Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Vận dụng phương pháp đối chiếu so sánh, để phát hiện và cảm thụ vẻ đẹp dân tộc trong chùm thơ nôm đường luật, ở chương trình ngữ văn 10 – tập i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.29 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài......................................................................................
1.2 Đối tượng nghiên cứu..............................................................................
1.3 Mục đích nghiên cứu...............................................................................
1.4 Phương pháp nghiên cứu.........................................................................
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.................................................
2.2 Thực trạng của vấn đề…………………………………………………..
2.3 Sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh giúp học sinh phát hiện và
cảm thụ vẻ đẹp dân tộc của chùm thơ Nôm Đường luật trong chương trình
Ngữ văn 10, tập 1…………………………………………………………..
2.3.1 Giới thiệu chung về thơ Đường luật………………………….....
2.3.2 Biểu hiện vẻ đẹp dân tộc trong thơ Nôm Đường luật…………...
2.3.3 Phát hiện và cảm thụ vẻ đẹp dân tộc trong thơ Nôm Đường luật
qua hai bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm bằng phương pháp đối chiếu so sánh……………………………….
2.3.3.1 So sánh đối chiếu về nội dung tư tưởng………………………
2.3.3.2 So sánh đối chiếu về đặc sắc nghệ thuật………………………
2.3.4 Giáo án thực nghiệm…………………………………………….
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm…………………………………..
3. Kết luận
3.1 Kết luận…………………………………………………………………
3.2 Kiến nghị……………………………………………………………….

1
1
1
1
2
2


2
3
3
3
4
4
5
8
12
13
13
13

1


1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài:
- Thơ Nôm nói chung và thơ Nôm Đường luật nói riêng chiếm một vị trí
rất quan trọng trong toàn bộ lịch sử nền văn học Việt Nam. Thơ Nôm Đường
luật đã phản ánh rất phong phú và sâu sắc thế giới tâm hồn của con người Việt
Nam, những điều mà thơ văn chương bác học chữ Hán không thể truyền tải
được do những vấn đề về lịch sử. Sự xuất hiện của thơ Nôm Đường luật là bước
nhảy vọt của quá trình văn học, đồng thời thể hiện tinh thần tự lập, tự cường về
mặt văn hóa của dân tộc Việt trong tương quan với văn hóa, văn học Trung
Quốc.
- Trong chương trình Ngữ văn THPT, phần thơ Nôm Đường luật chiếm
một số lượng lớn với những tác giả tiêu biểu của nền văn học Trung đại và tác
phẩm xuất sắc. Tuy nhiên, việc giảng dạy thơ Nôm vẫn là một thách thức và
chưa đạt được hiệu quả tối ưu. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chắc chắn có một

nguyên nhân quan trọng đó là người dạy chưa bám sát đặc trưng thể loại thơ
Nôm Đường luật. Điều đó, khiến cho học sinh không nhận thấy được sự khác
nhau của một bài thơ Nôm Đường luật so với những bài thơ Đường luật của
Trung Quốc mà các em đã học.
- Để giúp học sinh phát hiện và cảm nhận được vẻ đẹp dân tộc trong thơ
Nôm Đường luật, người giáo viên có thể vận dụng nhiều phương pháp dạy học
khác nhau khác nhau từ truyền thống đến hiện đại. Với tâm huyết của một giáo
viên trẻ, luôn mong muốn đổi mới phương pháp dạy học, tôi đã mạnh dạn viết
sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: Sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh
phát hiện và cảm thụ vẻ đẹp dân tộc trong chùm thơ Nôm Đường luật ở
chương trình Ngữ văn 10, tập 1, cơ bản.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Về phía giáo viên:
Nhằm giúp cho giáo viên nhất là những giáo viên đang trực tiếp dạy văn
lớp 10 có những tư liệu, phương pháp mới trong giảng dạy thơ Nôm Đường luật
- Về phía học sinh:
Giúp học sinh có thêm một phương pháp mới mẻ, khoa học khi tìm hiểu
thơ Nôm Đường luật. Từ đó, khơi dậy hứng thú, khả năng sáng tạo của các em
trong quá trình học văn. Cũng từ việc phân tích những tác phẩm văn học này,
giáo dục cho học sinh niềm tự hào dân tộc.
1.3.Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng mà đề tài hướng tới là đề xuất một phương pháp dạy học thơ
Nôm Đường luật: đối chiếu so sánh. Qua đó làm nối bật vẻ đẹp dân tộc của thơ
Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn 10, tập 1, cơ bản.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Về lí thuyết:
+ Các tài liệu về văn học trung đại, đặc biệt là thơ Nôm Đường luật.
+ Các tài liệu về vẻ đẹp dân tộc trong văn học.
+ Các phương pháp dạy học văn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
2



sáng tạo của học sinh, đặc biệt là phương pháp so sánh.
- Về thực tiễn:
+ Dự giờ một số bài giảng về các tác phẩm thơ Nôm đường luật của đồng
nghiệp.
+ Triển khai đề tài trong các giờ dạy bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
và Nhàn của Nguyễn Bình Khiêm. Giáo viên sẽ áp dụng đề tài vào dạy ở 02 lớp
10A4, 10A8. Lớp đối chứng là 10A2 và 10A6.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
- Đặc điểm của thơ Nôm Đường luật là có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố
Nôm và yếu tố Đường luật. Hai yếu tố này đan xen, hòa quyện với nhau tạo nên
giá trị của một bài thơ Nôm Đường luật. Yếu tố Nôm trong bài thơ Đường luật
đó chính là vẻ đẹp dân tộc. Đó là những cách tân, sáng tạo của các nhà thơ Việt
về nội dung và nghệ thuật để một thể thơ vốn vay mượn của nước ngoài trở nên
gần gũi như một thể thơ dân tộc. Vì vậy, vẻ đẹp dân tộc trong tác phẩm văn học
Trung đại nói chung cũng như thơ Nôm Đường luật nói riêng đã ra đời từ hàng
trăn năm trước vẫn rất gần gũi với thị hiếu thầm mĩ với học sinh ngày nay. Đó là
điều kiện để các em tiếp thu tác phẩm.
- So sánh đối chiếu là phương pháp tương đối phổ biến trong dạy học văn.
So sánh đối chiếu làm nổi bật vấn đề cũng như phát hiện ra vẻ đẹp độc đáo của
tác phẩm văn chương. So sánh đối chiếu cũng là một phương pháp nghiên cứu
khoa học, rèn luyện khả năng tư duy cho học sinh. Vì vậy trong quá trình dạy
học văn, sử dụng phương pháp đối chiếu sẽ phát huy hiệu quả giảng dạy cũng
như hiệu quả tiếp nhận ở học sinh. Đối với việc dạy các tác phẩm thơ Nôm
Đường luật, để giúp học sinh phát hiện và cảm nhận vẻ đẹp dân tộc thì sử dụng
phương pháp đối chiếu so sánh với những bài thơ Đường luật sẽ giúp học sinh
nhận thấy được sự sáng tạo của các tác giả văn học Trung đại.
- Sáng kiến kinh nghiệm này hướng vào hai bài thơ cụ thể là : Cảnh ngày

hè(Bảo kính cảnh giới số 43)của Nguyễn Trãi và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Dù với lứa tuổi này các em chưa thể nhận thức đầy đủ nhưng sẽ là nền móng
cho sự cảm thụ và lí giải các tác phẩm tương tự sau này với một số lượng lớn và
phong phú về tác giả.
2.2 Thực trạng của vấn đề:
- Về phía học sinh :
+ Hiện nay việc học môn của học sinh Ngữ văn nói riêng và các môn học
xã hội nói chung trong nhà trường rất thờ ơ, các em thường ngại và không chăm
chỉ . Việc học với một số đông học sinh mang tính chất đối phó vậy nên các em
không chịu đào sâu, tìm tòi và phát hiện cái hay của môn học.
+Với học sinh lớp 10, vốn kiến thức văn hóa còn hạn chế nên việc tiếp
nhận và cảm thụ những tác phẩm ra đời cách thời đại các em quá xa là một việc
rất khó khăn.
- Về phía giáo viên :

3


+ Trong chương trình Ngữ văn toàn cấp học thì các tác phẩm văn học hiện
đại thường được chú trọng nhiều hơn, dẫn đến học sinh ít chú ý đến các tác
phẩm văn học thời trung đại.
+ Giáo viên chưa thật chú trọng đến các văn bản trung đại vì vậy việc tìm
tòi, khám phá hết những vẻ đẹp của các tác phẩm này còn những khiếm khuyết
nhất định và cũng thường bị lãng quên.
- Kết quả kiểm tra, đánh giá:
Qua thực tế giảng dạy lớp 10 năm học 2015-2016, tôi thấy việc hiểu bài
của các em chưa thật thấu đáo, bài làm thường không phát hiện hết những luận
điểm của đề bài và kết quả không cao. Do đó học sinh không phát hiện được vẻ
đẹp dân tộc trong hai bài thơ. Đây là đề bài tập làm văn số 3 Học kì 1
Đề bài: Vẻ đẹp dân tộc trong hai bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và

Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Năm học 2015 -2016: Lớp 10A2, 10A6, Trường THPT Vĩnh Lộc
Lớp

Sĩ số

10A2
10A6

49
35

Điểm từ 8
trở lên
3
1

Điểm 6-7

Điểm 4-5

15
10

23
17

Điểm dưới
4
10

7

2.3 Sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh giúp học sinh phát hiện và cảm
thụ vẻ đẹp dân tộc của chùm thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ
văn 10, tập 1, cơ bản.
2.3.1. Giới thiệu chung về thơ Đường luật
- Thơ Đường luật: hay còn gọi là thơ luật Đường, một thể thơ xuất hiện từ
đời Đường (Trung Quốc). Như tên gọi thì đây là thể thơ mà có những quy định
rất chặt chẽ về niêm, luật, số câu, số chữ… Một bài thơ được coi là có giá trị khi
nó đảm bảo được những quy định đó của luật thơ. Thơ Đường luật đến nay vẫn
được coi là di sản văn hóa không chỉ của đất nước Trung Quốc mà của cả nhân
loại. Một số thể thơ tiêu biểu của thơ Đường luật như: Thất ngôn bát cú; Thất
ngôn tứ tuyệt; Ngũ ngôn…
- Thơ Nôm Đường luật: là thơ Đường luật được viết bằng chữ Nôm. So
với thơ Đường luật chữ Hán thì thơ Nôm Đường luật xuất hiện muộn hơn nhưng
lại có thế mạnh đặc biệt và càng về sau càng được phổ biến rộng rãi. Hầu hết các
tác giả giai đoạn trung đại đều để lại những bài thơ Nôm Đường luật và có
không ít những bài thơ có giá trị cao. Bên cạnh tuân thủ những quy tắc chặt chẽ
của thơ Đường luật là những cách tân về nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ
thuật rất cá tính để phù hợp với tâm tình nghệ sĩ và cũng là thể hiện tinh thần
dân tộc lớn.
2.3.2 Biểu hiện của vẻ đẹp dân tộc trong thơ Nôm Đường luật.
- Về nội dung: Theo Giáo sư Lã Nhâm Thìn yếu tố Nôm trong thơ Đường
luật được xây dựng bằng hai nội dung: thứ nhất, đó là những gì thuộc về dân
tộc; thứ hai, là những gì thuộc về dân dã bình dị (Nôm là đọc biến âm của Nam
4


và Nôm còn được hiểu là nôm na, dân dã). Vì vậy, về nội dung thơ Nôm Đường
luật hướng tới những vấn đề của đất nước, dân tộc, tình yêu thiên nhiên, hình

ảnh người phụ nữ…. rất gần gũi với tình cảm, suy nghĩ của con người Việt Nam.
- Về nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ: sử dụng chữ Nôm. Là ngôn ngữ của dân tộc, do cha ông ta
sáng tạo nên. Ngôn ngữ rất gần với ngôn ngữ của văn học dân gian cũng như lời
ăn tiếng nói của nhân dân.
+ Về hình ảnh: là những hình ảnh chân thực, bình dị, dân dã.
+ Nghệ thuật miêu tả: thiên về lối tả chân chứ không mang tính ước lệ
tượng trưng như thơ Đường luật Hán.
+ Thể thơ: là những câu sáu chữ xen bài thất ngôn, cách ngắt nhịp biến
hóa linh hoạt.
2.3.3 Phát hiện vẻ đẹp dân tộc trong thơ Nôm Đường luật qua hai bài thơ:
Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng
phương pháp đối chiếu so sánh.
Trong phạm vi của đề tài, người viết sẽ đối chiếu so sánh giữa bài thơ
Cảnh ngày hè và Nhàn với một số tác phẩm thơ Đường luật Hán cũng như thơ
Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn THCS, THPT về mặt nội dung tư
tưởng và nghệ thuật.
2.3.3.1 So sánh đối chiếu về nội dung tư tưởng:
- Trong thơ Đường luật, đề tài, chủ đề mang tính ước lệ, điển phạm như:
Vịnh năm canh, bốn mùa, mười hai tháng theo cái lẽ tuần hoàn của triết lí lí cổ
phương Đông trong Kinh Dịch; vịnh tứ thú (Ngư tiều canh mục); tứ khoái
(Phong hoa tuyết nguyệt, cầm kì thi tửu) nhằm bộc lộ cái thú thưởng ngoạn của
bậc trí nhân quân tử và ngụ cho phẩm chất đạo đức tốt đẹp của cá nhân mình;
vịnh đạo Cương thường theo giáo lí Khổng –Mạnh với các phẩm chất nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín…Ngoài ra, các nội dung khác của tư tưởng Nho giáo như đạo
Trung dung, triết lí mệnh trời, các quan niệm sống an bần lạc đạo, dĩ hòa vi quý,
…cũng được đề cập trong cảm hứng vịnh của các nhà thơ Trung đại.
- Cả hai bài thơ đều viết về những đề tài quen thuộc trong thơ Đường luật
nhưng nội dung của tác phẩm lại thật gần gũi thân thuộc:
+ Bài Cảnh Ngày hè – Nguyễn Trãi: Viết về đề tài thiên nhiên. Đối với

các nhà thơ xưa, khi viết về thiên nhiên thường rất ít khi chọn mùa hè, họ
thường viết mùa thu, xuân….Phải chăng, đặc điểm oi nóng, chói chang của mùa
hè ít nằm trong thị hiếu thẩm mĩ của thi nhân xưa? Vậy mà, Nguyễn Trãi lại
chọn đề tài này. Điều đó thể hiện cá tính sáng tạo của nhà thơ. Hơn nữa, bức
tranh mùa hè trong bài thơ vừa thật rực rỡ, sinh động, tràn đầy sức sống vừa thật
thật giản dị, gần gũi thân thuộc. Bên cạnh những hình ảnh mang tính ước lệ
tượng trưng cho mùa hè như hồng liên trì, dắng dỏi cần ve là những hình ảnh
của dân dã, mộc mạc của quê hương, đất nước như: tán lá hòe xanh ngắt, những
bông hoa lựu rực rỡ, âm thanh của một phiên chợ cá….
+ Bài Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm: Lối sống nhàn, ẩn dật thường bắt gặp

5


nhiều trong thơ Trung Quốc cũng như những nhà thơ trung đại Việt Nam. Đây là
quan niệm sống lánh đục về trong của một bộ phận tầng lớp trí thức phong kiến
bất mãn với thời cuộc. Lối sống nhàn dật nhằm giữ được cốt cách thanh cao và
di dưỡng tâm hồn. Nhưng trong bài thơ, lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
là lối sống quen thuộc của một lão nông tri điền: đạm bạc mà không nghèo khổ,
giản dị mà thanh cao. Thật khó có thể hình dung, một đại quan trong triều đình
nhà Mạc, từng dâng sớ xin chém 18 viên quan lộng thần lại rất bằng lòng với
cuộc sống của người nông dân như cuốc đất, câu cá. Sinh hoạt ăn uống đều tự
cung tự cấp, mùa nào thì thức ấy. Những món ăn như măng trúc, giá đỗ, cách
tắm ao và hồ sen có lẽ chỉ có ở thôn quê Việt Nam.
2.3.3.2. So sánh đối chiếu về nghệ thuật:
- Trong thơ Đường luật: Về mặt nghệ thuật có những quy định chặt chẽ.
Ngôn ngữ được chau chuốt, gọt rũa đến mức cầu kì, sử dụng nhiều điển tích,
điển cố; nghệ thuật miêu tả chủ yếu là gợi, mang tính ước lệ tượng trưng; thể
loại được quy định chặt chẽ từ số câu, số tiếng, gieo vần, ngắt nhip, đối….
- Cả hai bài thơ đều viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật. Nhà

thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều có sự tuân thủ yêu cầu về mặt nghệ
thuật của thể thơ. Tuy nhiên, phân tích bài Cảnh ngày hè và Nhàn ta đều nhận
thấy sự cách tân, sáng tạo của các tác giả. Cụ thể:
+Ngôn ngữ:
Chữ viết: Là yếu tố đầu tiên để nhìn nhận vấn đề. Cả hai bài thơ được
làm bằng chữ Nôm, một chữ viết do người Việt Nam sáng tạo ra. Dù không
được dùng trong hành chính, công vụ, giáo dục thời phong kiến nhưng vẫn đóng
vai trò rất quan trọng. Chữ Nôm chính là nơi gìn giữ tiếng nói dân tộc, một biểu
hiện quan trọng của tinh thần tự chủ, không chịu khuất phục và sự đồng hóa.
Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt: Ngôn ngữ phải nói là thành công xuất sắc
và là biểu tượng cho vẻ đẹp dân tộc trong hai bài thơ. Cả hai bài thơ xét toàn
diện thì ngôn ngữ tiếng Việt chiếm tuyệt đối (Đặc biệt là bài Nhàn) không hề
xuất hiện một từ Hán nào. Ngôn ngữ giản dị mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ gần gũi
với ngôn ngữ của cuộc sống đời thường. Ví dụ:
Một mai, một cuốc, một cần câu.
(Nhàn)
Tác giả đã sử dụng những từ thuần Việt liệt kê những công cụ sản xuất để
phục vụ cho công việc làm nông. Ta như thấy được hình ảnh của Nguyễn Bỉnh
Khiêm rất bằng lòng với những gì mà mình đang có. Trong khi một số bài thơ
Nôm Đường luật trước đó mà các em đã được học như Chiều hôm nhớ nhà của
bà Huyện Thanh Quan yếu tố Hán học xuất hiện tương đối nhiều như: ngư ông,
canh mục, viễn phố, cô thôn…..đã tạo nên vẻ đẹp trang trọng, đài các phù hợp
với môi trường quý tộc phong kiến.
Từ láy: Trong hai bài thơ xuất hiện nhiều từ láy là một đặc sắc của tiếng
Việt như: đùn đùn, lao xao, dắng dỏi (Cảnh ngày hè); thơ thẩn, vắng vẻ, lao
xao (Nhàn) Những từ láy vừa giúp gợi hình ảnh lại vừa mô phỏng âm thanh,
những chi tiết rất chân thật lại gợi cảm đúng với những gì mà nhà thơ cảm nhận
6



thấy ở thiên nhiên cũng như lối sống, tâm trạng của bản thân. Như Từ thơ thẩn
trong câu Thơ thần dầu ai vui thú nào đã diễn tả trạng thái thảnh thơi, an nhàn,
bằng lòng với cuộc sống hiện tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nghệ thuật đảo ngữ: Nói về ngôn ngữ trong bài thơ lại phải nói đến nghệ
thuật đảo ngữ trong bốn câu thơ sau:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
(Cảnh ngày hè)
Đó là một sự phá cách trong thơ Đường luật thuần túy coi sự miêu tả theo
trình tự tuyến tính và theo đúng tính chất cú pháp của sự diễn đạt. Sự thay đổi
trong cách viết này gợi nên nhiều cảm xúc, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người
đọc nhất là ở các thế hệ sau khi thưởng thức bài thơ này. Với học sinh lớp 10
việc chỉ cho các em sự sáng tạo này của tác giả không chỉ giúp các em hình
dung cảnh vật mà còn thấy tinh thần dân tộc rất sâu sắc trong bài thơ.
+Thể loại:
Số tiếng: Bên cạnh những câu 7 tiếng là những câu 6 tiếng (Bài Cảnh
ngày hè):
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Bằng sự sáng tạo của mình, Nguyễn Trãi đã có những cách tân táo bạo
một thể thơ vốn đề cao tính nghiêm ngặt chặt chẽ trong niêm luật. Việc sáng tạo
thể thơ thất ngôn xen lục ngôn là một thành công của Nguyễn Trãi nhằm Việt
hóa một thể thơ nước ngoài. Đó cũng là biểu hiện của tinh thần dân tộc. Những
câu thơ 6 chữ vừa dồn nén cảm xúc của cả bài thơ vừa cất lên thật tự nhiên,
thoải mái giống như lời nói thông thường. Hoàn toàn không có sự gò ép về ngôn
từ.
Cách ngắt nhịp: Cách ngắt nhịp của cả hai bài thơ đều có những nét riêng
khác với cách ngắt nhịp phổ biến 4/3 của thơ Đường luật nguyên bản.
Ví dụ 1:
Cách ngắt nhịp trong bài “ Vọng Lư Sơn bộc bố ” của Lí Bạch:

“ Nhật chiếu Hương lô /sinh tử yên
4
/
3
Dao khan bộc bố / quải tiền xuyên ”
4 /
3.
Ví dụ 2:
Cách ngắt nhip trong bài “ Thiên Trường vãn vọng ” của Trần Nhân Tông:
“ Thôn tiền thôn hậu / đạm tự yên
4
/
3
Bán vô bán hữu / tịch dương biên ”
4
/
3
Trong khi cách ngắt nhịp trong thơ Nôm Đường luật lại rất đa dạng và
phong phú, không bị bó buộc như thơ Đường luật nguyên bản. Trong cả hai bài
thơ, một số câu có cách ngắt nhịp sáng tạo:
Trong bài Cảnh ngày hè:
7


Rồi / hóng mát / thuở ngày trường.
1 / 2
/
3
Thạch lựu hiên / còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì / đã tiễn mùi hương.

3
/
4
Dân giàu / đủ khắp / đòi phương.
2
/
2
/
2
Trong bài Nhàn:
Một mai / một cuốc/ một / cần câu.
2
2
1
2
Ta dại / ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn / người đến chốn lao xao.
2
/
5
Về bố cục: Yêu cầu trong một bài thơ Đường luật nguyên bản cần có 4
phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần gồm có hai câu và chúng đều có một nhiệm
vụ riêng rất rõ ràng. Nhưng trong hai bài thơ cũng có sự cách tân:
Trong bài Cảnh ngày hè: Bố cục gồm có 3 phần: Phần đề: câu 1: giới
thiệu hoàn cảnh sống và tâm thế của tác giả; phần thực: câu 2,3,4,5,6: tái hiện vẻ
đẹp của bức tranh cảnh ngày hè; phần kết: 7,8: tâm sự của nhà thơ.
Trong bài Nhàn, tuy tuân thủ theo bố cục đề, thực, luận, kết bình đối của
thơ ca truyền thống. Tuy nhiên ở đây lại có những nét khác biệt độc đáo so với
thơ Đường luật thông thường, đó là thơ Đường luật 4 câu đầu nghiêng về cảnh,
bốn câu sau nghiêng về tình thì ở Nhàn lại có sự đan xen giữa cảnh và tình

xuyên suốt bài thơ.
+Thi liệu:
Văn học thời trung đại, nhất là văn học chính thống, văn chương khoa cử
vốn đề cao tinh thần sùng cổ, ưa thích sử dụng các điển tích, điển cố trong kho
tàng văn học Trung Hoa. Cả hai bài thơ có sử dụng điển tích, điển cố. Cụ thể:
Trong bài Cảnh ngày hè: câu thơ Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng lấy từ
điển cố trong thần thoại Trung Quốc về vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn. Đây
là hai triều đại lí tưởng, xã hội thanh bình, nhân dân hạnh phúc. Riêng vua
Thuấn có khúc Nam phong, trong đó có câu: Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ
ngô dân chi tài hề (Gió Nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của).
Ngu cầm là đàn của vua Thuấn. Ý cả câu: Hãy để cho ta có đàn của vua Thuấn
để đàn một khúc Nam phong.
Trong bài Nhàn hai câu thơ: Rượu đến cội cây ta sẽ uống/ Nhìn xem phú
quý tựa chiêm bao tác giả có ý dẫn điển Thuần Vu uống rượu say nằm ngủ dưới
gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hòe An, được công danh phú quý rất mực
vinh hiển. Sau bứng mắt tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng, thấy dưới cành hòe
phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi. Từ đó điển này có ý: phú quý chỉ là một
giắc chiêm bao.
Tuy nhiên, việc sử dụng những điển tích, điển cố trong 2 bài thơ là không
8


đậm nét. Hình ảnh trong hai bài thơ đều thuần chất Việt từ cảnh đến người,
không hề có những chi tiết ước lệ tượng trưng hay việc sử dụng điển tích, thi
liệu văn học Trung Hoa.
Những hình ảnh rất tiêu biểu của làng quê Việt Nam mà đi đâu cũng có
thể bắt gặp. Như trong bài Cảnh ngày hè chất liệu để nhà thơ tái hiện bức tranh
thiên nhiên đều thật gần gũi. Đó là cây hòe đang đùn đùn những tán lá xanh tốt
che rợp cả một góc trời. Cây hòe vốn là loại câu rất gần gũi, gắn bó với người
dân quê, nó không chỉ mang lại lợi ích về mặt kinh tế mà còn đang tỏa bóng mát

làm cho ngày hè trở nên dịu mát. Cùng với cây hòe xum xuê là cây lựu trước
hiên nhà đang phun ra những chùm hoa đỏ thắm tạo cho bức tranh ngày hè màu
sắc rực rỡ, thế nhưng người đọc lại không hề cảm thấy chói chang gay gắt bởi
cái gam nóng của hoa lựu đã được hòa lẫn trong sắc xanh dịu mát của cây lá.
Mùa hè còn được mở ra với âm thanh của một phiên chợ cá làng ngư phủ. Đó là
âm thanh quen thuộc bình dị của chốn thôn quê. Ở đó có không khí ồn ào náo
nhiệt của cảnh mua bán, có tiếng cười nói của người đổi trao. Không gian chợ cá
ở đây không đơn thuần là nơi mua bán hàng hóa hữu cơ mà còn là không gian
giao lưu văn hóa của cộng đồng người Việt.
Trong bài Nhàn vẻ đẹp của dân tộc hiện lên cũng giản dị, mộc mạc thân
quen, đặc biệt là với cuộc sống của người nông dân đồng bằng Bắc bộ. Những
dụng cụ làm nông như mai để đào đất, cuốc để cuốc đất, cần câu để câu cá đã
gắn bó từ ngàn đời với cư dân nông nghiệp vốn quen với cuộc sống tự cung tự
cấp. Những thức ăn sẵn có trong tự nhiên như măng trúc, giá đỗ; lối sống sinh
hoạt tắm ao, tắm hồ sen đã trở thành một đặc sản rất riêng của con người Việt
Nam.
Học sinh sẽ thấy được nét đẹp dân tộc từ những chi tiết trên và thấy được
hồn Việt đã thấm nhuần trong tình cảm của các tác giả. Và cũng từ những điều
này giáo viên có thể hướng dẫn để học sinh nhận biết ra rằng chất dân tộc không
phải là những gì quá cao siêu, trừu tượng mà chính là những điều gần gũi quanh
ta. Thầy cô giáo sẽ giúp các em hình thành tình yêu quê hương đất nước từ
những điều giản dị và thân quen trong cuộc sống thường ngày, thấy được vẻ đẹp
tự nhiên hồn hậu của chúng. Từ đó mà biết suy ngẫm và hành động nuôi dưỡng
hoài bão, sự phấn đấu để đạt đến những mục đích cao đẹp cho quê hương, xứ sở.
+Nghệ thuật miêu tả:
Nghệ thuật miêu tả trong hai bài thơ là tả thực, khác với nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình, nghệ thuật ước lệ tượng trưng, nghệ thuật lấy động tả tĩnh rất phổ
biến trong thơ xưa. Trong hai bài thơ này nghệ thuật tả thực, những cảnh, những
vật hiện lên một cách chân thực như chính những vật mà ai đã từng biết, không
phải nhiều sự hình dung.

2.3.4 Giáo án thực nghiệm:
Thiết kế giáo án giảng dạy có kết hợp khai thác vẻ đẹp dân tộc
trong bài thơ bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.
CẢNH NGÀY HÈ
Nguyễn Trãi
9


A. Mục tiêu bài học:
1. Về kiến thức
- Cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo mà đậm đà tính dân tộc của bức tranh
thiên nhiên cảnh ngày hè và tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất
nước của Nguyễn Trãi
- Thấy được đặc sắc nghệ thuật của thơ Nôm của Nguyễn Trãi: Bình dị, tự
nhiên, đan xen câu lục ngôn (sáu chữ) vào bài thơ thất ngôn (bảy chữ).
2. Về kĩ năng:
- Nhận biết được thể loại văn bản.
- Đọc - hiểu văn bản thơ Nôm viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường
luật
3. Về thái độ:
- Có thái độ trân trọng đối với vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
- Có tình yêu đối với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước.
B. Phương tiên thực hiện:
- SGK, SGV
- Thiết kế bài học
C. Cách thức tiến hành:
Vấn đáp kết hợp thuyết trình, thảo luận nhóm, liên hệ thực tế
D. Tiến trình tổ chức lên lớp.
1. Kiểm tra bài cũ: vẻ đẹp của con người thời Trần qua bài thơ Tỏ lòng
của Phạm Ngũ Lão?

- Con người thời Trần hiện lên với tầm vóc lớn lao, kì vĩ.
- Con người thời Trần còn hiện lên với sức mạnh như hổ báo và ý thức trách
nhiệm với đất nước.
2. Vào bài mới:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV&HS
HOẠT ĐỘNG I: Hướng dẫn học
sinh tìm hiểu phần Tiểu dẫn.
GV cho HS đọc phân Tiểu dân
trong SGK
- Giới thiệu những nét chính về
tập thơ Quốc âm thi tập?

NỘI DUNG
I. TIỂU DẪN:
1. Giới thiệu về tập thơ Quốc âm thi tập
- Gồm 254 bài, là tập thơ Nôm sớm nhất
hiện còn.
- Nội dung: Thể hiện vẻ đẹp tâm hồn
Nguyễn Trãi
- Nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn bát cú
Đường luật được sử dụng thuần thục như
một thể thơ dân tộc, có khi chen vào chỗ
thích hợp một số câu lục ngôn (câu sáu
chữ).
- Bố cục:
+ Được chia thành 4 phần: Vô đề, Môn thì
lệnh, Môn hoa mộc, Môn cần thú.
+ Phần vô đề được xếp thành một số mục:
10



Ngôn chí, Mạn thuật, Tự thán, Tự thuật,
Bảo kính cảnh giới…
2. Bài thơ
- Xuất xứ: Bài 43, mục Bảo kính cảnh giới.

- Nêu xuất xứ của bài thơ?
+ HS trả lời
+ GV giải thích thêm: Bảo kính
cảnh giới có nghĩa là gương báu
răn mình. Tuy vậy, bài thơ không
năng về tính chất giáo huấn,
khuyên răn, triết lí mà thể hiện
cảm xúc tinh tế của một tâm hồn
thi sĩ. Đây là đặc điểm độc đáo so
với những bài thơ Đường luật vốn
coi trọng mục đích giáo huấn.
HOẠT ĐỘNG II: Hướng dẫn II. ĐỌC HIỂU
học sinh Đọc hiểu bài thơ
1. Đọc:
GV hướng dẫn học sinh cách
đọc. Đặc biệt là cách ngắt nhịp.
2. Bố cục:
- Nêu bố cục của bài thơ?
- Phần 1: Sáu dòng thơ đầu: vẻ đẹp của bức
tranh thiên nhiên
- Phần 2: Hai câu cuối: Tấm lòng ưu ái với
dân với nước.
- Bài thơ viết về đề tài gì? Nhận 3. Đề tài: Đề tài: viết về thiên nhiên mùa
xét về đề tài này trong thơ xưa?

hè. Đây là đề tài quen thuộc mà độc đáo, bởi
thơ xưa viết nhiều về thiên nhiên nhưng
mùa hè thướng ít xuất hiện trong thơ ca.
4. Phân tích
- Câu đầu tiên của bài thơ cho em a. Bức tranh cảnh ngày hè:
biết gì về hoàn cảnh sống của tác * Hoàn cảnh của tác giả:
giả lúc bấy giờ?
Rồi hóng mát thuở ngày trường.
+ HS cắt nghĩa lí giải từ ngữ để - Rồi: rảnh rỗi, hóng mát, dạo chơi, tâm hồn
trả lời.
thanh thản
+ GV tóm tắt.
- Thuở ngày trường: ngày dài.
=> Đây là hoàn cảnh hiếm hoi, bất đắc dĩ
của nhà thơ.
- Bức tranh mùa hè được miêu tả
vào thời gian nào?
* Vẻ đẹp của bức tranh:
+ HS trả lời.
- Thời gian: vào buổi chiều muộn, ngày tàn.
+ GV giảng, dẫn dắt Buổi chiều là
thời gian quen thuộc trong thơ
xưa. Đây là thời điểm cuối cùng

11


trong ngày. Bởi vậy, những buổi
chiều thường hiện lên với cảnh
vật tàn tạ, héo úa. Tâm trạng của

con người chất chứa những nỗi
niềm vừa buồn thương vừa nhớ
quê hương tha thiết. Cũng viết về
thời điểm này, nhưng rõ ràng
Nguyễn Trãi đã mang đến một cái
nhìn mới lạ, độc đáo.
- Bức tranh mùa hè trong bài thơ
hiện lên thông qua những hình
ảnh, màu sắc, âm thanh như thế
nào?
+ HS phát hiện những hình ảnh
thơ trả lời.
+ GV tóm lại một số ý chính.

- Từ sự phân tích trên em có nhận
xét gì về vẻ đẹp của bức tranh
cảnh ngày hè?
+ HS rút ra nhận xét.
+ GV định hướng.

- Qua bức tranh cảnh ngày hè, em

- Hình ảnh:
+ Cây hòe đùn đùn chứa một nguồn sống
mãnh liệt, với những tàn lá đang giương,
phát triển đầy sức sống.
+ Hoa lựu đang phun trào sắc đỏ
+ Hoa sen bừng nở khoe sắc, ngát hương
thơm trong đầm.
- Màu sắc:

+ Có sắc xanh của những tán là hòe dịu mát,
sắc đỏ rực của những bông hoa lựu, sắc
hồng của hoa sen
+ Màu sắc có sự hài hòa, tinh tế.
- Âm thanh:
+ Tiếng ve rộn rã, inh ỏi như tiếng đàn rất
riêng của mùa hạ.
+ Tiếng lao xao của một phiên chợ cá từ
đằng xa vọng lại. Đó là âm thanh của cuộc
sống con người, gợi cuộc sống nhộn nhịp,
vui tươi, thanh bình.
- Đặc điểm của bức tranh mùa hè:
+ Bức tranh mùa hè tuy vẫn mang những
đặc điểm ước lệ tượng trưng như hình ảnh
hoa sen, tiếng ve nhưng vẫn thật gần gũi
quen thuộc, tự nhiên mang bản sắc dân tộc.
+ Bức tranh mùa hè sống động, rực rỡ .
+ Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con
người được miêu tả vào thời điểm cuối ngày
nhưng không gợi cảm giác ảm đạm, ngày
sắp tắt nhưng sự sống không dựng lại, nó
vẫn dồi dào mãnh liệt, cuộc sống rộn rã,
tươi vui.
- Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi.
12


cảm nhận được gì ở vẻ đẹp tâm + Nguyễn Trãi rất nhạy cảm, tinh tế trước vẻ
hồn Nguyễn Trãi?
đẹp của thiên nhiên. Ông đã huy động các

giác quan từ thị giác, thính giác, khứu giác
đề cảm nhận không chỉ hình ảnh bên ngoài
mà còn cả trạng thái bên trong của cảnh vật.
+ Nguyễn Trãi có tình yêu cuộc sống tha
thiết mãnh liệt.
b. Tấm lòng ưu ái với dân với nước.
- Ngu cầm là cây đàn của vua Thuấn, bậc
minh quân gắn với khúc hát Nam phong
- Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn => Mơ ước cho nhân dân có cuộc sống giàu
Trãi được thể hiện như thế nào đủ.
qua 2 câu cuối?
- Câu 8: 6 chữ dồn nén cảm xúc của toàn
+ HS thảo luận trả lời
bài. Như vậy điểm kết tụ của tâm hồn Ức
+ GV nhận xét bổ xung, bình Trai không phải ở thiên nhiên tạo vật mà
giảng.
chính ở cuộc sống con người, ở nhân dân.
Đó là khát vọng về cuộc sống thái bình, no
ấm,, hạnh phúc cho tát cả mọi người ở khắp
mọi nơi..
=> Khát vọng cao đẹp của một con người
hết lòng vì dân, vì nước.
III. TỔNG KẾT
HOẠT ĐỘNG III: Hướng dẫn 1.Nội dung:
học sinh tổng kết.
- Bức tranh cảnh ngày hè tràn đầy sức sống,
Nhận xét khái quát về những đặc sinh động vừa giản dị, dân dã đậm tính dân
dắc trong nội dung và nghệ thuật tộc vừa tinh tế gợi cảm.
- Tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc
của bài thơ?

sống, tấm lòng vì dân, vì nước của tác giả.
2. Nghệ thuật:
- Cách ngắt nhịp đặc biệt
- Thể thơ: thát ngôn xen lục ngôn
- Ngôn ngữ: Giản dị mà tinh tế biểu cảm.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Áp dụng đề tài Vận dụng phương pháp đối chiếu so sánh, phát hiện và
cảm nhận vẻ đẹp dân tộc trong chùm thơ Nôm đường luật ở chương trình Ngữ
văn 10 - tập 1 đã tạo thêm sự hứng thú cho học sinh khi tìm hiểu các tác phẩm
văn học trung đại. Học sinh không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ với những tác phẩm
13


đã ra đời cách đây hàng mấy trăm năm. Đặc biệt, từ việc hiểu và cảm nhận được
vẻ đẹp dân tộc trong hai tác phẩm thơ Nôm Đường luật học sinh thấy được vẻ
đẹp tâm hồn của các tác giả cũng như những nỗ lực, đóng góp của họ trong việc
xây dựng một nền văn học độc lập, tự chủ.
Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào việc dạy học ở lớp 10A4 và
10A8, tôi thu được kết quả như sau:
Đề bài: Vẻ đẹp dân tộc trong hai bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Lớp
Sĩ số
Điểm từ 8
Điểm 6-7
Điểm 4-5 Điểm dưới
trở lên
4
10A4
48

13
30
4
1
10A8
34
5
20
7
2
Đối chiếu với 02 lớp 10A2,10A6 trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm tôi thấy chất lượng có sự tiến bộ. Số học sinh đạt điểm giỏi và điểm khá
tăng đáng kể, số học sinh bị điểm yếu kèm giảm xuống.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận
- Như vậy, việc học sinh chưa hiểu hết ý nghĩa của các bài thơ Nôm Đường
luật đã làm khuyết đi giá trị của tác phẩm. Đối với học sinh lớp 10 tuy không
phải lần đầu tiên tiếp cận với thể thơ này nhưng vẫn thật khó khăn cho các em
khi học các tác phẩm bởi văn chương hàn lâm thường rất khó tiếp nhận. Khó
khăn nhưng nếu thấu hiểu một cách khoa học và đúng hướng sẽ là nền tảng để
các em học tiếp các phần học sau này trong chương trình Ngữ văn 11. Trong bối
cảnh sáng tác của các nhà thơ thời phong kiến chịu chi phối của nhiều yếu tố
văn hóa và lịch sử thì những bài thơ đậm đà tính dân tộc như Cảnh ngày hè của
Nguyễn Trãi và Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật là đáng quý. Trách nhiệm
của giáo viên ngữ văn ngoài giúp học sinh hiểu tâm thế của tác giả còn là hướng
các em hiểu những giá trị sâu sắc này.
- Đề tài trên là những kinh nghiệm bước đầu trong quá trình dạy học thơ
Nôm Đường luật. Vì vậy sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được ý kiến đóng góp từ các bạn đồng nghiệp.
3.2 Kiến nghị:

- Đối với tổ chuyên môn nhà trường có thêm các chuyên để về thơ Nôm
Đường luật, cung cấp cho học sinh các tư liệu cần thiết để các em có những kiến
thức cơ bản để học tốt thể thơ này.
- Đối với nhà trường, có các hình thức tổ chức ngoại khóa về thơ Nôm Đường
luật. Để thể thơ này trở nên gần gũi và đi sâu vào đời sống, tình cảm của các em.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa ngày 22 tháng 05 năm2016
14


Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác
Người viết

Phạm Thị Trang

15


Tài liệu tham khảo :
1. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật, Hà Nội : NXB Giáo Dục
2. Lã Nhâm Thìm (2003), Bình giảng thơ Nôm Đường luật, Hà Nội : NXB
Giáo Dục

16




×