Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Phát triển con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước hiện tại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.92 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Khoa lý luận chính trị
---  ---

CHỦ ĐỀ:
Phát triển con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu
của phát triển đất nước hiện tại
GVHD : Nguyễn Thị Thanh Vân
Lớp
: HIS 361 SG
SVTH : Nguyễn Tuấn Anh
Nguyễn Tấn Dũng
Phan Thanh Tùng
Lê Hoài Vân

MSSV
MSSV
MSSV
MSSV

Hà Nội, ngày 29/06/2017

:
:
:
:

2121114093
2121146082
2121217643
2121117761




Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

LỜI MỞ ĐẦU
ấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến
hiện đại. Từ khi Triết học Marx – Lenin ra đời đã giải quyết những nội dung
liên quan đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan
trọng đối với thế giới; và trong thực tế hiện nay, con người là một lực lượng chủ đạo
trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chỉ có con người yếu tố
quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết
định sự thành công hay thất bại của xã hội.

V

Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chi Minh, cùng với Chủ nghĩa
Marx – Lenin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan cho hành động của Đảng. Vì
vậy, thấm nhuồn tư tưởng chủ nghĩa Marx – Lenin về con người, trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ qua độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định:
“Con người la trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ich của dân
tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của
xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư
trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm
chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa
tình; có tinh thần quốc tế chân chinh”.
Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa, đẩy mạnh toàn diện năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước

công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Ngoài những nhân tố quan trọng quyết định sự
thành công, đó là vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, sự
tham gia ủng hộ tích cực của các đoàn thể xã hội, chúng ta cần khẳng định rằng, yếu tố
con người, nguồn nhan lực có vị trị rất quan trọng như trong Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”.

Trang 2


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

MỤC LỤC
I. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG VỀ CON NGƯỜI ............. 4
I.1. Quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin ............................................. 4
I.1.1.

Con người là một thể thống nhất của các mối quan hệ .............................. 4

I.1.2.

Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử .............................. 5

I.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người ......................... 6
I.2.1. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người được thể hiện với
tư cách là cá nhân, cộng đồng xã hội ....................................................................... 6
I.2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét con người trong các mối quan hệ lịch sử –

xã hội .................................................................................................................... 7

II. VẤN ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY .......................................................... 8
II.1. Vai trò, vị trí của con người trong chiến lược phát triển ................... 8
II.1.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của con người............... 8
II.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người” ........ 9
II.1.3. Quan điểm của Đảng về việc xây dựng và phát triển con người hiện nay
10

II.2. Đánh giá về việc xây dựng và phát triển con người Việt Nam hiện
nay và những định hướng ............................................................................. 15
II.2.1. Những mặt tích cực và hạn chế của con người Việt Nam ....................... 15
II.2.2. Những thách thức trong việc xây dựng và phát triển con người Việt Nam
hiện nay .................................................................................................................. 16
II.2.3. Những định hướng cho việc xây dựng và phát triển con người Việt Nam ..
.................................................................................................................. 19

Trang 3


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

I. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG VỀ CON NGƯỜI
I.1. Quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin
I.1.1. Con người là một thể thống nhất của các mối quan hệ
Trong mối quan hệ của các mặt sinh vật và mặt xã hội, trong tính hiện thực, bản chất
con người là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội và sự phát triển của con người

trong kinh tế tri thức hiện tại.
I.1.1.1.

Trong mối quan hệ giữa mặt sinh vật và mặt xã hội

Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học
chi phối đời sống của cơ thể con người.
Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời
sống tinh thần của con người.
Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là
nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản
chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người.
Bởi mặt xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản
xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người,
đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Bản chất của con người
không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng
với hoạt động thực tiễn của con người.
I.1.1.2. Trong tính hiện thực, bản chất con người là sự tổng hòa của các
mối quan hệ xã hội
Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất
định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người
tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí
tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất
xã hội của mình.
Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Marx – Lenin không
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Marx – Lenin chỉ muốn nhấn
mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội.
Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội.
Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định,
một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình,

con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và
tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân

Trang 4


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người
mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
I.1.1.3.

Sự phát triển của con người trong kinh tế tri thức hiện đại

Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết
định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà nó còn là chủ thể của quá trình lịch
sử, của tiến bộ xã hội. Đặc biệt khi xã hội loài người phát triển đến trình độ nền kinh tế
tri thức thì vai trò của con người đặt biệt quan trọng, vì con người tạo ra tri thức mới,
chứa dựng những tri thức mới.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố hàng đầu,
yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn nữa, con
người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động
sản xuất vật chật con người sáng tạo ra lịch sử của mình. Từ đó quan niệm đó Mác
khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự phát triển phong
phú bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân. Bởi vậy theo Mác ý nghĩa lịch
sử mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao
năng lực và phẩm giá con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con
người để con người được sống với cuộc sống đích thực.

I.1.2. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử
I.1.2.1. Con người là sản phẩm của quá trình phát triển
Con người là sản phẩm tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới
hữu sinh, đã là con người thì phải trải qua giai đoạn sinh trưởng, tử vong, mỗi con người
đều có nhu cầu ăn, mặc ở, sinh hoạt... Song con người khong phải là động vật thuần tuý
như các động vật khác mà xét trên khía cạnh xã hội thì con người là động vật có tính xã
hội, con người là sản phẩm của xã hội, mang bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội là tất
cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác
nhau, những quy định về mặt xã hội toạ nên con người. Con người chỉ có thể tồn tịa
được khi tiến hành lao động sản xuất của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu mình và
chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người và ý thức. Lao động
là nguồn gốc duy nhất của vật chất, vật chất quyết định tinh thần theo logic thì lao động
là nguồn gốc của văn hoá vật chất và tinh thần.
I.1.2.2. Con người sáng tạo ra văn hóa xã hội và là sản phẩm của lịch
sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song,
điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử – xã hội.

Trang 5


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,
cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của

chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng
kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích
cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã
hội loài người.

I.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người
I.2.1. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người được thể hiện
với tư cách là cá nhân, cộng đồng xã hội
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành
viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa,
phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia
đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung,
trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn
cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính
đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự
nghiệp chung. Khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết:
“Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”.
Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của
gia đình mình”. Thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một
nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó, mỗi con người cụ
thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo Hiến pháp và pháp
luật.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là nhân dân Việt Nam, những con người
lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là
dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những

“người nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, được khái niệm vừa là mục tiêu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó.
Trang 6


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

Người khẳng định, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đẩy
mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân
dân, vì như Người nói: “Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ
kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến
thắng lợi, nếu không “dựa vào lực lượng của toàn dân”.
Theo Người: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, Chủ nghĩa xã hội trước hết là làm
cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và được sống đời hạnh phúc”; “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân”, xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân
dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp.
I.2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét con người trong các mối quan hệ
lịch sử – xã hội
I.2.2.1. Con người được nhìn nhận như mặt chỉnh thể
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực,
thế lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân – Thiện
– Mỹ mặc dù “có thế này, thế khác”. Chủ tịch Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét
con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc,

giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào...): đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất,
khả năng cũng như năm ngón tay dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại nơi bàn
tay: mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nòi
giống Lạc Hồng: đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc,...
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập:
thiện và ác hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,... bao gồm cả tính người – mặt xã hội và
tính bản năng – mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người có tốt có
xấu, nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”
I.2.2.2.

Con người cụ thể, lịch sử

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một
số trường hợp (“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”,
“ai”...), nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn. Người
xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới tính (thanh
niên, phụ nữ), theo lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp (công nhân, nông dân, trí
thức...), trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan

Trang 7


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản). Đó là con
người hiện thực, cụ thể, khách quan.
I.2.2.3.


Bản chất con người mang tính xã hội

Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất,
con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội: hiểu
về mình và hiểu biết lẫn nhau..., xác lập các mối quan hệ giữa người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là
sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em:
họ hàng: bầu bạn: đồng bào, loài người.

II. VẤN ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
II.1. Vai trò, vị trí của con người trong chiến lược phát triển
II.1.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của con người
II.1.1.1. Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định sự thành
công của sự nghiệp Cách mạng
Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị, cả vật chất và tinh thần, và mọi của cải.
Người khẳng định: “Vô luận việc gì đều do con người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ xa
đến gần đều thế cả”.
Không chỉ thấy rõ vai trò của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhìn thấy sức
mạnh của con người khi được tổ chức lại. Người viết: “Trong bầu trời không có gì quý
bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân” và “Dễ mấy lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của Cách mạng: “Lòng yêu nước và sự
đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
II.1.1.2. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của Cách Mạng,
phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định mục tiêu của Cách mạng là giải phóng con người,
mang lại tự do hạnh phúc cho con người. Suốt đời mình, người đã luôn đấu tranh vì
mục tiêu đó. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có

cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Trong di chúc, người cũng dành mối quan
tâm đầu tiên là công việc đối với con người.
Trong khi khẳng định mục tiêu của Cách mạng, Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhấn
mạnh sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con người thực hiện. Nghĩa là con
Trang 8


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

người là động lực của Cách mạng. Điều này thể hiện niềm tin mãnh liệt của Hồ Chí
Minh vào sức mạnh của nhân dân.
Con người là động lực của Cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn
thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Công nhân là gốc
Cách mạng.
Tuy nhiên không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con
người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ, bản lĩnh chính trị, đạo đức, văn
hóa…và được lãnh đạo, dẫn đường. Vì vậy, phải tăng cường giáo dục nhân dân, tăng
cường sự lãnh đạo của đảng và Cách mạng.
Giữa con người – mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Càng chăm lo cho con người – mục tiêu càng tốt thì sẽ tạo thành con người –
động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại tăng cường sức mạnh của con người – động lực sẽ
nhanh chóng đạt được mục tiêu Cách mạng.
II.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
II.1.2.1. “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu
dài của Cách mạng
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của Cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con
người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là

những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách.
Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và
“trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính
quyết định của nhân tố con người: tất cả vì con nguời, do con người.
Như vậy con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm
trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong
chiến lược giáo dục và đào tạo theo nghĩa hẹp.
II.1.2.2. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa”
Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở
đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Điều này cần đươc hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng
con người có những phẩmchất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa,
làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài, không ngừng hoàn
thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi
người.

Trang 9


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người
xã hội chủ nghĩa”.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt
gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền
thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có

tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm
chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên...); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng
nhân ái, vị tha, độ lượng.
II.1.2.3. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp
thành của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và
đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem
lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến
thanh niên.
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện về cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt
đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai
mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng
cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm...
có như vậy mới có thể “học để làm người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”,
không phải làm một lúc là xong cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận
thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi
con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.
II.1.3. Quan điểm của Đảng về việc xây dựng và phát triển con người hiện
nay
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi con người là
vốn quý nhất, là mục tiêu, động lực của cách mạng, là yếu tố quyết định sự thành bại
của cách mạng. Đặc biệt, từ Đại hội VI (năm 1986) của Đảng, với sự đổi mới toàn diện
và sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn trên mọi lĩnh vực, nhận thức về vị trí, vai trò của
con người cũng ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta luôn đặt con người vào vị trí
trung tâm của quá trình phát triển, là đối tượng, mục tiêu và động lực của mọi hoạt động
kinh tế– xã hội.
Quan điểm này được thể hiện xuyên suốt trong các kỳđại hội, cũng như trong mọi
chủ trương, chính sách của Đảng. Đặc biệt, tại Đại hội XII, Đảng đã bổ sung, phát triển

Trang 10


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

nhiều quan điểm mới về xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này không
chỉ là sự bổ sung về mặt lý luận, mà còn được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp,
định hướng cụ thể trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
II.1.3.1. Xây dựng con người toàn diện là một trong những nhiệm vụ tổng
quát 5 năm 2016–2020
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1991), Đảng ta đã khẳng định, một trong những đặc trưng của chế độ XHCN là: “Con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân”.(1) Tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: “Tạo điều kiện cho mọi người đều có
cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” (2). Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục
khẳng định, một trong những đặc trưng quan trọng của xã hội XHCN mà nhân dân ta
xây dựng là “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện” (3). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), tiếp tục khẳng định, một
trong những đặc trưng quan trọng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là “Con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (4). Đại
hội XI cũng xác định, xây dựng con người Việt Nam “Phát triển toàn diện về trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật” (5)...
Đến Đại hội XII, vấn đề “Phát triển con người toàn diện” được Đảng ta xác định là
một trong nhữngnhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016–2020, đó là xây
dựng “Con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”(6). Đây là một bước tiến quan

trọng của Đảng ta khi không chỉ coi trọng vấn đề phát triển con người về mặt nhận thức,
mà còn biến đó thành nhiệm vụ, thành hoạt động thực tiễn cần phải được thực hiện đồng
thời với các nhiệm vụquan trọng khác trong công cuộc phát triển đất nước.
II.1.3.2. Xây dựng con người được đề cập tại 4 trong 6 nhiệm vụ trọng
tâm củanhiệm kỳ Đại hội XII
Tại Đại hội XI, trong số 7 nhiệm vụ được đề ra thì chỉ có một nhiệm vụ đề cập trực
tiếp đến vấn đề con người, đó là “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước” (7).
Đến Đại hội XII, trong 6 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong nhiệm kỳ này thì
có tới 4 nhiệm vụ có đề cập tới vấn đề con người, trong đó có 2 nhiệm vụ đề cập tới
phát triển năng lực cho con người. Điều đó cho thấy, vấn đề con người, xây dựng và
phát triển con người đã được Đảng ta chú trọng hơn bao giờ hết. Ngay trong nhiệm vụ
đầu tiên, về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã nhấn mạnh cần phải
“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng
Trang 11


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” (8). Ở nhiệm vụ thứ ba, Đảng ta yêu cầu
tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, trong đó có “phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...” (9). Với quan điểm coi nguồn lực con
người là vốn quý và quan trọng nhất, trong nhiệm vụ thứ năm và sáu, Đảng ta đã xác
định phải “Thu hút và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết;
tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo
đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc”; đồng thời, phải “Phát

huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con
người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh” (10).
Việc cụ thể hóa những yêu cầu trong xây dựng và phát triển con người, trong đó có
phát triển năng lực cho con người đã thể hiện sự nhận thức đúng đắn của Đảng trước
những yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay.
II.1.3.3. Gắn mục tiêu nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa với xây
dựng con người
Đại hội XII gắn xây dựng, phát triển con người với xây dựng, phát triển văn hóa. Đây
là một bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng về lĩnh vực văn hóa sau 30 năm
đổi mới. Tại văn kiện Đại hội VI, VII, vấn đề văn hóa vẫn còn được xếp chung với lĩnh
vực giáo dục, khoa học. Đại hội VIII, IX, văn hóa đã được tách ra thành mục riêng,
phương hướng phát triển văn hóa được xác định là “xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”. Đại hội X, Đảng ta xác định, “phát triển văn hóa, nền tảng
tinh thần của xã hội”. Đại hội XI, Đảng ta nêu phương hướng cụ thể hơn, đó là “chăm
lo phát triển văn hóa”. Có thể thấy, trong các kỳ đại hội trước, văn hóa là vấn đề luôn
được Đảng ta quan tâm nhưng nó chưa được gắn với vấn đề con người.
Đến Nghị quyết số 33–NQ/TW ngày 9–6–2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã
nhấn mạnh việc gắn mục tiêu xây dựng văn hóa với xây dựng con người: “Xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”. Quan
điểm này đã được Đại hội XII tiếp tục khẳng định, vớiphương hướng phát triển văn hóa
là “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người”. Đó là chủ trương phù hợp và đúng đắn
cả về lý luận và thực tiễn của Đảng. Bởi vì con người vừa là chủ thể sáng tạo ra văn
hóa, đồng thời là sản phẩm của chính nền văn hóa do mình sáng tạo ra. Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, nói đến văn hóa là nói đến con người, vì văn hóa là
của con người, do con người, vì con người. Cho nên, việc xây dựng, phát triển văn hóa
không thể tách khỏi xây dựng, phát triển con người. Qua cách diễn đạt này, Đảng ta
khẳng định và nhấn mạnh vấn đềtrọng tâm, cốt lõi của xây dựng nền văn hóa Việt Nam
Trang 12



Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là xây dựng con người với nhân cách và lối sống tốt
đẹp.
II.1.3.4. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện được
đặt lên hàng đầu trong các nhiệm vụ về văn hóa
Đảng ta sớm coi trọng vấn đề phát triển văn hóa, xây dựng con người mới. Đại hội
VIII của Đảng đã có những đổi mới về nhận thức khi đưa xây dựng con người Việt Nam
vào một trong những nhiệm vụ trong lĩnh vực văn hóa: “Mọi hoạt động văn hóa, văn
nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội” (11). Đại hội IX đánh dấu
bước phát triển về mặt nhận thức khi hướng “mọi hoạt động của văn hóa” phải nhằm
“xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo
đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn
trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã
hội...” (12). Tại Đại hội X, vấn đề xây dựng con người đã được Đảng ta coi là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của lĩnh vực phát triển văn hóa và được đề cập trên bình
diện mới là xây dựng và hoàn thiện về nhân cách con người. Đó là: “xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị
văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng
lực trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” (13). Đại hội XI yêu cầu:
“Sớm có chiến lượcquốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát
triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo
dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người Việt Nam trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (14).
Sau 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được, Đảng ta nhận định: “Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi”; “Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành
mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có
chiều hướng gia tăng” (15),... Trước tình trạng đó, Đảng ta đã có sự nhận thức toàn diện
hơn về vị trí, vai trò và nhiệm vụ phải xây dựng, phát triển con người trong xây dựng,
phát triển văn hóa.
Đại hội XII xác định, phải đặt nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện lên hàng đầu trong các nhiệm vụ khác của văn hóa. Đồng thời, “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược
phát triển” (16). Đây là quan điểm mới, phù hợp với thực tiễn phát triển văn hóa, con
người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

Trang 13


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

Từ quan điểm đó, Đảng ta đã xác định các nhiệm vụ cụ thể trong xây dựng, phát triển
con người Việt Nam: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực
của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”
(17)
. Việc định hướng như vậy là hoàn toàn chuẩn xác. Phải xây dựng được hệ giá trị văn
hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời đại mới thì mới có căn
cứ để xây dựng con người. Các hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người
Việt Nam phải vừa phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa
phải phù hợp với những giá trị văn hóa của thời đại nhằm xây dựng con người Việt Nam

với đầy đủ phẩm chất và năng lực, vừa phải mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn; vừa
có khả năng đảm nhiệm những trọng trách mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ,hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới. Đó là những
con người Việt Nam phát triển toàn diện về “nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng
tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp
luật”; có “hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”; vừa biết “Khẳng
định, tôn vinh cái đúng, cái đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp,
nhân văn”; nhưng cũng phải biết: “Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp
hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây
dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người…” (18).
________________________
ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NxbSự thật, Hà
Nội, 1991
(2), (11)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996
(3), (13)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
(4), (5), (7), (12), (14)
ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia – Sự
thật, Hà Nội, 2011
(6), (8), (9), (10), (15), (16), (17)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NxbChính trị quốc
gia, Hà Nội, 2016
(1)

Trang 14


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam


GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

II.2. Đánh giá về việc xây dựng và phát triển con người Việt Nam
hiện nay và những định hướng
II.2.1. Những mặt tích cực và hạn chế của con người Việt Nam
II.2.1.1. Tích cực
Một số tác giả cho rằng con người Việt Nam có những nét tính cách truyền thống
như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, cần cù, hiếu học đã tạo nên
lịch sử đặc trưng của Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, mãnh liệt là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt
Nam từ cổ đại đến hiện đại. “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc
lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song
nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày
thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” – Chủ
tịch Hồ Chí Minh (ngày 17–7–1966).
Tinh thần đoàn kết cộng đồng. Nói đến tính cộng đồng ở đây là nói đến sự hợp tác
trong việc thúc đẩy sản xuất, tinh thần đoàn kết vì mục đích chung trong phát triển kinh
tế. Tinh thần này được phát huy rất cao trong sản xuất đặc biệt là trong những thời điểm
khó khăn của đất nước. Nó tạo nên văn hóa trong sản xuất, kinh doanh của Việt Nam.
Hơn nữa người Việt luôn coi trọng nghĩa tình, như tinh thần đùm bọc, giúp đỡ và
quan tâm nhau. Những lúc khó khăn, có công có việc người ta đến với nhau vì tình chứ
không phải vì vật chất, nên trong văn hoá ứng xử Người Việt rất coi trọng tinh thần, đặt
tinh thần lên hàng đầu.
Cần cù lao động là một giá trị đạo đức nổi bật. Người Việt Nam được các dân tộc
khác thừa nhận là có tinh thần hiếu học, cộng với bản chất thông minh, dễ tiếp thu và
một nền giáo dục có truyền thống cả ngàn năm. Người Việt Nam xem giáo dục cao hơn
sự giàu có và thành công và là trụ cột của văn hóa.
Nhà truyền giáo người Ý Francesco Buzomi nhận xét: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và
gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt Nam có những đức tính,

phong tục rất đáng khâm phục, [...] Người Việt không nghiêng về văn chương, tính tình
không thâm hiểm như người Tàu. Họ không quá nghiêng về quân bị, tính tình không
độc ác như người Nhật, dễ nghe, dễ tin và nhiều mê tín nhưng người dân Việt dễ nhận
ra lẽ phải, không kiêu căng hay tự tin như người Tàu.”
II.2.1.2. Hạn chế
Mặc dù tính cộng đồng cao là một nét tính cách của con người Việt Nam có chứa
đựng nhiều giá trị, song bên cạnh đó cũng có nhiều mặt hạn chế. Cộng đồng được đề
cao quá mức đã ức chế sự phát triển cá tính, kìm hãm sự phát triển cá nhân vì cộng đồng
Trang 15


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

không chấp nhận cá nhân đứng ngoài cộng đồng và cá tính không phù hợp với “Luật
bầy đàn” của cộng đồng.
Theo nhà nghiên cứu Hồ Sỹ Quý, Việc coi trọng tình nghĩa tới mức thái quá đương
nhiên không phải là giá trị tốt trong mọi hoàn cảnh. Coi trọng tình nghĩa tới mức coi
thường hiến pháp và pháp luật như “phép vua thua lệ làng”, “một trăm cái lý không
bằng một tí cái tình” thì khó có thể chấp nhận được.
Lối tư duy theo tư tưởng thích quyền lực, thích làm quan, thích làm thầy thiên hạ,
ghét buôn bán, ngại làm thợ... Hậu quả của lối tư duy này là sự mất cân bằng về cơ cấu
nguồn nhân lực, một yếu tố đầu vào quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước. Hệ quả kéo theo là tình trạng thừa thầy thiếu thợ, thiếu một lực lượng khá lớn
công nhân có tay nghề, gây tác động không nhỏ tới quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường, quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, đặc biệt gắn với tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Tâm lí tiểu nông. Như chúng ta đã biết, tâm lý sản xuất nhỏ là loại hình tâm lý xã hội
nảy sinh, hình thành trực tiếp từ sự phản ánh những điều kiện sinh hoạt xã hội của những

xã hội dựa trên nền tảng sản xuất nhỏ. Với những đặc trưng cơ bản như: mang tính chất
tự cấp tự túc được tiến hành theo kinh nghiệm là chủ yếu, kỹ thuật thủ công thô sơ, lạc
hậu, có tính chất phân tán, khép kín... nền sản xuất nhỏ là cơ sở chủ yếu hình thành nên
lối tư duy kinh nghiệm, tầm nhìn thiển cận, thói tự do tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật,
coi thường luật pháp, cục bộ địa phương.
Không có ý thức bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên. Sự phát triển kinh tế –
xã hội đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo lạc hậu so với thời kì trước đây.
Tuy nhiên trong quá trình sản xuất và kinh doanh, chúng ta đã thể hiện sự yếu kém trong
ý thức bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra, cần phải kể đến những lối tư duy sùng ngoại, coi trọng đồng tiền (quy tất
cả ra tiền, kể cả các mối quan hệ vốn thuộc về phạm trù đạo đức), coi nhẹ việc kiềm chế
dục vọng, hưởng thụ vật chất trong xã hội. Vì vậy, cần phải có biện pháp điều chỉnh và
khắc phục những nhược điểm này, thay vào đó lối tư duy khoa học, lấy hiệu quả và kết
quả thực làm hướng đích trong tư duy.
II.2.2. Những thách thức trong việc xây dựng và phát triển con người Việt
Nam hiện nay
Hội nhập, giao lưu quốc tế một mặt mang lại điều kiện, cơ hội thuận lợi cho sự phát
triển, nhưng cũng khiến con người Việt Nam phải đối diện với không ít khó khăn, thách
thức. Đó là:
Thứ nhất, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, kể cả những cán bộ giữ vị trí cấp cao trong bộ máy lãnh đạo của
Trang 16


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

Đảng, Nhà nước đến thanh thiếu niên và người dân lao động. Tệ nạn tham nhũng, chạy
chức chạy quyền diễn biến phức tạp, ngày càng tinh vi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy

tín của Đảng và sự trong sạch, nghiêm minh của bộ máy công quyền. Đây là một trong
những nguy cơ mà trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết Đảng ta đã đề cập, cảnh
báo.
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, “Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2014
của Việt Nam đạt 31/100 điểm, đứng thứ 119 trên bảng xếp hạng toàn cầu (175 quốc
gia) và thứ 18 trên tổng số 28 quốc gia và vùng lãnh thổ được đánh giá trong khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương. Một điều đáng chú ý là điểm số CPI của Việt Nam không
thay đổi trong 3 năm liên tiếp (2012– 2014) và tham nhũng trong khu vực công vẫn là
một vấn đề nghiêm trọng của quốc gia” (18). Những năm gần đây đã khởi tố, điều tra
nhiều vụ án tham nhũng làm thất thoát tiền của của Nhà nước.
Tệ nạn xã hội ở tầng lớp thanh thiếu niên có chiều hướng gia tăng. Theo số liệu của
Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động, thương binh và xã hội), “tính đến tháng
7–2014, số người bán dâm ước tính là gần 33 nghìn người. Số người nghiện ma túy có
hồ sơ quản lý là 204.377 người tính đến tháng 9–2014. Tỷ lệ người nghiện ma túy không
ngừng tăng qua các năm, đặc biệt là các tỉnh thành phía Nam, như Bà Rịa – Vũng Tàu,
Đà Nẵng... trong 20 năm từ 1994–2014 đã có 583.900 lượt người được cai nghiện.
Trung bình mỗi năm cai nghiện cho 29.000 người, tương đương với 26% số người
nghiện có hồ sơ quản lý trung bình hàng năm” (19). Bên cạnh đó, những vụ án giết người
hàng loạt xảy ra ở trẻ vị thành niên, thanh niên với mức độ và tính chất đặc biệt nghiêm
trọng, điển hình như vụ Lê Văn Luyện (Bắc Giang), Nguyễn Hải Dương (Bình
Dương)… đã dấy lên hồi chuông cảnh báo về sự “tha hóa nhân cách” con người.
Đây là một hiện tượng nhức nhối trong xã hội, có nhiều nguyên nhân: sự buông lỏng
quản lý, giáo dục của gia đình, xã hội; sự thực thi pháp luật thiếu nghiêm minh; sự trỗi
dậy của chủ nghĩa cá nhân,…
Thứ hai, sự đứt gãy hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa giữa các thế hệ. Đây là một hạn
chế trong công tác chăm lo, phát triển con người mà Đại hội XII cho rằng một trong
những nguyên nhân là “tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc
sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ
phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”, “Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương
mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng dư luận và xây

dựng con người” (20).
Trong thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin, sự phát triển nhanh như vũ bão của
internet, mạng xã hội; báo điện tử; kênh truyền hình giải trí… mang lại những thông tin
bổ ích, tạo điều kiện cho con người tiếp cận thông tin thuận tiện dễ dàng; khả năng chia
sẻ, kết nối cao… Bên cạnh đó cũng để lại nhiều hệ lụy như: nạn nghiện game online;
Trang 17


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

sự gia tăng ngôn ngữ tiếng lóng, ngôn từ ký hiệu làm méo mó và mất đi sự trong sáng
của tiếng Việt; nhiều bạn trẻ lệ thuộc vào không gian ảo đã đánh mất đi những giá trị
thực... khiến mỗi cá nhân là một không gian kép kín thiếu sự gắn kết, chia sẻ giữa các
thành viên, thiếu sự quan tâm đến các vấn đề xã hội và làm giảm trách nhiệm của cá
nhân với cộng đồng.
Hiện tượng sống thử trước hôn nhân; nạn nạo phá thai tuổi vị thành niên, tình trạng
ly hôn trong các gia đình trẻ gia tăng. Những rạn nứt trong cung cách ứng xử, lối sống
giữa các thế hệ trong cùng một gia đình diễn biến phức tạp, nhiều mâu thuẫn khó có thể
điều hòa. Bạo hành gia đình giữa vợ – chồng, cha mẹ – con cái; tranh giành tài sản đất
đai… tạo ra những rào cản, xung đột ngầm giữa các thế hệ trong bối cảnh chuyển đổi,
tìm kiếm và thiết lập những mô hình gia đình phù hợp.
Thứ ba, sự trỗi dậy của những thói quen xấu. Đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp
lậc hậu, từng là thuộc địa của thực dân, đế quốc, con người Việt Nam bên cạnh những
đức tính, phẩm chất tốt vẫn còn nhiều thói quen xấu: chủ nghĩa cơ hội, bè phái; hám
danh; thiếu ý thức tuân thủ pháp luật; lãng phí; khả năng làm việc tập thể chưa cao…
Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở nên Người
hơn, nhưng thực tế trong những năm qua, việc tạo dựng môi trường văn hóa chưa được
quan tâm đúng mức khiến cho việc giáo dục, hình thành những giá trị nhân cách tốt đẹp

trong con người chưa hiệu quả. Con người vẫn phải sống trong những môi trường thiếu
lành mạnh, trong sạch, bị những sản phẩm, hiện tượng phi văn hóa cám dỗ. Điều này
đã được Văn kiện Đại hội XII thẳng thắn nhìn nhận: “Đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi,
vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi
trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần
phong mỹ tục” (21).
Để tạo dựng hình ảnh Việt Nam với tình hình chính trị ổn định; con người thân thiện,
lịch sự, mến khách; có bề dày truyền thống lịch sử – văn hóa lâu đời… thì việc quan
tâm chăm lo xây dựng những con người mới – những chủ nhân của đất nước phải được
tiến hành đồng bộ với chương trình, mục tiêu cụ thể, lâu dài, bảo đảm cho sự phát triển
bền vững.
________________________
(18)

/>nam–qua–on–dinh–20141209131112577.htm
(19)
/>(20), (21)
/>5331201610194346.html

Trang 18


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

II.2.3. Những định hướng cho việc xây dựng và phát triển con người Việt
Nam
Để phát huy những điểm mạnh, những nhân tố tích cực, đồng thời hạn chế, khắc phục

những yếu kém của con người Việt Nam, trong chỉ thị, Nghị quyết, Đảng đã chỉ ra
những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp căn bản là:
Thứ nhất, về xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống. Chăm lo xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồ i dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, đa ̣o đức, lối sống và nhân cách. Ta ̣o chuyể n biế n ma ̣nh mẽ về nhận thức, ý thức tôn
trọng pháp luâ ̣t, mọi người Viê ̣t Nam đều hiể u biế t sâu sắ c, tự hào, tôn vinh lich
̣ sử, văn
hóa dân tô ̣c. Xây dựng con người có thế giới quan khoa ho ̣c, hướng tới chân – thiện –
mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, của
kinh tế tri thức và xã hội học tập. Mặt khác, cần đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn
của con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Xây dựng và phát
huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; hình thành lối sống
có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi
trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm
cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Mặt khác, cần khẳng định, tôn vinh cái
đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
Thứ hai, chú trọng vấn đề an ninh con người, với những nhiệm vụ cụ thể như: Đấu tranh
phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai
trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải
pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn
chế của con người Việt Nam. Đồng thời, phải quan tâm xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống
chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con
người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
văn minh. Xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn

luyện con người. Xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới,
việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào "Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa". Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát huy các giá
trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng.

Trang 19


Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

Thứ ba, bồi dưỡng, giáo dục những giá trị nhân văn cho con người, thông qua việc tăng
cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt
là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học – nghệ thuật trong việc bồi dưỡng
tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của
mỗi người dân và của cộng đồng.
Thứ tư, nâng cao thể lực, sức khỏe, tuổi thọ cho con người, gắn với việc giáo dục thể
chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Xây dựng phát triển con người là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công CNXH
ở Việt Nam. Bởi “muốn xây dựng CNXH thì trước hết phải có những con người xã hội
chủ nghĩa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Vì thế, việc xây dựng, hình thành
nên những người Việt Nam có phẩm chất, năng lực, “vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm
vụ trọng tâm trong các chương trình, kế hoạch của các cấp, các ngành.

Trang 20



Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Vân

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin về con người: />van/tieu–luan–quan–diem–triet–hoc–mac–lenin–ve–con–nguoi–va–van–de–xay–
dung–nguon–nhan–luc–con–nguoi–trong–su–nghiep–cong–61095/
[2]. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người: />tuong–Ho–Chi–Minh/Tu–tuong–Ho–Chi–Minh–ve–con–nguoi/49793.bcb
[3]. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của con người:
/>vai–trò–của
[4]. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”:
/>chien–luoc–trong–nguoi–cong–tac–can–bo.html
[5]. Đánh giá đặc điểm của người Việt Nam:
/>[6]. Xây dựng con người Việt Nam toàn diện: những thách thức và giải pháp khắc
phục: />dung–con–nguoi–viet–nam–toan–dien–nhung–thach–thuc–va–giai–phap–khac–
phuc.html

Trang 21



×