số em
đọc chưa đạt yêu cầu không còn nữa. Số em đọc đúng, đọc hay và hiểu văn bản
được tăng lên rất nhiều so với đầu năm. Qua việc đánh giá từ những tiết tập đọc
trên lớp, kết quả phân môn tập đọc của lớp 3B do tôi trực tiếp thực nghiệm
giảng dạy đã đạt được như sau:
19


Lớp Sĩ số

Chất lượng, mức độ đọc

HTT

SL TL
30
100
25 83.3

HT
SL
30
29

TL
100
96.6

Đọc đúng tiếng, từ
3B
30 Đọc vừa đủ nghe, rõ ràng, tốc độ
đọc đạt yêu cầu
Ngắt nghỉ hơi đúng
24 80.0
29
96.6
Đọc hiểu
23 76.6
26
86.6
Đọc hay
19 63.3
25
83.3

Kết quả trên cho thấy, những biện pháp mà tôi đã áp dụng trong quá trình
rèn đọc cho học sinh trong giờ Tập đọc lớp 3 phần nào có giá trị ứng dụng trong
thực tế. Để việc rèn đọc cho học sinh đạt kết quả cao, giáo viên phải biết kết hợp
các biện pháp và sử dụng có hiệu quả, có hệ thống kế hoạch đã vạch ra.
Từ kết quả thực nghiệm trên, tôi tiếp tục chỉ đạo nhân rộng các biện pháp
trên ở phân môn Tập đọc khối 3 trong thời gian tiếp theo để nâng cao chất lượng
đọc trong toàn trường.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1- Kết luận
Qua thực tế rèn đọc cho học sinh lớp Ba,tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Người giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, vốn ngôn ngữ văn
học phong phú,vốn sống thực tế và đặc biệt là phải luyện cho mình có giọng đọc
hay, truyền cảm.
- Coi trọng việc đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm của học sinh.Trong giờ Tập
đọc không biến giờ Tập đọc thành tiết giảng văn mà chú ý rèn đọc cho học sinh,
tạo cho các em tính tự tin và ý thức rèn đọc. Coi trọng khâu đọc hiểu và đọc diễn
cảm. Không cảm thụ hộ học sinh, không áp đặt cách đọc, giọng đọc mà các em
tự tìm ra cái hay, cái đẹp trong từng văn bản, tự các em tìm ra cách đọc hay nhất
phù hợp với nội dung từng bài.
- Giáo viên tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc khi dạy học, không cảm thụ hộ
học sinh, không bắt buộc học sinh đọc một cách đọc mà giáo viên đưa ra. Ngoài
ra giáo viên còn giúp học sinh khơi gợi cảm xúc, ý tưởng độc đáo của các em để
các em tự tìm ra cách đọc.
- Người giáo viên phải hết sức coi trọng hoạt động dạy học của học sinh tập
trung hướng vào người học, phát huy tính tích cực của học sinh. Giáo viên có
nghệ thuật sư phạm để hướng dẫn mỗi cá nhân học sinh chiếm lĩnh tri thức.
- Không tỏ thái độ nôn nóng, cáu gắt mà luôn tạo ra không khí vui tươi thoải
mái trong tiết học để các em thấy rằng đó là một “sân chơi” bổ ích và lý thú chứ
không phải là giờ học căng thẳng.

- Giáo viên phải triệt để sử dụng đồ dùng trực quan hỗ trợ cho việc tìm hiểu
bài, tổ chức các hình thức học tập linh hoạt, sáng tạo.
20


3.2- Kiến nghị:
+ Phòng GD& ĐT nên tổ chức thường xuyên những hội thảo chuyên đề đi sâu
vào từng phân môn.
+ Các cụm trường: Tổ chức chuyên đề để tạo điều kiện cho giáo viên được
thực hành dạy và học hỏi, nâng cao tay nghề.
Trên đây là những giải pháp của bản thân trong quá trình“ Rèn đọc cho học
sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn tập đọc ở lớp Ba.” Tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn đồng nghiệp để đề
tài được hoàn chỉnh hơn, các giải pháp trên mang tính khả thi hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Hậu Lộc, ngày 15 tháng 3 năm 2017
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác..
Người thực hiện

Nguyễn Thị Tuyết
PHẦN PHỤ LỤC
ĐỀ KIỂM TRA MÔN TIẾNG VIỆT CUỐI NĂM LỚP 3
A. KIỂM TRA ĐỌC:
1. Kiểm tra đọc hiểu và kiến thức Tiếng Việt (Thời gian: 35 phút)
- Đọc thầm :
ĐÊM TRĂNG ĐẸP

Ngày chưa tắt hẳn, trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn to và đỏ từ từ lên ở chân
trời, sau rặng tre đen của làng xa. Mấy sợi mây con vắt ngang qua mỗi lúc một
mảnh dần rồi đứt hẳn. Trên quãng đồng rộng, cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại,thoang
thoảng mùi hương thơm mát.
Sau tiếng chuông của ngôi chùa cổ một lúc lâu, trăng đã nhô lên khỏi rặng
tre. Trời bây giờ trong vắt, thăm thẳm và cao. Mặt trăng đã nhỏ lại, sáng vằng
vặc ở trên không và du du như sáo diều. Ánh trăng trong chảy khắp nhành cây
kẽ lá, tràn ngập con đường trắng xóa. Bức tường hoa giữa vườn sáng trắng lên,
lá lựu dày và nhỏ, nhấp nhánh như thủy tinh. Một cành cây cong xuống rồi bổng
lên, lá rung động và lấp lánh ánh trăng như ánh nước.
Theo THẠCH LAM

Khoanh tròn chữ cái trước ý trả lời đúng cho từng câu hỏi dưới đây:
1.Bài văn tả trăng lên vào lúc nào?(M1 – 0,5)
A.Vào lúc ngày vừa tắt hẳn.
B.Vào lúc ngày tắt đã lâu.
C.Vào lúc ngày chưa tắt hẳn.
2.Trăng mới mọc có hình dáng và đặc điểm ra sao? (M1 – 0,5)
21


A.Tròn to và đỏ, lên từ từ ở chân trời.
B.Tròn to và đỏ, lên nhanh ở chân trời.
A.Tròn to và đỏ, lên cao ở chân trời.
3.Khi trăng đã lên cao, bầu trời có gì nổi bật? (M1 – 0,5)
A.Trong vắt, rộng thêm ra.
B.Trong vắt, cao thăm thẳm.
C.Sáng vằng vặc, trong vắt.
4.Để tả cảnh đêm trăng đẹp, tác giả đã dùng những giác quan nào? (M2 - 0,5)
A.Mắt (nhìn), tai (nghe), lưỡi (nếm).

B.Mắt (nhìn), tay (sờ), mũi (ngửi).
C.Mắt (nhìn), tai (nghe), mũi (ngửi).
5.Bài văn có mấy câu sử dụng phép so sánh. (M2 – 0,5)
A.Hai câu.
B. Ba câu.
C. Bốn câu.
6.Dòng nào dưới đây có 3 từ trái nghĩa với từ trắng xóa? (M3 – 1)
A.Đen kịt, đen bạc, đen nhẻm.
B.Đen ngòm, đen láy, đen tối.
C.Đen kịt, đen láy, đen nhẻm.
7. Bộ phận câu nào dưới đây trả lời cho câu hỏi “Thế nào?” trong câu: “Trời
bây giờ trong vắt, thăm thẳm và cao.”(M2 – 0,5)
A.Bây giờ trong vắt, thăm thẳm và cao
B.Trong vắt, thăm thẳm và cao
C.Thăm thẳm và cao
8. Gạch chân từ ngữ viết sai chính tả rồi viết lại cho đúng “Mặt chăng đã nhỏ
lại, xáng vằng vặc ở trên không và du du như xáo giều.” (M3– 1)
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………

9. Bài văn có nhiều hình ảnh so sánh, em thích hình ảnh nào nhất? Vì sao?
(M4 -1)
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………

A. KIỂM TRA ĐỌC:
1. Kiểm tra đọc thành tiếng kết hợp kiểm tran nghe, nói-Thời gian cho mỗi
em khoảng 2-3 phút ( 4 điểm)

Giáo viên kiểm tra kỹ năng đọc thành tiếng đối với từng học sinh qua các bài
Tập đọc đã học ở sách Tiếng Việt 3- Tập 2, từ tuần 28 đến tuần 34 và trả lời câu
hỏi về nội dung bài đọc do giáo viên nêu ra.
HƯỚNG DẪN KIỂM TRA DÀNH CHO GIÁO VIÊN
1.Phần đọc thành tiếng kết hợp kiểm tra nghe, nói:
- Đọc văn bản: 3 điểm
+ Đọc đủ nghe rõ ràng, tốc độ đạt yêu cầu: 1 điểm
22


+ Đọc đúng, tiếng, từ (không sai quá 5 tiếng) : 1 điểm
+ Ngắt nghỉ hơi đúngở các dấu câu,các cụm từ rõ nghĩa: 1 điểm
- Nghe nói: 1 điểm: Trả lời đúng câu hỏi về nội dung đoạn đọc: 1 điểm
2. Căn cứ vào mức độ đạt được các yêu cầu về chuẩn kiến thức kỹ năng và sự
đáp ứng cụ thể của học sinh, giáo viên đánh giá,nhận xét kết quả đạt được của
học sinh và cho tương ứng với các mức điểm phù hợp rồi ghi kết quả đánh giá
bài làm của học sinh vào khung dưới đây
Đánh giá nhận xét
Điểm
Đọc hiểu
KTTV
Đọc thành tiếng
Tông điểm đọc

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Sách giáo viên –Sách giáo khoa Lớp 3
- Sách giáo viên Tiếng Việt 3 /Tập 1 - Nhà xuất bản Giáo dục
- Sách giáo viên Tiếng Việt 3 /Tập2 - Nhà xuất bản Giáo dục
- Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 /Tập 1 - Nhà xuất bản Giáo dục
- Sách giáo khoa Tiếng Việt 3/ Tập 2 - Nhà xuất bản Giáo dục

2/ Phương pháp dạy Tiếng Việt 3: Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga.
3/ Tập chí Giáo dục tiểu học.
4/ Cảm thụ văn học Tiểu học/ Lê Hữu Tỉnh, Lê Phương Nga - Nhà xuất bản
Giáo dục.
5/ Tài liệu về Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016.

23


×