Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Một số phương pháp gây hứng thú cho học sinh học tập tốt môn thể dục trong trường THCS hiền kiệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.49 KB, 10 trang )

PHỤ LỤC
NỘI DUNG
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
2
2
3
3
3
3
3
4
4
7
8
8
8


10

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Tài sản quý báu nhất của con người là sức khỏe” đó là câu châm ngôn
mà mỗi con người chúng ta ai cũng đã từng nghe qua, tuy nhiên để gìn giữ và
làm giàu tài sản đó thì không phải ai cũng làm được. Hiểu được tầm quan trọng
của sức khỏe nên ngày 27/03/1946 Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể
dục: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần
có sức khoẻ mới thành công”.
Đúng vậy, sức khỏe là vốn quý của mỗi con người, khỏe để sống, khỏe để
bảo vệ bản thân, gia đình và bảo vệ tổ quốc, để xây dựng một xã hội văn minh.
Mục đích của giáo dục thể chất là phát triển toàn diện thế hệ trẻ Việt Nam,
thế hệ trẻ đó phải được phát triển thể chất có chủ định để thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước.
Giáo dục thể chất nói chung và môn học thể dục trong nhà trường nói
riêng, thể chất giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện.
Thể dục là một biện pháp chủ đạo, trực tiếp tác động nhiều tới sức khoẻ
học sinh, con người khỏe hay yếu chủ yếu do luyện tập thể dục thể thao. Thể
dục nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, làm
cơ sở cho học sinh và rèn luyện thân thể bồi dưỡng đạo đức tác phong con người
mới.
Ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, tính vui tươi, hồn nhiên, hiếu động là
không thể thiếu được trong các em, đặc biệt là mặt tâm sinh lý của các em có
nhiều thay đổi lớn, vì vậy học sinh lứa tuổi này không thích bị gò bó, chói buộc
theo khuôn mẫu. Sự tự nhiên và cách thức phù hợp sẽ kích thích hết khả năng
sáng tạo và phát huy tối đa khả năng nhận thức tiếp thu một vấn đề cụ thể ở học

sinh. Không nằm ngoài cách thức truyền thụ chung đó, trong môn thể dục cũng
không nên truyền thụ kiến thức, cách thức luyện tập theo khuynh hướng thể dục
đơn thuần, máy móc, gây cho các em sự mệt mỏi, căng thẳng, nhàm chán, dẫn
đến phản tác dụng rèn luyện mà phải kích thích, tác động đến hoạt động toàn
diện cả về mặt tâm sinh lý ở các em, tạo nên sự hứng thú, giúp các em ham
thích, tập luyện tốt hơn.
Mặt khác, trong thực tế môn học thể dục có nhiều đối tượng học sinh khác
nhau, có em có sức khoẻ tốt, có em sức khoẻ yếu, có em tật bẩm sinh…vì vậy
người giáo viên luôn thường trực đặt ra cho mình các câu hỏi: Phải như thế nào?
Phải dùng những biện pháp nào để kích thích việc học tập và rèn luyện cho tốt
của học sinh?. Vậy trên nền tảng giáo dục thể chất đặt ra, với những phương
pháp được sử dụng hợp lý có tác dụng quan trọng đến đối tượng tập luyện kích
thích, hay động viên, nhiều phương pháp khác để cho các em có thể tập luyện
nâng cao sức khoẻ, phục vụ tốt cho việc học tập.
Với những yêu cầu cấp bách trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Một số
phương pháp gây hứng thú cho học sinh học tập tốt môn thể dục trong
trường trung học cơ sở Hiền Kiệt”.
2


2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này nhằm cung cấp cho học sinh những kiến
thức, kỹ năng cơ bản, biết được lợi ích của thể dục thể thao, tác dụng của tập thể
dục trong nhà trường. Cho học sinh có cảm giác thoải mái, có hứng thú yêu
thích môn thể dục, có sức khỏe để học tập các môn văn hóa đạt kết quả tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu học sinh trường trung học cơ sở Hiền kiệt về vấn
đề “Một số phương pháp gây hứng thú cho học sinh học tập tốt môn thể dục
trong trường trung học cơ sở Hiền Kiệt”.
4. Phương pháp nghiên cứu

Qua quan sát thực tế giảng dạy ở trường mình và các trường bạn cũng như
số liệu của nhiều đồng nghiệp tôi thấy một số các em không hứng thú khi học
tiết thể dục vì thấy có sự gò bó, không thể phát huy hết khả năng vận động và
sáng tạo của bản thân mình.
Kết quả kiểm tra chất lượng của từng nội dung học không cao, các em học
chỉ mang tính chất đối phó, học cho qua...Tôi đã sử dụng các phương pháp và
các hình thức cơ bản sau để nghiên cứu tình hình thực tế:
+Phương pháp “quan sát sư phạm”: Quan sát tinh thần thái độ của học
sinh qua tiết học, theo dõi cụ thể từng đối tượng học sinh của các đội tuyển, xem
xét mức độ hứng thú trong giờ học thể dục của học sinh.
+Phương pháp “phương pháp tuyên trình , giải thích”: bằng cách tuyên
truyền giải thích hiệu quả của việc học tập và rèn luyện thể dục thể thao.
+Phương pháp “ trực quan”: Tranh các loại, bóng (các loại bóng), Cầu đá
(các loại cầu), …mang tính hấp dẫn.
+Phương pháp “trò chơi”: Sử dụng các trò chơi vận động thích hợp với
nội dung, yêu cầu của tiết học.
+Phương pháp “Thi đua khen thưởng”
+ Phương pháp “phỏng vấn”
+ Phương pháp “toán học thống kê”

3


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
Qua quan sát thực tế giảng dạy ở trường mình và các trường bạn tôi thấy một
số các em không hứng thú khi học tiết thể dục vì thấy có sự gò bó đặc biệt là
mặt tâm sinh lý của các em có nhiều thay đổi lớn, không thể phát huy hết khả
năng vận động và sáng tạo của bản thân mình.
Quan sát giờ lên lớp thể dục của các đồng nghiệp khi sinh hoạt chuyên môn

tại trường, theo dõi cụ thể từng đối tượng học sinh của các đội tuyển, xem xét
mức độ hứng thú trong giờ học thể dục của học sinh.
Kết quả kiểm tra chất lượng của từng nội dung học không cao, các em học
chỉ mang tính chất đối phó, học cho qua...
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Để tìm hiểu hứng thú khi học thể dục của học sinh tôi mạnh dạn điều tra
và tìm hiểu xem các em thích tập luyện những môn gì và làm thế nào để gây
hứng thú tập luyện cho các em ở các môn thể thao mà các em cho là không hứng
thú.
Để đánh giá một cách khách quan, tôi dùng phiếu phỏng vấn để hỏi học
sinh các khối lớp của trường trung học cơ sở Hiền Kiệt (học sinh từ khối lớp 6
đến khối lớp 9) về các nội dung học trong sách giáo khoa.
Bảng 1: Mức độ hứng thú học và tập luyện một số nội dung học thể dục
của học sinh trường trung học cơ sở Hiền kiệt trước khi nghiên cứu.
Số phiếu khảo
Số phiếu khảo sát không
sát thích
thích
TT
Nội dung
Khối
Tỉ lệ
Số lượng
Số lượng
Tỉ lệ%
%
6
20
25
60

75
1
Đội hình đội ngũ
7
20
29,4
48
70,6
20
42,6
27
57,4
Bài thể dục phát 8
2
triển chung
7
30
44,1
38
55,9
6
15
18,6
65
81,4
3
Chạy nhanh
7
28
41,2

40
58,8
30
41,1
38
55,9
Môn thể thao tự 7
4
chọn “Đá cầu” 8
22
46,8
25
53,2
8
15
31,9
32
68,1
Chạy bền
5
9
17
29,8
40
70,2
8
20
42,6
27
57,4

6
Nhảy xa
9
17
29,8
40
70,2
7
Tổng
254
34,6% 480
65,4%
Từ đó cho thấy hơn 60% học sinh không hứng thú học và tập luyện một số
nội dung học thể dục.
Qua kết quả đã thu thâp được tôi nhận thấy trong môn thể dục, để có một
tiết học đạt kết quả cao, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập, tập
4


luyện, nắm vững được nội dung bài học, ghi nhớ lý thuyết, thực hiện động tác
một cách chính xác, hoàn hảo, không có dấu hiệu mệt mỏi, chán nản tập luyện
cho có, cho xong, phải đảm bảo tốt chất lượng môn học.
3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
Muốn đạt được những yêu cầu trên, cần phải có những giải pháp sau:
Trước hết giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, giáo viên phải
tập làm mẫu từng động tác, thao tác nhuần nhuyễn, phân tích rõ ràng từng chi
tiết, yếu lĩnh kỹ thuật động tác trước khi lên lớp để học sinh hiểu và nắm bắt
ngay, đã gọi là làm mẫu thì động tác phải đạt yêu cầu chính xác, đúng kỹ thuật.
Vì những động tác ban đầu dễ gây ấn tượng sâu trong trí nhớ các em, Đối
với giáo viên không chuyên, không có khả năng làm mẫu thì nên cho học sinh

quan sát kỹ tranh ảnh, hoặc có thể bồi dưỡng cán sự, chọn những em có năng
khiếu tốt về mặt này để làm mẫu thay cho giáo viên khi giảng dạy động tác mới.
Khi giảng giải phân tích kỷ thuật động tác nên ngắn gọn, chính xác, xúc
tích dễ hiểu, ngoài trời có thể sử dụng tranh ảnh, biểu đồ để minh hoạ làm tăng
sự chú ý trong các em.
Do đặc điểm của môn học ngoài trời,không gian rộng nên học sinh ít tập
trung, ít chú ý, hạy bị các yếu tố bên ngoài làm ảnh hưởng tới tiếp thu của học
sinh.
Do vậy trong phần mở đầu giáo viên nên sử dụng giảng giải, thuyết trình
cho học sinh tập trung vào kỷ thuật ví dụ: Lịch sử ra đời nội dung kỷ thuật học
các thành tích đã đạt được của các vận động viện ở các cuộc thi, tác dụng của
nội dung tập luyện, kể chuyện để gây sự tập trung và hứng thú trước khi vào
phần cơ bản. Hoặc cho cả lớp vỗ tay hát chung một bài hát để tạo sự thoải mái
phấn khởi bước đầu cho quá trình tập luyện.
Trong tiết học thể dục không nhất thiết phải tuân theo qui định khuôn khổ
mà phải luôn luôn thay đổi thêm vào một số tình tiết mới dễ gây hứng thú cho
học sinh. Như thông qua một số biện pháp trò chơi, thi đua khen thưởng, tăng độ
khó.Tất nhiên giáo viện cần nên quan sát dể động viên cho học sinh vượt qua
nhưng bài tập khó đối vói học sinh yếu kém.
- Thí dụ minh hoạ
+ Luyện tập ném bóng: Có thể cho học sinh thi ném trúng đích hoặc thi ai
ném xa hơn.
+ Luyện tập bật nhảy: có thể tổ chức trò chơi bật xa tiếp sức.
+ Luyên tập chạy nhanh: Có thể chạy thi, chạy tiếp sức giữa hai đội dưới
hình thức trò chơi.
Với các hình thức thay đổi trên sẽ làm cho học sinh không cảm thấy chán
nản, trong quá trình dạy học, nếu các em có dấu hiệu mệt mỏi giáo viên cần thay
đổi nội dung để tạo lại sự hứng thú, lấy lại tâm lý trạng thái vui tươi, có thể cho
chơi một số trò chơi nhỏ hay kể một câu chuyện ngắn gọn về tinh thần luyện tập
thể thao, lời kêu gọi tập luyện thể dục của Bác Hồ…

Dụng cụ học tập rất quan trọng, nên áp dụng triệt để vì nó dễ tạo nên hưng
phấn. Cho nên mỗi nội dung, mỗi tiết học, giáo viên nên thay đổi dụng cụ như:
5


Bóng đá, dây nhảy…hay các vật dụng khác mang màu sắc áp dụng trong bài học
và trò chơi, sẽ tác động vào mắt các em gây sự hứng thú hấp dẫn trong tập
luyện.
Trong suốt tiết học, giáo viên cũng nên dùng phương pháp thi đua khen
thưởng để động viên các em, mỗi một nội dung cho các tổ thi đua với nhau, giáo
viên nhận xét khen thưởng sẽ tạo nên sự tranh đua, gắng sức tập luyện. Nói một
cách cầu kỳ, ở tâm lý học sinh chỉ cần động viên khen ngợi một điều gì đó là các
em sẽ thích thú ngay.
Để tìm hiểu tình hình học sinh một cách toàn diện, trong mỗi lớp học, tìm
hiểu khả năng vận động của các em, có sức khoẻ tốt, có sức khoẻ yếu, hay bệnh
tật…Để có hình thức bồi dưỡng tập luyện khác nhau.
Đối với học sinh yếu, khuyết tật, không để các em nghỉ, mà giáo viên phải
tổ chức riêng cho các em tập với cường độ nhẹ hoặc cho các bạn có sức khoẻ tốt
giúp đỡ các bạn yếu, giáo viên nên động viên khích lệ các em này. Tạo điều kiện
cho các em, chẳng hạn cho các em này làm trọng tài trong các trò chơi, các hoạt
động thi đua hoặc áp dụng phương pháp tập luyện bằng cách “ phục hồi chức
năng” với hình thức nhẹ nhàng, nội dung phù hợp để các em này được hoạt
động, tạo cho các em một tinh thần thoả mái, vui vẻ phấn khởi tập luyện nâng
cao sức khoẻ cùng các bạn.
Nói chung chương trình dạy thể dục trong trường Trung học rất đa dạng,
phong phú nhưng tuỳ theo một mức độ khác nhau, chúng ta nghiên cứu trong
mỗi tiết dạy tạo mọi điều kiện, sử dụng phương pháp phù hợp với lứa tuổi các
em, đảm bảo tính vừa sức, hấp dẫn, tạo nên sự hưng phấn, kích thích các em say
mê luyện tập, nâng cao sức khoẻ đảm bảo việc học tập.
- Giải pháp

a. Đối với giáo viên
Chúng ta đều biết thể dục thể thao là một lĩnh vực khoa học, không có
kiến thức khoa học về thể dục thể thao thì không có niềm tin mãnh liệt vào lợi
ích, tác dụng kỳ diệu của thể dục thể thao đối với sức khoẻ con người và không
thể xây dựng cho mình nếp sống văn minh khoa học, nếp sống hằng ngày rèn
luyện thân thể đều đặn.
Cho nên việc giáo duc thể chất là con dao hai lưỡi, người giáo viên hướng
dẫn học sinh tập luyện mà không nắm được tình hình sức khoẻ, đặc điểm sinh lý
của học sinh thì dễ đưa đến hậu quả khó lường, gây nguy hại đến sức khoẻ, tác
động xấu đến sự phát triển tố chất của học sinh.
Để thực hiện được chương trình và giảng dạy cho học sinh tập luyện có
hiệu quả, điều quan trọng có tính quyết định là phải có giáo viên thể dục có trình
độ vững vàng, yêu thích thể dục thể thao, có sức khoẻ tốt, xuất phát từ yêu cầu
cấp bách đó, tôi đưa ra giải pháp sau:
- Giáo viên thể dục phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao
trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của tiến trình giảng dạy, nâng cao chất
lượng dạy học của bộ môn, phải dự giờ trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các bài
giảng mẫu để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ sư phạm.
6


Giáo viên luôn tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện
thực tiễn, không áp đặt, không máy móc.
- Nhà trường thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên đi học các lớp bồi
dưỡng chuyên môn để nâng cao nghiệp vụ giảng dạy, phục vụ tốt cho công tác
chăm lo sức khoẻ học sinh.
b. Về cơ sở vật chất
Để đảm bảo công tác giáo dục thể chất cho học sinh đòi hỏi phải tăng
cường các thiết bị dụng cụ phục vụ cho việc giảng dạy của giáo viên và của việc
tập luyện của trò theo hướng:

- Nhà trường mua thêm cột nhảy cao, bóng đá, sân đá cầu đẻ phục vụ học
tập cho học sinh đủ, phát triển toàn diện trông các môn học thể dục.
- Mỗi năm nhà trường cùng thầy cô, học sinh tự làm thêm một số thiết bị
dụng cụ như: cờ, hố cát, sân bóng...góp phần làm giàu thêm cơ sở vật chất của
nhà trường phục vụ tốt cho công tác giáo dục thể chất cho học sinh.
- Thường xuyên cải tạo và nâng cao các sân tập
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Bảng 2: Mức độ hứng thú học và tập luyện một số nội dung học thể dục
của học sinh trường trung học cơ sở Hiền Kiệt sau khi áp dụng nghiên cứu
Số phiếu khảo sát Số phiếu khảo sát
không thích
TT
Nội dung
Khối thích
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng
Tỉ lệ%
6
65
81,6
15
18,4
1
Đội hình đội ngũ
7
50
73,5
18
26,5
40
85,1

7
14,9
Bài thể dục phát 8
2
triển chung
7
55
80,9
13
19,1
6
70
87,5
10
12,5
3
Chạy nhanh
7
58
85,3
10
14,7
60
88,2
8
11,8
Môn thể thao tự 7
4
chọn “Đá cầu” 8
38

80,9
9
19,1
8
37
78,7
10
21,3
Chạy bền
5
9
50
87,7
7
12,3
6
8
42
89,4
5
10,6
Nhảy xa
9
45
78,9
12
21,1
7
Tổng
610

83,1% 124
16,9 %
Qua đó có hơn 83% học sinh hứng thú học và tập luyện một số nội
dung học trong chương trinh giảng dạy của môn Thể dục.
Bản thân là giáo viên thể dục đã lâu năm, luôn tận tình nhiệt huyết với học
sinh, có trình độ chuyên môn vững vàng, trình độ đạt trên chuẩn và qua nhiều
năm công tác thấy nhiều học sinh có năng khiếu, tuy nhiên các em rụt rè không
giám thể hiện bản thân, trong các cuộc thi thể dục thể thao, hội khỏe phù đổng
không đạt được kết quả cao, tuy nhiên 2 năm trở lại đây tinh thần thái độ học tập
7


và kết quả tâp của học sinh trong trường nâng lên rõ rệt. Đặc biệt trong năm học
2015- 2016 đội tuyển thể dục thể thao của trường đạt kết quả cao trong hội thi
hội khỏe phù đổng cấp huyện, thành tích đạt cao hơn rất nhiều so với nhiều năm
trước.
Điều kiện cơ sở vật chất đối với môn học thể dục là rất cần thiết, tuy
nhiên tròng trường đang còn thiếu tôi mong rằng trong những năm tới nhà
trường sẽ quan tâm và trang bị đầy đủ trang tiết bị để phục vụ việc dạy và học
môn thể dục trong nhà trường.
Áp dụng các phương pháp trên vào giảng dạy thể dục ở trường tôi thấy rất
thuận tiện trong việc soạn giảng cũng như về thực tế nội dung tiết học đa số các
em có tiến bộ nhiều trong môn học, cụ thể là học sinh tất cả các khối rất ham
thích luyện tập, thường trông đến tiết học thể dục, chất lượng tăng lên rõ rệt qua
từng giai đoạn, kể cả học sinh sức khoẻ yếu, khuyết tật, các em đã nắm kỹ nội
dung chương trình, tuy không đòi hỏi mức độ cao ở các em song cũng đủ đảm
bảo tốt về mặt sức khoẻ, tinh thần ý thức, tổ chức kỷ luật, là cơ sở để các em
bước vào lớp kế tiếp với bản lĩnh tự tin hơn, tiến xa hơn.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

Tóm lại việc học môn thể dục trong nhà trường trung học cơ sở là một
động lực quan trọng để góp phần hoàn thiện về mặt thể chất ngoài ra còn có tác
dụng tích cực thúc đẩy các mặt giáo dục khác phát triển.
Vì vậy mỗi giáo viên chúng ta phải trao dồi kiến thức, tự hoàn thiện mình,
luôn trăn trở tìm ra những phương pháp soạn giảng, tập luyện phù hợp khắc
phục những khó khăn để đưa chất lượng giáo dục thể chất ngày càng phát triển.
Đào tạo cho xã hội thế hệ tương lai là những con người toàn diện có sức
khoẻ dồi dào, có thể lực cường tráng, dũng khí kiên cường để tiếp túc sự nghiệp
cách mạng của Đảng và sống cuộc sống vui tươi lành mạnh.
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi hạn chế thiếu sót, mong
các bạn đồng nghiệp và Ban giám khảo đóng góp ý kiến, bổ sung để tôi có thêm
các biện pháp mới hay hơn, sát thực hơn với thực tiễn địa phương và từng đối
tượng học sinh, để góp phần xây dựng con người phát triển một cách toàn diện.

2. Kiến nghị
- Đối với các bậc cha mẹ học sinh cần quan tâm hơn nữa tới việc học tập
của con em mình. Mặt khác cũng cần dành cho các em một khoảng thời gia nhất
định để các em có thể vui chơi, tập luyện các môn thể dục thể thao khác nhằm
giúp các em phát triển được những năng khiếu của bản thân.
- Đối với nhà trường cần tạo điều kiện cho các em có được sân chơi bãi
tập rộng rãi, an toàn. Thường xuyên tổ chức các phong trào thể dục thể thao liên
8


trường để các em có điều kiện tham gi thi đấu, cọ sát với các bạn trường khác và
xem đây là một hoạt động thường xuyên trong nhà trường.
- Đối với lãnh đạo cần mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho giáo viên dạy
môn thể dục nhằm nâng cao trình độ và kiến thức chuyên môn trong thời kỳ
mới../.


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Hiền Kiệt, ngày 13 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình, không sao chép nội
dung của người khác
Người viết

Lê Thị Nga

TÀI LIỆU THAM KHẢO
-------O0O------1/. Sách thể dục 6...................................................................................NXB GD
2/. Sách thể dục 7...................................................................................NXB GD
3/. Sách thể dục 8...................................................................................NXB GD
9


4/. Sách thể dục 9...................................................................................NXB GD
6/. Giáo trình phương pháp giảng dạy.............................Truờng Đại học Vinh
7/. Giáo trình tâm lý lứa tuổi............................................Truờng Đại học Vinh

10



×