Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.19 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Luật giáo dục số 38/2005/ QH11, Điều 27.1 chỉ rõ: "Mục tiêu của giáo dục
phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Để đạt được mục tiêu trên, bộ môn Ngữ văn đã góp phần không nhỏ. Với sự
tích hợp ba phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn, môn Ngữ văn không chỉ
trang bị tri thức mà còn rèn luyện kỹ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái
độ cho học sinh. Trong đó, phân môn Làm văn có tầm quan trọng đặc biệt. Với
cấu trúc đề thi hiện hành thì chỉ tính riêng phần Làm văn đã chiếm hơn 2/3 số
điểm cả bài (7/10 điểm). Kết quả của 12 năm cắp sách đến trường và tương lai
của các em một phần được quyết định bởi phần Làm văn này.
Tuy nhiên, nếu các giờ Đọc văn khơi gợi được nhiều hứng thú cho giáo viên
và học sinh trong hoạt động dạy cũng như hoạt động học, sự yêu thích môn Ngữ
Văn phần lớn cũng bắt nguồn từ đây, thì không khí và hiệu quả các giờ Làm văn
thực sự không được như mong muốn của cả người dạy lẫn người học. Không khí
nhiều giờ học trở nên tẻ nhạt, nặng nề, “thiếu lửa”. Có giáo viên dạy cho hoàn
thành nhiệm vụ còn học sinh thì thụ động, lười suy nghĩ, ngại phát biểu xây
dựng bài hoặc nếu bị buộc phát biểu thì trả lời cho qua chuyện. Khi làm văn, học
sinh viết những câu văn, bài văn nghèo nàn, ngô nghê về ý tứ, lủng củng trong
diễn đạt. Hiệu quả dạy học bộ môn vì thế cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.
Kết quả các kỳ thi gần đây cho thấy môn Ngữ văn vẫn có rất ít những bài
đạt điểm cao, mà phần lớn các bài thi chỉ đạt điểm trung bình, thậm chí dưới
trung bình. Trong đó nhiều bài làm của học sinh khiến người chấm chưa hài lòng
vì những sai sót quá cơ bản như sai chính tả, sai kiến thức, lỗi diễn đạt, viết mà
không hiểu mình viết những gì,…Có nhiều bài viết chưa xác định rõ ràng được
hệ thống luận điểm, luận cứ; có nhiều học sinh chưa nắm vững được quy trình


làm một bài văn, chưa làm chủ được các thao tác lập luận và các công việc cần
thiết của tiến trình xây dựng một văn bản. Đa số các em còn làm văn theo cảm
tính, chưa có thói quen suy nghĩ, trăn trở về đề, về yêu cầu của đề, về cách tìm ý,
sắp xếp ý, về kết cấu văn bản,...Đó là những thiếu sót phổ biến trong kĩ năng
làm văn nghị luận của học sinh hiện nay.
1


Năm học 2015- 2016, tôi được phân công dạy 3 lớp 11B3, 11B5, 11B6.
trong đó có 2 lớp học thêm buổi chiều tại trường: 11B3, 11B5. Đây cũng là
những lớp tôi dạy từ năm học trước. Công bằng mà nói, dù mấy năm gần đây,
chất lượng đầu vào trường THPT Nguyễn Trãi đã có nhích lên nhưng so với một
số trường cùng địa bàn thì vẫn là khiêm tốn. Chính vì vậy, dù cả thầy và trò đã
cố gắng thì kết quả năm học trước và ở HKI năm học này vẫn khiến tôi trăn trở.
Tôi thấy, một trong những nhược điểm của đa số HS nói chung, HS THPT
Nguyễn Trãi nói riêng đó là chưa có phương pháp tiếp nhận kiến thức và chưa
tích cực rèn luyện các kỹ năng. Mà một trong những kỹ năng của phân môn Làm
văn là: tìm hiểu đề, lập dàn ý. Chính vì vậy, sang HKII của năm học này, tôi đã
chú trọng rèn luyện những kỹ năng đó cho HS, đặc biệt là HS ở hai lớp 11B3,
11B5 (có thời gian học thêm buổi chiều), và thực tế đã cho những kết quả nhất
định.
Đó là lí do tôi chọn đề tài: Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn
nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

- Giúp học sinh nắm được những phương pháp và kĩ năng cơ bản để tìm
hiểu đề, lập dàn ý một bài văn nghị luận.
- Giúp học sinh nâng cao khả năng viết bài văn nghị luận.
- Có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên Ngữ văn.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


Văn nghị luận có mặt trong chương trình Ngữ văn từ bậc trung học cơ sở
đến bậc trung học phổ thông. Tuy nhiên trong khuôn khổ của sáng kiến kinh
nghiệm này, tôi chỉ đề cập đến một phần của rèn luyện kỹ năng làm văn, đó là kỹ
năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT (chủ
yếu là ở HKII).
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp liệt kê.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp thống kê phân loại.
+ Phương pháp điều tra, tổng hợp.

2


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28.2 quy định: “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã đặt trọng tâm vào việc đổi
mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định
trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo

hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở
cho người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực" .
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 ban hành kèm theo
Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/06/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ:
"Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện
theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự
học của người học".
Bộ GD&ĐT cũng đã chỉ đạo và đề ra một trong những nhiệm vụ trọng tâm
năm học 2015 - 2016 là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, đánh
giá học sinh nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện
phương pháp tự học của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành, vận dụng kiến
thức, kĩ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn;
Trên tinh thần đó, Sở GD&ĐT Thanh Hóa cũng đã xác định nhiệm vụ
trọng tâm năm học 2015 - 2016: Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
học sinh...; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; tăng
cường kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức; tập trung dạy cách học cách nghĩ,
khuyến khích tự học; bảo đảm cân đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ
năng và định hướng thái độ, hành vi cho học sinh;
Như vậy, phương châm học đi đôi với hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng
vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, rèn phương pháp tự học, ... đã và đang trở
thành một trong những nội dung cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học trong
các nhà trường phổ thông, trong đó có đổi mới PPDH môn Ngữ văn.
3


II. THỰC TRẠNG


1. Về nội dung chương trình
Chương trình Ngữ văn THCS và THPT là đồng tâm. Hầu hết kiến thức về
Làm văn HS đã được tiếp nhận ở THCS qua phân môn Tập làm văn. Về văn
nghị luận, HS đã được học chủ yếu là ở lớp 7 (15 tiết) và lớp 9 (11 tiết). Chương
trình chuẩn Ngữ văn THPT có 71 tiết giành cho văn nghị luận. Trong đó, số tiết
học lí thuyết và thực hành luyện tập là 27, số tiết làm bài viết định kỳ và bài
kiểm tra cuối kỳ là 26, số tiết trả bài là 18. Ở lớp 11, văn nghị luận có 25 tiết.
Tuy nhiên, số tiết dành cho rèn kỹ năng viết văn nghị luận lại quá ít ỏi: chỉ có 1
tiết (Tiết 8: Phân tích đề, lập dàn ý) .
2. Về phía Nhà trường
Nhà trường cũng đã có kế hoạch phụ đạo, giành thời gian cho HS củng cố
kiến thức, rèn luyện kỹ năng nhưng mới chỉ ở những lớp Cơ bản C,D và lớp 12.
Trong khi đó, phần đông HS học yếu hoặc không thích học Văn, ngại viết Văn
thì lại tập trung chủ yếu ở các lớp Cơ bản A, B.
3. Về phía giáo viên
Trong quá trình giảng dạy của bản thân cũng như tích cực dự giờ đồng
nghiệp, tôi thấy các thầy, cô giáo đã chú ý đến rèn kỹ năng viết văn nghị luận
cho HS. Tuy nhiên, do thời lượng chương trình hạn chế nên không có nhiều điều
kiện bổ sung kiến thức lý thuyết cũng như hướng dẫn HS thực hành luyện tập.
4. Về phía học sinh
Số học sinh nắm vững lý thuyết và có ý thức rèn kỹ năng làm bài văn nghị
luận không nhiều. Đặc biệt là HS trường THPT Nguyễn Trãi với chất lượng đầu
vào còn khiêm tốn thì đa phần các em thường ngợp và ngại trước các đề bài,
nhất là gặp những đề mở, đề khó. HS thường không suy nghĩ thực sự nghiêm
túc, không có những trăn trở sâu sắc, thậm chí còn không nắm vững các bước
làm bài.
Tôi đã tiến hành khảo sát thực tế và kết quả như sau:
* Khối 11:
+ Kiểm tra HKI (ngày 18/12/2015, 3 lớp 11: B3, B5, B6): có 76/135 HS có
tìm hiểu đề, lập dàn ý trước khi viết bài .

+ Bài viết số 5 (ngày 14/01/2016 tại lớp 11B6): có 8/44 HS có tìm hiểu đề,
lập dàn ý trước khi viết bài .
4


* Khối 12: Khảo sát chất lượng THPT quốc gia (ngày 14/04/2016 theo kế
hoạch của Sở GD&ĐT, 5 phòng thi): có 23/116 HS có tìm hiểu đề, lập dàn ý
trước khi viết bài .
Kết quả khảo sát trên cho thấy: hầu hết HS không có ý thức tìm hiểu đề,
lập dàn ý trước khi viết bài, nhất là HS lớp 12. Thực tế cũng cho thấy kĩ năng
tìm hiểu đề, lập dàn ý của học sinh rất yếu. Các em không có thói quen tìm hiểu
đề, lập dàn ý (ta quen gọi là nháp) trước khi viết bài. Vì vậy mà các em rất lúng
túng khi bắt đầu và thường thì nghĩ đến đâu, viết đến đó, dẫn đến viết không
đúng yêu cầu của đề bài, thậm chí là lạc đề.
III. GIẢI PHÁP

1. Giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc tìm hiểu đề, lập
dàn ý
Tìm hiểu đề, lập dàn ý là những công việc đầu tiên, rất cần thiết, giúp cho
HS xác định đúng vấn đề, phương pháp nghị luận và giới hạn phạm vi tư liệu..
Việc tìm hiểu đề, lập dàn ý cũng giúp HS triển khai ý cân xứng, phân bố thời
gian hợp lí, không bị rơi vào tình trạng "đầu voi đuôi chuột" hoặc ngược lại.
2. Giúp HS tìm hiểu đề
* Trước hết, GV cần chỉ cho HS thấy đây là công đoạn không thể bỏ qua
khi làm bài văn nghị luận, và tìm hiểu đề chính là tìm hiểu 3 yêu cầu của đề:
- Yêu cầu về nội dung .
- Yêu cầu về phương pháp/thao tác lập luận.
- Yêu cầu về phạm vi tư liệu/dẫn chứng.
* Trong những năm gần đây, cùng với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá là
đổi mới việc ra đề. Các đề thi không còn nói rõ các yêu cầu như trước kia (đề

nổi, đề khép) mà thay vào đó, đề bài chỉ nêu lên một đề tài, một vấn đề để người
viết bàn luận và làm sáng tỏ (đề chìm, đề mở). Người viết sẽ tùy vào nội dung
vấn đề, đề tài đó mà lựa chọn và quyết định các thao tác nghị luận phù hợp.
Chính vì thế, việc tìm hiểu đề trước khi viết bài lại càng trở nên cần thiết.
* Phương pháp chung là:
- Đọc thật kĩ đề ra;
- Tìm từ hoặc cụm từ then chốt có chứa ẩn ý được gọi là từ khóa hay cụm
từ khóa;
- Giải mã các từ khóa để tìm ra yêu cầu trọng tâm của đề bài;
- Xác định các thao tác lập luận và phạm vi tư liệu.
5


Với đề nghị luận văn học về cảm nhận bài thơ, đoạn thơ, HS có thể dựa
vào mục Kết quả cần đạt và Ghi nhớ của bài học, dựa vào nội dung chính của
từng đoạn thơ, khổ thơ để định hướng cho việc xác định luận đề.
3. Giúp HS tìm ý (lập ý)
Kiến thức về tìm ý HS đã được học ở HKII lớp 7, tuy nhiên lên THPT các
em ít khi vận dụng vào viết bài văn nghị luận. Hầu hết học sinh hiện nay thường
không thiết lập hệ thống ý trước khi viết bài. Các em thường nghĩ đến đâu, viết
đến đấy nên bài viết thường lan man, ý lộn xộn, thiếu ý hoặc các ý trình bày
trùng lặp.
Trước thực tế đó, tôi đã giúp HS cách tìm ý để các em không cảm thấy
ngại và lúng túng khi đứng trước một đề văn. Một trong những cách tương đối
có hiệu quả là người viết đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả lời. Việc đặt ra các
câu hỏi thực chất là soi sáng đối tượng dưới nhiều góc độ, lật đi lật lại vấn đề để
tìm hiểu, xem xét kỹ càng và thấu đáo hơn.
Cụ thể:
* Với đề Nghị luận xã hội: các luận điểm chính là cấu trúc của bài văn.
Học sinh chỉ cần dựa vào trình tự các bước để thiết lập luận điểm. Mặc dù đến

lớp 12 các em mới được cung cấp lý thuyết kiểu bài nhưng trong thực tế các em
đã viết bài văn nghị luận xã hội từ THCS. Vì vậy, GV có thể đưa ra cách làm
như sau:
- Thông thường, bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí có các nội dung:
+ Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận;
+ Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan
đến vấn đề bàn luận;
+ Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng đạo lí.
(Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 1, NXB giáo dục, trang 21)
- Bài nghị luận về một hiện tượng đời sống thường có các nội dung:
+ Nêu rõ hiện tượng;
+ Phân tích các mặt đúng - sai, lợi - hại;
+ Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện
tượng xã hội đó.
(Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 1, NXB giáo dục, trang 67)
* Với đề Nghị luận văn học, hệ thống luận điểm thường là hệ thống các ý
chính khi đọc hiểu văn bản.
6


4. Giúp HS lập dàn ý
Nếu bài văn nghị luận là ngôi nhà thì dàn ý có thể xem như rường cột vậy.
Dàn ý là "cốt lõi" của bài văn và việc lập dàn ý là khâu quan trọng có tính quyết
định đến kết quả. Tuy nhiên, hầu hết HS chỉ lơ mơ hiểu lí thuyết và không
thường xuyên rèn kỹ năng nên khi luyện tập, thực hành viết bài văn thì ngại, làm
qua loa, đại khái (chỉ viết đoạn mở bài) hoặc không làm. Để khắc phục điều đó,
khi giảng dạy trên lớp, tôi đã chú ý rèn kỹ năng lập dàn ý cho HS trong các tiết
Trả bài, Ôn tập. Thực tế, HS có thể lập dàn ý đại cương hoặc dàn ý chi tiết tùy
vào thời lượng, mức độ yêu cầu của từng loại đề bài. Thường thì ở bài kiểm tra
15 phút hoặc yêu cầu chỉ viết một đoạn văn (câu 4, câu 8 trong phần Đọc hiểu đề thi THPT quốc gia) thì HS chỉ cần lập dàn ý đại cương. Việc lập dàn ý đại

cương có thể vận dụng kết quả của phần Lập ý, tìm ý trước đó. Sau đây là cách
Lập dàn ý thông thường mà tôi đã giúp HS rèn luyện trong thực tế dạy và học bộ
môn.
4.1. Lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội
4.1.1. Với bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
a. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu tư tưởng đạo lí ở đề bài, giới thiệu vấn
đề; Trích dẫn ý kiến, nhận định (nếu có).
b. Thân bài:
- Giải thích tư tưởng đạo lí được dẫn trong đề.
- Bàn luận:
+ Phân tích, chứng minh những mặt đúng của tư tưởng đạo lí cần bàn
luận.
+ Phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề đang
bàn luận.
+ Bình luận, đánh giá: Ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đối với đời sống xã
hội: mặt tích cực, tiêu cực, đúng hay chưa đúng của tư tưởng đạo lí; Mở rộng,
nâng cao vấn đề: có thể đưa ra phản đề để khẳng định luận đề, mở rộng nâng cao
vấn đề lên mức độ khái quát thành quan niệm sống, triết lí sống; Bài học về
nhận thức, hành động.
c. Kết bài: Khẳng định chung về tư tưởng đạo lí; gửi thông điệp.
7


4.1.2. Với bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
a. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu hiện tượng đời sống cần bàn luận.
b. Thân bài:
- Nêu thực trạng của hiện tượng, phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại.
- Tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng.
- Bày tỏ thái độ, ý kiến về hiện tượng xã hội đó.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể đối với hiện tượng.

c. Kết bài: Khẳng định về hiện tượng đời sống đã bàn; gửi thông điệp.
4.1.3. Lưu ý
- Việc tách bạch nghị luận về tư tưởng đạo lí với nghị luận về một hiện
tượng đời sống thực ra chỉ mang tính tương đối. Với xu hướng ra đề như hiện
nay, thường có sự kết hợp giữa hai kiểu bài này. GV cần hướng dẫn cho HS cách
làm cụ thể để tránh bị xa đề, lạc đề. Trước hết, cần giới thiệu vấn đề cần bàn
luận. Sau đó, bàn về các mặt đúng - sai, lợi - hại, tích cực - tiêu cực của vấn đề.
Cuối cùng, rút ra bài học nhận thức và hành động của bản thân.
- Còn có kiểu đề nghị luận xã hội dưới dạng một câu chuyện thì ngoài các
bước cơ bản, các em cần lưu ý thêm:
+ Mở bài: buộc phải giới thiệu câu chuyện và vấn đề đặt ra trong câu
chuyện.
+ Thân bài: bước đầu tiên là phải nêu vắn tắt nội dung câu chuyện để rút
ra ý nghĩa và dẫn đến vấn đề xã hội cần nghị luận.
+ Kết bài: đánh giá được ý nghĩa của vấn đề xã hội trong câu chuyện.
4.2. Lập dàn ý bài văn nghị luận văn học.
4.2.1. Dạng bài cảm nhận về một bài thơ, đoạn thơ
a. Mở bài:
- Giới thiệu xuất xứ của bài thơ/đoạn thơ cần nghị luận.
- Nêu ý khái quát nhất về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ/bài thơ.
- Ghi lại bài thơ/đoạn thơ (nếu dưới 10 dòng).
b. Thân bài:

8


- Nêu khái quát nội dung bài thơ và đoạn thơ. (Nếu đoạn thơ thì vẫn giới
thiệu bài thơ).
- Lần lượt cảm nhận, bình luận từng ý thơ (Trong quá trình nghị luận, cần
tránh diễn xuôi ý thơ, phải chú ý chọn lọc và bám sát các phương tiện nghệ

thuật: từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, giọng điệu, các biện pháp tu từ...; Căn cứ vào
cảm nhận ở từng câu, từng khổ, có thể liên hệ so sánh với một số bài thơ khác có
cùng đề tài để làm rõ hơn bài thơ/ đoạn thơ đang đọc hiểu, cảm nhận) .
- Đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ/bài thơ.
c. Kết bài
- Tóm lược nội dung đã nghị luận;
- Đánh giá những giá trị nổi bật về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của
bài thơ/ đoạn thơ...
4.2.2. Dạng bài cảm nhận về hai đoạn thơ/bài thơ.
a. Mở bài.
- Giới thiệu 2 tác giả, 2 bài thơ (2 đoạn thơ);
- Giới thiệu vấn đề nghị luận (nếu có).
b. Thân bài:
- Lần lượt cảm nhận từng đoạn thơ (về nội dung và nghệ thuật);
- Chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt của mỗi bài thơ, đoạn thơ (về nội
dung và nghệ thuật );
-> Tìm ra nguyên nhân (lí giải sự khác biệt ) và ý nghĩa.
Từ đó khẳng định những nét độc đáo, giá trị riêng của mỗi bài thơ, đoạn
thơ.
c. Kết bài:
- Đánh giá giá trị của mỗi bài thơ, đoạn thơ;
- Những cảm nhận về phong cách sáng tác của mỗi nhà thơ.
4.2.3. Lưu ý: cần tránh việc cảm nhận thơ thành diễn xuôi, cũng cần chú trọng
các yếu tố hình thức trong thơ để tìm ra nội dung cảm xúc gửi gắm trong từng
yếu tố như vần, thanh, nhịp điệu, các biện pháp tu từ, các từ ngữ, hình ảnh...
4.3. Lập dàn ý bài văn nghị luận bàn về hai ý kiến/ hai vấn đề.
9


4.3.1. Định hướng chung: Đây là dạng đề khá phức tạp vì có liên quan tới nhiều

phương diện, nhiều chiều nhận thức, đòi hỏi ở học sinh nhiều kiến thức, kĩ năng,
đặc biệt là kĩ năng tổng hợp, phản biện, đánh giá vấn đề.
Thực tế cho thấy trong đề thi tuyển sinh ĐH - CĐ những năm gần đây,
dạng đề này đã được áp dụng với cả hai kiểu bài Nghị luận xã hội và Nghị luận
văn học. Để đáp ứng tốt yêu cầu của dạng đề nghị luận bàn về hai ý kiến, trước
hết cần có nhận thức đúng về dạng bài này, tránh suy nghĩ bài làm chỉ là sự
“ghép” lại của hai bài văn độc lập. Các đề bài về hai ý kiến thường có hình thức
bao gồm hai nhận định tách rời. Các ý kiến / vấn đề ở dạng đề này bao giờ cũng
có liên quan và thường được đặt trong những mối quan hệ hoặc tương đồng,
hoặc bổ sung hoặc tương phản – trái chiều với nhau. Việc xác định đúng các mối
quan hệ giữa hai ý kiến, hai vấn đề để từ đó định hướng lập luận là rất quan
trọng khi làm bài. Với hai ý kiến / vấn đề có tính chất tương đồng, cần kết hợp
lại để từ đó bàn luận, khẳng định chung; với hai vấn đề có tính chất bổ sung
(thực chất là hai mặt, hai khía cạnh của cùng một vấn đề) lại cần tách ra phân
tích, bàn luận riêng sau đó mới kết hợp lại ; với hai vấn đề có tính chất đối lập –
tương phản lại phải làm công việc loại trừ, thuyết phục, định hướng người đọc
vào ý kiến đúng đắn.
4.3.2. Cách làm cụ thể
a. Với kiểu bài nghị luận xã hội
* Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề, dẫn các ý kiến.
* Thân bài:
- Giải thích:
+ Ý kiến 1:
+ Ý kiến 2:
=> Kết luận của người viết
- Bàn luận: (phân tích, chứng minh, bình luận)
+ Ý kiến 1:
+ Ý kiến 2:
=> Quan điểm của người viết: đồng tình với một trong hai ý kiến hoặc kết
hợp, bổ sung hai ý kiến.

10


- Bài học nhận thức, hành động.
* Kết bài: khẳng định lại vấn đề, ý kiến đã bàn; gửi thông điệp.
b. Với kiểu bài nghị luận văn học
* Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, ý kiến/nhận định .
* Thân bài:
- Giải thích ý kiến:
+ Nội dung ý kiến 1:
+ Nội dung ý kiến 2:
- Phân tích, chứng minh ý kiến:
+ Ý kiến 1:
+ Ý kiến 2:
+ Quan điểm của người viết: đồng tình với một trong hai ý kiến hoặc kết
hợp, bổ sung hai ý kiến.
* Kết bài: khẳng định, mở rộng, nâng cao vấn đề.
5. Một số đề bài luyện tập rèn kỹ năng
5.1. Rèn kỹ năng: Tìm hiểu đề
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: “Một người khi đã đánh mất niềm tin vào bản
thân thì sẽ đánh mất thêm nhiều thứ quí giá khác”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý
kiến trên.
Gợi ý:
- Vấn đề cần bàn luận (luận đề) : vai trò, tầm quan trọng của lòng tự tin.
- Phương pháp: kết hợp các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng
minh, bình luận.
- Phạm vi dẫn chứng: đời sống xã hội.
Việc tìm hiểu đề có tác dụng giúp HS xác định đúng hướng, đúng trọng
tâm yêu cầu của đề. Những em vội vàng, hấp tấp, bỏ qua công đoạn tìm hiểu đề
sẽ dễ bị lạc đề.

5.2. Rèn kỹ năng: Tìm ý
Đề bài: Mạch cảm xúc, luận lí trong bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu?
Gợi ý:
11


- Bài thơ là mạch cảm xúc mãnh liệt, tuôn trào nhưng vẫn theo mạch luận
lí chặt chẽ:
+ Tình yêu cuộc sống tha thiết (phần 1).
+ Nỗi băn khoăn về sự trôi chảy của thời gian và sự ngắn ngủi của kiếp
người (phần 2).
+ Lời giục giã sống vội vàng, cuống quýt (phần 3).
- Trong đó mỗi đoạn đều trả lời câu hỏi để làm sáng tỏ nội dung chủ đề:
+ Vì sao phải sống “vội vàng” ?

vì cuộc đời quá đẹp (Phần 1);
vì cuộc sống ngắn ngủi (Phần 2).

+ Sống “vội vàng” là sống như thế nào? Sống cao độ, sống hết mình
(Phần 3).
Như vậy, 3 đoạn thơ vận động vừa rất tự nhiên về cảm xúc, vừa rất chặt
chẽ về luận lí.
5.3. Rèn kỹ năng: Lập dàn ý
Đề 1: William James - nhà tâm lý học và triết gia người Mỹ đã nói: "Hành
động có thể không mang tới hạnh phúc, nhưng không có hạnh phúc nào lại thiếu
hành động".
Câu nói trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
GV cho HS làm độc lập hoặc theo nhóm, sau đó trình bày trên bảng, lớp
thảo luận, bổ sung và cuối cùng GV cung cấp cho HS dàn ý như sau:
a. Mở bài: dẫn dắt, giới thiệu vấn đề: vai trò của hành động trong việc tạo

nên hạnh phúc.
b. Thân bài:
* Giải thích:
- "Hạnh phúc" là gì ? là cảm giác vui sướng của con người khi đạt được ý
nguyện.
- "Hành động": những việc làm cụ thể của con người để đạt được mục đích.
- "Hành động có thể không mang tới hạnh phúc": không phải việc làm nào
của con người cũng mang lại hạnh phúc.
- "không có hạnh phúc nào lại thiếu hành động": hạnh phúc không tự đến;
muốn có hạnh phúc con người phải hành động chủ động, tích cực.
12


=> mối liên hệ "hành động" và "hạnh phúc", trong đó đặc biệt nhấn mạnh
vai trò của hành động trong việc tạo nên hạnh phúc đích thực.
* Bàn luận:
- "Hành động có thể không mang tới hạnh phúc":
+ Phê phán những hành động xuất phát từ mục đích xấu hoặc không đúng
phương pháp.
+ Khi đó nó dễ khiến ta bất chấp tất cả, và vì vậy mà dẫu có đạt được thì
hạnh phúc ấy cũng khó được trân trọng.
(Dẫn chứng: khi HS dùng mọi cách để chép bài của bạn hoặc giở tài liệu
trong giờ kiểm tra)
- "không có hạnh phúc nào lại thiếu hành động":
+ hạnh phúc không đến với ai thụ động, lười biếng và chỉ biết chờ đợi;
+ những hành động cao đẹp, ý nghĩa sẽ đem lại lợi ích, hạnh phúc cho bản
thân, góp phần mang lại hạnh phúc cho người khác, giúp ta tự tin, nâng mình và
khẳng định mình.
- Bàn về mối liên hệ giữa hành động và hạnh phúc: mối quan hệ nhân quả.
Không hành động hoặc hành động xấu, hành động trong vô thức sẽ dẫn tới bất

hạnh, khổ đau. Nhưng nếu mỗi người luôn làm và làm được những điều tốt thì
hạnh phúc sẽ luôn mỉm cười, trong tầm tay.
* Bài học:
- Xác định mục đích tốt đẹp, nỗ lực hành động, trân trọng hạnh phúc có
được.
- Hành động xuất phát từ suy nghĩ, để có được hành động đẹp phải có suy
nghĩ đúng, phương pháp phù hợp, lí trí tỉnh táo -> mỗi người cần trau dồi phẩm
chất, đạo đức .
c. Kết bài: khẳng định lại vấn đề; gửi thông điệp.
Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về 13 dòng thơ đầu trong bài Vội vàng của
Xuân Diệu.
(Đề có thể cho đoạn thơ hoặc buộc HS viết lại đoạn thơ trong bài làm)
GV định hướng cho HS theo dàn ý sau:
a. Mở bài: Giới thiệu tác giả, bài thơ và đoạn thơ.
b. Thân bài: Cảm nhận về đoạn thơ:
13


- Cảnh sắc thiên nhiên:
+ Gần gũi, thân quen ( nắng gió, hoa lá, ánh sáng, thanh âm,..)
+ Tươi đẹp, tràn đầy sức sống, niềm vui (đồng nội xanh rì, cành tơ phơ
phất, thần Vui gõ cửa,..)
+ Tình tứ, quyến rũ (ong bướm, tuần tháng mật, ngon như cặp môi gần,...)
+ Diễn tả bằng hình ảnh mới lạ; ngôn từ gợi cảm, tinh tế, biện pháp tu từ,..
- Cái tôi trữ tình:
+ Cái tôi với ý thức cá nhân mạnh mẽ, đầy lòng ham sống : cách nhìn đời
trẻ trung qua lăng kính tình yêu ; con người là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp; tình
cảm thiết tha, rạo rực, đắm say,...
+ Được thể hiện bằng giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp gáp; thể thơ
chuyển đổi linh hoạt ; từ ngữ táo bạo.

c. Kết bài: Đánh giá chung về đoạn thơ: lối thể hiện hiện đại ; cái tôi gắn
bó trần thế, khát khao thụ hưởng ; biểu hiện quan niệm sống tích cực -> "nhà thơ
mới "mới nhất" .
Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng giang - Huy Cận)
GV cung cấp cho HS dàn ý tham khảo:
a. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ:
- Hàn Mặc Tử là nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới, cuộc đời bi thương,
hồn thơ phong phú, kì lạ, sức sáng tạo mạnh mẽ, luôn bộc lộ một tình yêu đau
đớn hướng về trần thế. Đây thôn Vĩ Dạ là thi phẩm xuất sắc thể hiện tấm lòng
thiết tha đến khắc khoải của nhà thơ với thiên nhiên và cuộc sống.
14


- Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới và thơ sau Cách
mạng, hồn thơ đậm chất cổ điển, giàu suy tưởng, triết lí, nổi bật về cảm hứng
thiên nhiên, tạo vật. Tràng giang là bài thơ xuất sắc thể hiện nỗi buồn sầu trước
tạo vật mênh mông, hoang vắng, đồng thời bày tỏ một lòng yêu nước kín đáo.
b. Thân bài: lần lượt cảm nhận từng đoạn thơ
* Về đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ:
- Khung cảnh thiên nhiên trời mây - sông nước chuyển mình vào đêm

trăng với những chia lìa, phiêu tán, chơ vơ; đượm vẻ huyền ảo và buồn hiu hắt;
- Hiện lên một cái tôi đang khát khao vượt thoát nỗi cô đơn, với niềm
mong mỏi đầy phấp phỏng được gặp gỡ, sẻ chia, gắn bó;
- Nghệ thuật: Hình ảnh thơ vừa thực vừa ảo, có tính tượng trưng, giàu sức
gợi; phối hợp tả cảnh ngụ tình với trực tiếp biểu cảm ; kết hợp biến đổi nhịp điệu
với biện pháp trùng điệp; dùng cấu trúc đối lập, phép nhân hoá, câu hỏi tu từ.
* Về đoạn thơ trong bài Tràng giang :
- Bức tranh tràng giang vào lúc hoàng hôn tráng lệ mà rợn ngợp, với mây
chiều chất ngất hùng vĩ, chim chiều nhỏ bé đơn côi;
- Hiện lên một cái tôi trong tâm trạng bơ vơ, lạc lõng của kẻ lữ thứ, chẳng
cần cơn cớ trực tiếp mà mong ước đoàn tụ vẫn cứ dậy lên như sóng trong lòng;
- Về nghệ thuật : Hình ảnh, ngôn từ, âm hưởng đậm chất cổ điển Đường
thi ; Kết hợp thủ pháp đối lập truyền thống với phép đảo ngữ hiện đại, bút pháp
tả cảnh giàu tính tạo hình.
* Về sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn thơ
- Tương đồng: Cùng miêu tả bức tranh thiên nhiên trời - nước, qua đó bộc
lộ nỗi buồn và tình yêu đối với tạo vật và cuộc sống; sử dụng thể thơ thất ngôn
điêu luyện, kết hợp tả cảnh ngụ tình với trực tiếp biểu cảm.
- Khác biệt:
+ Đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ: là nỗi buồn của một người khát khao
sống, thiết tha gắn bó với cõi đời nhưng tự cảm thấy mong manh, vô vọng; chủ
yếu sử dụng những thi liệu trực quan từ trải nghiệm của chính mình.
+ Đoạn thơ trong Tràng giang: bộc lộ nỗi buồn rợn ngợp trước tạo vật
mênh mông, hoang vắng cùng mặc cảm lạc loài của người đứng trên quê hương
mà thấy thiếu quê hương; chủ yếu sử dụng những thi liệu cổ điển.
c. Kết bài: Đánh giá chung về hai khổ thơ, bài thơ và tác giả.
15


Đề 4: Có ý kiến cho rằng: Con đường ngắn nhất để vượt lên khó khăn là

đi xuyên qua nó. Lại có ý kiến khác khẳng định: Hãy học cách ứng xử của dòng
sông, gặp trở ngại, nó vòng đường khác.
Anh/chị có suy nghĩ gì về vấn đề đặt ra ở những ý kiến trên ?
GV định hướng cho HS theo gợi ý sau:
a. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề, dẫn hai ý kiến .
b. Thân bài:
* Giải thích hai ý kiến:
- Ý kiến 1: dũng cảm chấp nhận, chủ động đối mặt, dám đương đầu.
- Ý kiến 2: mềm dẻo, linh hoạt, thay đổi, điều chỉnh để tìm con đường
khác, tránh khó khăn, trở ngại.
=> Hai ý kiến nêu lên hai cách ứng xử khác nhau của con người trước
gian nan, thử thách trong cuộc sống.
* Bàn luận:
- Khó khăn, thử thách là một phần tất yếu của cuộc sống mà con người
cần phải học cách để vượt qua;
+ Ý kiến 1: là cách ứng xử mạnh mẽ, dũng cảm, chủ động, tích cực; là tự
tin vào bản thân, là cách vượt lên chính mình. Tuy nhiên, "con đường ngắn nhất"
cũng là con đường đấy bất trắc, hiểm nguy bởi khó khăn không thể lường trước.
+ Ý kiến 2: là lối sống khôn ngoan, cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo, biết
cách né tránh, đi vòng khi cần thiết, để an toàn hơn và đạt được mục đích. Tuy
nhiên, nếu cứ né tránh sẽ dẫn đến đánh mất cơ hội, e ngại, hèn nhát, bị động.
- Hai ý kiến không đối lập mà bổ sung, hoàn thiện cách ứng xử của con
người trước khó khăn, thử thách.
(Trong quá trình bàn luận cần huy động dẫn chứng từ thực tế cuộc sống,
hoặc trải nghiệm của bản thân để minh họa).
* Bài học nhận thức và hành động:
- Cuộc sống luôn tiềm ẩn những khó khăn, phải biết cách vượt qua nó.
- Phê phán những người nản lòng, chùn bước đễ đầu hàng trước khó khăn.
- Cần phải sâu sắc, nhạy bén để hiểu mình, hiểu hoàn cảnh, để tìm cách
ứng xử phù hợp .

c. Kết bài: Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề đặt ra từ hai ý kiến.
16


Đề 5: Bàn về bài thơ Tràng giang của Huy Cận, có ý kiến cho rằng:
Tràng giang là niềm khắc khoải không gian, là nỗi buồn mênh mang của con
người khi nhận ra cái hữu hạn của đời mình trước đất trời bao la, vô tận. Lại có
ý kiến khác khẳng định: Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do
đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc.
Bằng việc cảm nhận bài thơ, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.
GV định hướng cho HS lập dàn ý theo gợi ý sau:
a. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, dẫn ý kiến.
b. Thân bài:
* Giải thích:
- Nội dung ý kiến 1: nhấn mạnh phong cách thơ Huy Cận qua bài Tràng
giang: nỗi ám ảnh không gian và nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn ngợp của kiếp người.
- Nội dung ý kiến 2: nhấn mạnh ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm: qua việc
ca ngợi non sông, đất nước, bộc lộ và thức tỉnh tình yêu quê hương, đất nước
* Bình luận:
- Ý kiến thứ nhất:
+ "Tràng giang là niềm khắc khoải không gian": Không gian thiên nhiên:
trời rộng - sông dài ; không gian cuộc sống: vắng lặng, hiu hắt,..
+ "....là nỗi buồn mênh mang...": Tự cảm được cái bé nhỏ, đơn côi trước
sự rộng lớn của cuộc đời; cảm giác lạc loài, xa lạ của những con người sống trên
quê hương mình mà cảm giác 'thiếu quê hương".
- Ý kiến thứ hai:
+ "Tràng giang là bài thơ ca ngợi non sông, đất nước": Hình ảnh non
sông, đất nước (dòng sông, con thuyền, bờ bãi, xóm làng,...); nhớ thương da diết
(lòng quê, nhớ nhà,...);
+ "... dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc": lòng yêu nước thầm

kín của tác giả; dấy lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương, đất nước.
- Nhận xét, đánh giá: hai ý kiến không mâu thuẫn, đối lập mà có sự bổ
sung, hỗ trợ làm hoàn thiện nội dung tư tưởng của bài thơ
c. Kết bài: khẳng định lại vấn đề; liên hệ hoàn cảnh đương thời để thấy
được giá trị, ý nghĩa bài thơ.
17


6. Kiểm tra, đánh giá
- GV ra đề và yêu cầu HS tìm hiểu đề, lập dàn ý trong khoảng thời gian
nhất định. Lúc mới đầu luyện tập, có thể cho nhiều thời gian hơn (khoảng 25
phút), sau đó, khi HS đã quen dần thì rút ngắn lại 20 phút, rồi 15 phút.
- GV có thể yêu cầu HS hoàn thành bài tập trên giấy và thu về nhà chấm,
hoặc cho trình bày trên bảng để những HS khác dễ theo dõi, nhận xét, đánh giá
và cho điểm (điểm khuyến khích). Làm như vậy là GV vừa tạo điều kiện cho HS
rèn kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý, vừa tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin
khi trình bày cảm nhận, suy nghĩ, quan điểm, thái độ,... của bản thân.
- Khi làm bài viết định kỳ hoặc kiểm tra học kỳ, tôi đều yêu cầu HS nạp
lại giấy nháp. Chính vì thế mà phần đông các em thấy không thể không tìm hiểu
đề, lập dàn ý trước khi viết bài. Đó cũng là cách để GV theo dõi sự cố gắng, tiến
bộ của HS, làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả học tập, rèn luyện cuối năm học.
IV. HIỆU QUẢ

1. Khảo sát thăm dò ý kiến HS về tầm quan trọng, sự cần thiết và hiệu quả tác
dụng của việc Tìm hiểu đề, lập dàn ý (123 HS/3 lớp). Kết quả như sau:
* Tầm quan trọng:
Số lượng
Tỉ lệ %

Rất quan trọng

31
25,21

Quan trọng
63
51,22

Bình thường
28
22,76

Không quan trọng
1
0,81

* Sự cần thiết:
Rất cần thiết
Số lượng
20
Tỉ lệ %
16,26
* Hiệu quả, tác dụng:
Số lượng
Tỉ lệ %

Hiệu quả tốt
24
19,51

Cần thiết

69
56,10

Bình thường
32
26,02

Không cần thiết
2
1,62

Có hiệu quả
72
58,54

Bình thường
25
20,33

Không hiệu quả
2
1,62
18


2. Thống kê số HS có tìm hiểu đề, lập dàn ý trước khi viết bài văn nghị luận
(trong hai lần kiểm tra học kỳ):
Lớp

Số HS


Kiểm tra HKI

Kiểm tra HKII

11B3

47

32

41

11B5

43

25

33

11B6

45

19

31

Kết quả cho thấy sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của HS về vai trò,

tác dụng của việc tìm hiểu đề, lập dàn ý trước khi viết bài văn nghị luận.
3. Điểm tổng kết bộ môn: ở HKII, số HS khá, giỏi tăng đáng kể so với HKI
Khá, Giỏi

Trung bình

Yếu

Lớp

Số HS

HKI

HKII

HKI

HKII

HK I

HK II

11B3

47

17


26 (03 giỏi)

28

19

02

02

11B5

43

10

18

29

22

04

03

11B6

45


06

13

35

31

04

01

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN

19


1. Rèn kĩ năng làm văn nghị luận (nói chung) và rèn kỹ năng tìm hiểu đề,
lập dàn ý (nói riêng) cho HS là cả một quá trình đòi hỏi năng lực và tâm huyết
của người thầy. Chỉ khi có được các kỹ năng cần thiết đó thì HS mới chủ động,
tự tin khi đứng trước một đề văn, mới có sự say mê, hứng thú học văn và chất
lượng dạy và học bộ môn vì thế mà được nâng cao.
2. Rèn kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận cho HS đạt hiệu quả
cũng đã góp phần thúc đẩy đổi mới PPDH theo đặc trưng bộ môn.
II. KIẾN NGHỊ

1. Các nhà quản lí giáo dục, những người làm chương trình nên có sự điều
chỉnh phù hợp. Nên đưa phần rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận ở lớp 12
(gồm các bài: Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài

văn nghị luận; Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận; Chữa lỗi lập
luận trong văn nghị luận; Diễn đạt trong văn nghị luận) về chương trình lớp 10,
lớp 11. Đồng thời, ở lớp 12 nên tăng thời lượng cho thực hành, luyện tập kỹ
năng tìm hiểu đề, lập dàn ý, kỹ năng mở bài, kết bài (kết hợp luyện đề, giải đề
thi THPT quốc gia) .
2. Với nhà trường THPT, nên cho HS học thêm (buổi chiều) tại trường
môn Ngữ văn ở cả 3 khối nhằm đáp ứng yêu cầu kỳ thi THPT quốc gia .
Trên đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy,
chắc chắn còn mang tính chủ quan và chưa được trọn vẹn, rất mong được đồng
nghiệp góp ý để hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 19 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác

Nguyễn Thị Thêm

20



×