Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Một số biênh pháp rèn luyễn kỹ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh có lực học trung bình và yếu khối 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.84 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI :
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM VĂN
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH CÓ LỰC HỌC
TRUNG BÌNH VÀ YẾU KHỐI 12

Người thực hiện : Nguyễn Thị Hương
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc môn : Ngữ văn

THANH HÓA, NĂM 2016


MỤC LỤC
tran

Nội dung
A. MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

2

2. Mục đích nghiên cứu



2

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu

2

5. Giả thuyết khoa học

2

6 . Dự kiến đóng góp của đề tài

2

B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI

3

I. Cơ sở lý luận

3

1. Khái quát về văn nghị luận

3


2. Đoạn văn nghị luận

3

II. Thực trạng của vấn đề

3

1. Yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay.

3

2. Thực trạng dạy và học làm văn ở các trường THPT

4

3. Thực trạng dạy và học Làm văn ở trường THPT Thạch Thành 3

5

III. Giải pháp rèn luyện kĩ năng phân tích đề và lập dàn ý trong
bài văn nghị luận xã hội.

7

Cung cấp lý thuyết về văn nghị luận xã hội

7


2. Rèn luyện kĩ năng nhận diện đề và tìm hiểu đề

9

3. Rèn luyện kĩ năng phân tích đề

12

1.

4.

g

Rèn kĩ năng tìm ý và lập dàn ý.

13

IV. Hiệu quả của giải pháp

18

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

19

TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài:
Trong chương trình THPT, phân môn Làm văn được chia làm hai kiểu bài:
Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội. Bài Nghị luận văn học giúp học sinh
cảm thụ, phân tích, đánh giá một áng văn thơ, những nhân vật trong tác phẩm
văn học. Việc rèn luyện kiểu bài này rất cần thiết cho học sinh khi làm các bài
kiểm tra, bài thi nhưng lại ít cần thiết khi người học vào đời. Bài Nghị luận xã
hội rèn luyện cho học sinh cách nhìn nhận, kiến giải, trình bày những ý kiến
riêng về một vấn đề tư tưởng, đạo lý hoặc một vấn đề xã hội đáng quan tâm.
Việc rèn luyện kiểu bài này không chỉ cần cho học sinh trong các bài kiểm tra,
bài thi mà còn giúp ích cho người học khi bước vào đời.
Tập trung vào kiểu bài Nghị luận xã hội là một nỗ lực đổi mới chương trình
Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay. Kiểu bài nghị luận xã hội đề cập và
có liên quan đến nhiều phương diện của đời sống. Thông thường những nội
dung được đề cập đến là những vấn đề nổi bật, tạo được sự chú ý và tác động
đến đời sống xã hội. Không chỉ đề cập đến những vấn đề tốt đẹp, tích cực trong
xã hội mà kiểu bài Nghị luận xã hội còn lưu ý học sinh đến những vấn đề tiêu
cực, đang bị xã hội lên án và phê phán. Với dạng bài Nghị luận xã hội, học sinh
cần làm rõ vấn đề nghị luận, từ đó thể hiện thái độ, sự đánh giá của bản thân
cũng như đề xuất các ý kiến, giải pháp trước vấn đề xã hội được nêu ra.
Từ năm 2009, trong cấu trúc đề thi đã quy định có câu Nghị luận xã hội.
Trong cấu trúc đề thi, câu hỏi về Nghị luận xã hội chiếm 3 điểm trong thang
điểm 10 của toàn đề và tập trung vào hai dạng chính là tư tưởng, đạo lý và hiện
tượng đời sống. Tuy nhiên, viết văn Nghị luận xã hội không phải là chuyện dễ
dàng. Đối với học sinh, một trong những vấn đề bối rối khi làm bài thi là viết bài
văn Nghị luận xã hội ngắn (khoảng 400 – 600 từ). Tuy chỉ chiếm 3/10 điểm
toàn đề thi nhưng đây cũng là một phần quan trọng đối với những học sinh trung
bình – yếu.
Làm thế nào để học sinh viết được những bài Nghị luận xã hội lôgic, trôi

chảy, mạch lạc? Đó là câu hỏi của nhiều giáo viên giảng dạy Ngữ văn.
Qua quá trình giảng dạy và theo dõi việc làm văn của học sinh lớp 12, tôi
thấy đối tượng học sinh trung bình – yếu rất chật vật và mất thời gian khi viết
kiểu bài Nghị luận xã hội. Qua quá trình chấm bài, tôi nhận thấy, phần Nghị luận
xã hội của đối tượng này chưa đạt yêu cầu, hoặc còn thiếu ý, chưa nắm được cấu
trúc làm bài hoặc viết vòng vo, lan man không liên quan đến yêu cầu.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mong muốn giúp học sinh làm tốt bài văn
Nghị luận xã hội. Qua thực tế giảng dạy, bằng kinh nghiệm và tài liệu đọc được,


tôi xin trình bày một số biện pháp rèn luyện kĩ năng làm văn Nghị luận xã hội
cho học sinh có lực học yếu Khối 12.
2. Mục đích nghiên cứu: Giúp giáo viên nhận thấy việc hướng dẫn học sinh
nhận diện đề và kĩ năng làm văn nghị luận xã hội là hợp lý và cần thiết. Đồng
thời, giúp học sinh nhận diện được đề và có kĩ năng làm bài văn nghị luận xã
hội.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Ở đề tài này, tôi chỉ dừng lại trong phạm vi rèn luyện kĩ năng nhận diện đề và
cách phân tích đề, lập dàn ý trong văn nghị luận xã hội cho đối tượng học sinh
trung bình – yếu khối 12.
Đề tài này có thể vận dụng trong những tiết học thuộc cấu trúc chương trình
của Bộ Giáo dục hoặc luyện tập phân môn Làm văn trong các tiết học phụ đạo ở
trường THPT.
4.

Giả thuyết khoa học:
Nếu việc luyện cho học sinh cách viết văn nghị luận xã hội được tiến hành
thường xuyên và có cơ sở khoa học thì chắc chắn việc rèn kĩ năng đó sẽ góp
phần nâng cao chất lượng học phần Làm văn, đặc biệt là viết đoạn văn nói
chung và văn nghị luận xã hội nói riêng trong chương trình THPT; phát huy cao

độ tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc viết bài văn nghị
luận hoàn chỉnh, đảm bảo đúng yêu cầu mà vẫn hay, thu hút và lôi cuốn người
đọc, người nghe.

5.
6.
-

-

Phương pháp nghiên cứu:
Nhóm phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích, thống kê, phương pháp thu
thập và xử lý số liệu.
Nhóm phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Dự kiến đóng góp của đề tài:
Về lý luận: Góp phần hệ thống hóa lý luận về dạy học Làm văn THPT nói chung
và văn nghị luận xã hội nói riêng trong chương trình Ngữ văn 12, đồng thời, góp
thêm cơ sở khoa học cho việc đổi mới phương pháp dạy và học làm văn ở nhà
trường THPT.
Về thực tiễn: Đề xuất cách thức rèn luyện kĩ năng nhận diện và viết văn nghị
luận xã hội cho học sinh THPT; giúp giáo viên thuận lợi hơn trong quá trình rèn
luyện cho học sinh trung bình – yếu lớp 12 viết văn nghị luận xã hội.

B. PHẦN NỘI DUNG


I.

Cơ sở lý luận
1. Khái quát về văn nghị luận:

* Khái niệm: Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) đưa
ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn
luận thuyết phục được người đọc (người nghe).
Văn nghị luận giúp cho người học sinh vận dụng tổng hợp các tri thức văn
học và hiểu biết xã hội, rèn luyện khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt,
giúp cho sự phát triển tư duy khoa học của người học sinh. Văn nghị luận nêu ra
những vấn đề tư tưởng và học thuật, xây dựng cho học sinh có phương pháp tư
tưởng đúng đắn để hiểu đúng và có thái độ đúng trước các vấn đề đó, đồng thời,
giúp cho việc chuẩn bị tiến tới những hành động đúng đắn, tích cực trong cuộc
sống hiện tại và tương lai.
* Phân loại: Căn cứ vào nội dung thì văn nghị luận được chia làm hai loại:
nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
- Nghị luận xã hội chia làm hai loại: nghị luận về một hiện tượng đời sống
(trình bày quan điểm, suy nghĩ, thái độ về một sự việc nào đó xảy ra trong đời
sống…) và nghị luận về một tư tưởng, đạo lí (trình bày suy nghĩ, thái độ về một
quan niệm đạo lí, lối sống, văn hóa… định hình trong cuộc sống con người.
Những quan niệm đó có tính chất khuyên răn như tục ngữ, danh ngôn, nhận
định… mang tính chân lí).
- Nghị luận văn học là trình bày những nhận xét, đánh giá thông qua việc
cảm nhận, phân tích văn học. Những ý kiến, nhận xét xuất phát từ cách xây
dựng hình tượng nhân vật của tác giả về ngoại hình, tính cách, hành động…
hoặc những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
2. Đoạn văn nghị luận
Đoạn văn là đơn vị ngôn ngữ trực tiếp cấu tạo các phần của văn bản. Đoạn
văn đa dạng về nội dung, phức tạp về cấu trúc, đảm nhiệm những chức năng
khác nhau trong văn bản. Muốn nghiên cứu văn bản hoàn chỉnh phải bắt đầu từ
đoạn văn.
Có thể thấy, đoạn văn nghị luận là một phần của bài văn nghị luận, đảm bảo
các yêu cầu sau: có sự thống nhất nội tại chặt chẽ, đảm bảo có quan hệ chặt chẽ
với các đoạn văn khác trong văn bản và phải phù hợp với phong cách chung của

văn bản.
II. Thực trạng và những mâu thuẫn.
1 Yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay.
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn
luôn được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện


pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều khẳng định vai trò
của người học là chủ thể của nhận thức tích cực trong quá trình học tập. Đổi mới
phương pháp dạy và học văn theo định hướng coi học sinh là chủ thể sáng tạo
phải là sự thay đổi toàn diện và đồng bộ. Hơn nữa, mục tiêu chính của dạy văn ở
cấp trung học phổ thông là dạy người, dạy cho học sinh cách sống, cách cảm,
cách nghĩ và kĩ năng giao tiếp. Sẽ không thể giao tiếp tốt nếu học sinh không
thông thạo bốn kĩ năng: nghe – nói – đọc – viết. Chính vì vậy, đổi mới phương
pháp dạy học văn ở trường phổ thông không thể không hướng đến rèn luyện cho
học sinh kĩ năng “viết”.
Làm văn là môn học mang tính chất thực hành tổng hợp. Khi làm bài tập làm
văn, học sinh phải huy động cả năng lực quan sát, trí nhớ, vốn sống và khả năng
tư duy của mình để nội dung bài làm có được nét tinh tế, những vẻ sinh động và
một phong cách riêng. Mỗi bài tập làm văn có thể coi là một “tác phẩm nhỏ” của
học sinh. Tác phẩm ấy phản ánh khá rõ ràng nhận thức, tình cảm của học sinh
đối với vấn đề văn học và cuộc sống. Nó cũng phản ánh khá rõ năng lực và tư
duy, trình độ ngôn ngữ và một phần cá tính của học sinh.
2.

Thực trạng dạy và học làm văn ở các trường THPT

Làm văn là một phân môn khó vì nó đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng kiến
thức đã được học ở các phân môn đọc văn và tiếng Việt vào việc làm văn. Mặt
khác, ý thức học môn văn của học sinh chưa cao và cũng có trường hợp giáo

viên chỉ chú trọng đến giờ giảng văn, xem nhẹ giờ làm văn, chỉ dạy qua loa,
chiếu lệ.
Khảo sát phần làm văn về nghị luận trong chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn THPT, ta có thể tổng kết như sau: lớp 10 có 5 tuần, lớp 11 có 19 tuần và lớp
12 có 26 tuần vừa học lí thuyết vừa thực hành. Trên cơ sở những tiết dạy lí
thuyết đã chú trọng nhiều hơn đến các tiết thực hành và luyện tập nhằm giúp học
sinh nắm vững kiến thức và viết bài văn thuần thục, đạt hiệu quả cao. Yêu cầu
chung về chuẩn kiến thức kĩ năng phần Làm văn ở khối 12 là hoàn thiện kiến
thức về các dạng bài nghị luận trong nhà trường phổ thông, giúp học sinh hiểu
yêu cầu và cách thức vận dụng tổng hợp các thao tác và các phương thức biểu
đạt trong bài văn nghị luận. Tuy nhiên, Phân phối chương trình Ngữ văn lớp 12
theo chương trình chuẩn chủ yếu phần Làm văn thiên về nghị luận văn học, chỉ
có 2 tiết học lý thuyết về Nghị luận xã hội (một tiết về tư tưởng, đạo lý; một tiết
về hiện tượng đời sống). Trọng tâm kiến thức là nắm được nội dung, yêu cầu,
cách thức triển khai bài văn nghị luận về tư tưởng, đạo lí hoặc hiện tượng đời
sống. Bài học chủ yếu được cấu tạo trên cơ sở thông qua luyện tập để hình thành
kiến thức bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí hoặc hiện tượng đời sống.
Tuy nhiên, thời lượng dành cho bài học chỉ có 45 phút, với số lượng ngữ liệu và
bài tập sách giáo khoa đưa ra, yêu cầu học sinh phải biết vận dụng các kiến thức
và trải nghiệm của bản thân để viết bài. Nội dung bài học thực chất phải bao


gồm nhiều đơn vị kiến thức: phân tích đề, lập dàn ý, nêu ý kiến, đánh giá của
bản thân đối với một tư tưởng, đạo lý hoặc một hiện tượng đời sống và rèn luyện
kĩ năng viết bài văn nghị luận xã hội. Trong thực tế, giáo viên sẽ không thể
hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh cách thức làm bài, còn học sinh, chỉ mới tái hiện
lại cách làm bài qua hai bài lý thuyết. Vì vậy, kĩ năng vận dụng của học sinh sẽ
bị hạn chế và kết quả làm bài sẽ thấp, học sinh rất mơ hồ với việc nhận diện đề
và phương pháp làm văn nghị luận xã hội.
Một thực tế đáng nói nữa đó là học sinh THPT hiện nay có rất ít hiểu biết về

kiến thức xã hội. Điều này các em phải tự tích lũy theo thời gian vì không ai trực
tiếp dạy cho các em. Vì thế, học sinh ngại tìm hiểu về các vấn đề xã hội. Mà
thiếu kiến thức thực tế, chắc chắn học sinh không thể làm tốt bài văn nghị luận
xã hội.
3.

Thực trạng dạy và học Làm văn ở trường THPT Thạch Thành 3

Trường THPT Thạch Thành 3 là một trường miền núi, chất lượng học sinh
đầu vào rất thấp, đặc biệt là môn Ngữ văn. Các em chưa có kĩ năng nhận diện đề
và làm bài nên lúng túng nghĩ gì viết đó, không phân tích đề hoặc lập dàn ý
thậm chí, khi làm văn nghị luận xã hội, các em để giấy trắng. Nhiều học sinh
còn chưa nhận ra mức độ khó của đề bài nghị luận xã hội nên vẫn tỏ ra xem
thường, một số khác thì tỏ ra hoang mang, lo lắng, không biết làm thế nào để
làm tốt văn nghị luận xã hội. Hơn nữa, một số em, ý thức học tập và rèn luyện
đạo đức kém, có tư tưởng chán học, làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập.
Đề nghị luận xã hội là đề mở, đem đến cho học sinh sự hứng khởi khi được
trình bày những suy nghĩ của cá nhân về một câu danh ngôn, một vấn đề cuộc
sống nhưng cũng khiến học sinh lúng túng, thậm chí cảm thấy loại đề này khô
khan, không có cảm hứng để viết. Một số em, chỉ chú trọng vào nghị luận văn
học, các em chỉ cần “qua cầu” môn văn, tìm điểm bù ở các môn tự nhiên hoặc
tìm sự may mắn ở những môn trắc nghiệm.
Để giúp học sinh có thể tìm thấy cho mình một phương pháp học tập có hiệu
quả, biết rèn luyện các kĩ năng viết văn nghị luận xã hội là một vấn đề khó khăn
đối với giáo viên Ngữ văn. Nếu không có một kế hoạch ôn luyện cụ thể thì khó
có thể giúp học sinh ôn tập một cách hiệu quả nhất. Vì thế, đòi hỏi về mặt thời
gian và nhân lực cho việc đầu tư là rất lớn.
Đa số giáo viên Ngữ văn của trường là giáo viên trẻ, hướng dẫn học sinh viết
văn nghị luận xã hội, đôi khi chính giáo viên cũng tỏ ra lúng túng khi phải chỉ ra
những bước cụ thể để giúp học sinh viết một cách thuần thục. Cũng có giáo viên

tâm huyết với nghề đã hướng dẫn học sinh một vài kĩ năng để làm bài nhưng
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm chủ quan của bản thân mình, cốt sao giới thiệu
được vấn đề mà chưa có trọng tâm cụ thể.


Năm học 2013 – 2014, trong các buổi học, giáo viên đã dành thời lượng 30%
cho việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội. Số lượng đề nghị luận xã hội đã
giải quyết cho học sinh là 8 đề. Tỉ lệ học sinh đạt điểm khá tốt nghiệp môn Văn
năm 2014 là 25.7%
Năm học 2014 – 2015, giáo viên đã dành 50% số tiết học phụ đạo trong 8
tuần để rèn cho học sinh kĩ năng làm văn nghị luận xã hội. Hơn nữa, còn đưa
vào đề cương ôn thi tốt nghiệp một hệ thống các bài tập rèn luyện thêm ở nhà.
Nhờ vậy mà tỉ lệ học sinh đạt điểm khá tốt nghiệp môn Văn năm 2015 là 29.2
%
Nhìn chung, nhóm Ngữ văn của trường đã và đang có những quan tâm đáng
kể đến việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh. Căn cứ vào kế
hoạch giảng dạy và thực tế các tiết dạy lớp 12 của nhà trường, nhóm Ngữ văn đã
xây dựng một kế hoạch dạy học tiết tăng và kế hoạch ôn thi tốt nghiệp cho học
sinh để tập trung rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội. Tổng số tiết dạy
học tự chọn dành cho ôn luyện kĩ năng làm văn của khối 12 là 33/88 tiết, số tiết
dành cho rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận là 10/88 tiết.
Trong quá trình giảng dạy Ngữ văn lớp 12, tôi đã phát phiếu thăm dò tình
hình học sinh đối tượng trung bình – yếu về vấn đề: khi viết bài văn nghị luận xã
hội, em thấy khó nhất phần nào? Kết quả thu được như sau:
Lớp

Nhận diện đề

Lập dàn ý


Viết bài

12A1

50 %

45 %

5%

12A2

50 %

40 %

10 %

12A3

60 %

35 %

5%

12A4

65 %


30 %

10 %

Khảo sát bài thi Chất lượng đầu năm của học sinh lớp 12, đánh giá khách
quan, công bằng cách viết bài nghị luận xã hội của học sinh, kết quả thu được
như sau:
Lớp

số

12A
1

9
4
0

S
L

3

12A
2

Giỏi




Khá
%

S

%

L

0

0

4

0

0

5

10.
3
12.
5

Trung bình

Yếu - kém


S

S

%

L
11
19

28.
2
47.
5

%

L
24
16

61.
5
40.
0


12A
3


3
7

12A
4

3
9

0

0

6

0

0

0

16.
2
0

11
16

29.
7

41.
0

20
23

54.
1
59.
0

Từ thực trạng trên, tôi nhận thấy việc rèn luyện kĩ năng nhận diện đề và lập
dàn ý cho học sinh còn nhiều hạn chế và bất cập. Là một giáo viên mới vào
nghề, thời gian và kinh nghiệm công tác chưa nhiều nhưng bản thân tôi luôn trăn
trở làm thế nào để nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh? Đó chính
là ước mơ không chỉ riêng tôi mà là của tất cả giáo viên Ngữ văn khác. Chính vì
vậy, để giúp các em học sinh viết đúng bài văn nghị luận xã hội, bản thân tôi đã
nghiên cứu, tìm hiểu, thực nghiệm qua thực tế giảng dạy và mạnh dạn đưa ra đề
tài “Rèn luyện kĩ năng phân tích đề và lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội cho
học sinh khối 12 (đối tượng trung bình – yếu) Trường THPT Thạch Thành 3”
để các em biết cách làm và có thể vận dụng linh hoạt vào bài làm của mình.
II. Giải pháp rèn luyện kĩ năng phân tích đề và lập dàn ý trong bài văn
nghị luận xã hội.
1.

Cung cấp lý thuyết về văn nghị luận xã hội
Nghị luận xã hội chia làm hai loại: Nghị luận về một hiện tượng đời sống
(trình bày quan điểm, suy nghĩ, thái độ về một sự việc nào đó trong đời sống…)
và Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí (trình bày suy nghĩ, thái độ về một quan
niệm đạo lí, lối sống, văn hóa… trong cuộc sống con người. Những quan niệm

có tính chất khuyên răn như tục ngữ, danh ngôn, nhận định… mang tính chân
lí).

a.






Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý.
Khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý là việc sử dụng kết hợp các thao
tác nghị luận để bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống,
quan niệm của con người. Vấn đề tư tưởng, đạo lý thường được nêu trong ý
kiến, nhận định của các bậc vĩ nhân hay nhà thơ, nhà văn… hoặc trong ca dao,
tục ngữ.
Ví dụ: Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của
anh (chị) về ý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc
chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa” (Theo sách “Dám thành
công” – nhiều tác giả, NXB trẻ, Tr 90).
Yêu cầu: Hiểu được vấn đề cần nghị luận là gì? Từ vấn đề nghị luận đã xác
định, người viết tiếp tục phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn
đề, thậm chí so sánh, bàn bạc, bác bỏ... nghĩa là biết áp dụng nhiều thao tác lập
luận và phải biết rút ra ý nghĩa vấn đề.
Đề tài:




Về nhận thức (lí tưởng, mục đích sống, mục đích học tập…)

Về tâm hồn, tính cách (lòng yêu nước, lòng nhân ái, sự vị tha, bao dung, độ
lượng, tính trung thực, khiêm tốn, ích kỉ …)
Về quan hệ gia đình và xã hội (tình mẫu tử, tình anh em, tình đồng bào, tình thầy
trò, tình bạn bè …)
Cấu trúc bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý.
Trong quá trình giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra cấu trúc bài làm cho học sinh:
 Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tư tưởng, đạo lý cần bàn luận.
 Thân Bài: gồm 3 nội dung:

-

Giải thích:
+ Xác định và giải thích từ khóa.
+ Giải thích từng vế của tư tưởng, đạo lý (Nếu tư tưởng, đạo lý có nhiều
vế).
+ Giải thích khái quát nội dung của cả tư tưởng, đạo lý.

-

Bàn luận:
+ Ý nghĩa, tác động, ảnh hưởng của tư tưởng, đạo lý đối với đời sống con
người.
+ Phê phán những thái độ sai trái.
+ Lấy dẫn chứng.
+ Rút ra bài học nhận thức và liên hệ với bản thân.
 Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa của tư tưởng, đạo lý, mở rộng vấn đề.

b.



Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Khái niệm: Nghị luận về một hiện tượng đời sống là cách sử dụng tổng hợp các
thao tác lập luận để bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với đời sống
xã hội (đáng khen, đáng chê hay có vấn đề cần suy nghĩ), từ đó, làm cho người
đọc hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu sâu để đồng tình hoặc bác bỏ trước những hiện
tượng đó. Ví dụ: (1) Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy
nghĩ của anh (chị) về tính trung thực trong học tập và thi cử.
Ví dụ: (2) Báo Vietnamnet ngày 25/11/2013 đăng bài viết có nhan đề:
“Lòng tự trọng của một sinh viên đánh giày vỉa hè”. Bài báo kể về một sinh
viên nghèo quê ở Quảng Ngãi, học trường Đại học Bưu chính Viễn thông, Thành
phố Hồ Chí Minh. Cậu kiếm sống bằng nghề đánh giày ở các vỉa hè thuộc quận
Thủ Đức. Một buổi sáng chủ nhật, có một khách hàng tốt bụng đã mời cậu uống
cà phê và tặng lại số tiền dư nho nhỏ, vì ông cảm thấy hài lòng khi nhận về đôi
giày vừa được cậu đánh xi cẩn thận. Dù rất khó khăn, nhưng bạn sinh viên ấy





-



vẫn từ chối khoản dư và tự trả tiền cho li cà phê đã uống. Cậu nói: “Con uống
thì con trả, chú cho con đánh giày để có thu nhập là con cám ơn nhiều lắm rồi”
Hãy viết bài văn ngắn (khoảng 400 từ) bày tỏ suy nghĩ của anh
(chị) về ý thức giữ gìn lòng tự trọng qua cách ứng xử của bạn sinh viên trong
câu chuyện trên?
Yêu cầu: Nắm được nội dung, yêu cầu của dạng bài nghị luận về một hiện
tượng đời sống; Cách thức triển khai bài nghị luận về một hiện tượng đời sống;

nhận diện hiện tượng đời sống được nêu ra trong một số văn bản nghị luận; Huy
động kiến thức và những trải nghiệm của bản thân để viết bài văn nghị luận về
một hiện tượng đời sống; Có nhận thức, tư tưởng, thái độ và những hành động
đúng đắn trước những hiện tượng đời sống.
Đề tài:
Hiện tượng tích cực (tiếp sức mùa thi, lòng yêu nước, lòng hiếu thảo…)
Hiện tượng tiêu cực (tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, bạo lực học
đường, một số quan niệm chưa đúng về đạo đức, lối sống của giới trẻ hiện nay
…).
Cấu trúc bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống:
 Mở bài: giới thiệu ngắn gọn, khái quát về hiện tượng.
 Thân bài
Ý
1

Hiện tượng tích cực

Hiện tượng tiêu cực

Giải thích, làm rõ biểu hiện của hiện tượng
Bàn luận:
+ Làm rõ vai trò, tác động của hiện tượng đối với đời sống con người
– Nêu dẫn chứng cụ thể.

2

+ Phê phán những hiện tượng
+ Phân tích nguyên nhân của
trái ngược.
hiện tượng.

+ Đề xuất phương hướng phát
huy.

3

+ Đề xuất phương hướng khắc
phục

- Rút ra bài học nhận thức và liên hệ bản thân
 Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa của hiện tượng, mở rộng vấn đề.
2. Rèn

luyện kĩ năng nhận diện đề và tìm hiểu đề

Dường như khi hỏi học sinh về lý thuyết các bước làm một bài nghị luận
nói chung, nghị luận xã hội nói riêng, các em đều định hình được 4 bước: Tìm
hiểu đề, tìm ý; Lập dàn ý; Viết bài; Đọc lại bài viết và sửa chữa. Tuy nhiên, khi
tiếp cận một đề làm văn, đa phần các em không tuân thủ 4 bước nói trên. Một số
em cẩn thận cũng chỉ gạch nhanh vài ý ra giấy nháp rồi cắm cúi viết đến khi


trống đánh hết giờ thì nộp bài. Chính vì vậy, có những bài viết lạc đề, diễn đạt
lủng củng, không có trọng tâm, không trau chuốt.
Ở phần trên, người viết đã giới hạn hai dạng đề nghị luận xã hội đó là
dạng nghị luận về tư tưởng, đạo lý và dạng nghị luận về hiện tượng đời sống.
Tuy nhiên, trên thực tế, các đề nghị luận xã hội vô cùng phong phú và đa dạng.
Sự phân chia các dạng đề chỉ mang tính tương đối. Nhiều khi, giới hạn giữa hai
dạng đề nghị luận là rất nhỏ, vì thế, học sinh khó xác định được dạng đề. Do đó,
việc nhận diện đề trước khi tìm hiểu đề và lập dàn ý, cũng như viết thành bài là
hết sức quan trọng. Thao tác này sẽ giúp học sinh định hướng đúng cho bài làm,

tránh hiện tượng làm bài sai lạc đề hoặc lan man, không có trọng tâm.
Ví dụ: Anh (chị) hãy xác định dạng đề của các yêu cầu sau:
(1)

(2)

(3)

(4)
(5)

(6)

“Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương
hướng kiên định, mà không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống”
(Lép Tôn-xtôi). Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về vai trò của lý
tưởng nói chung và trình bày lý tưởng riêng của mình.
Bàn về đọc sách, nhất là đọc các tác phẩm văn học, người xưa nói: “Tuổi trẻ đọc
sách như nhìn trăng qua kẽ lá, lớn tuổi đọc sách như ngắm trăng ngoài sân, tuổi
già đọc sách như thưởng trăng trên đài” (Dẫn theo “Lâm Ngữ Đường, sống
đẹp”, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Sài Gòn, 1965). Anh (chị) hiểu ý kiến trên
như thế nào?
Hãy viết một bài văn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn
đề: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn
giao thông hiện nay.
Anh (chị) suy nghĩ gì về hiện tượng nghiện “game” trong giới trẻ hiện nay?
Tỉ phú B.Gaste nói rằng: “Các bạn phải học để trả ơn cho đất nước, cho những
gì mà đất nước đã đầu tư cho bạn”. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến trên? Hãy
bàn về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?
Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến (1.1946),

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân.
Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của đất nước”. Anh (chị) hãy
viết một bài văn ngắn trình bày quan điểm của mình về việc làm thế nào để phát
huy tốt nhất thời vàng son của tuổi trẻ hiện nay?
Các đề bài trên là dạng đề đơn giản, thường gặp nên học sinh có thể dễ dàng
nhận ra dạng đề nhờ các dấu hiệu ngôn ngữ có trong đề bài: các đề (1), (2) thuộc
dạng bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lý. Đối với đề (1) và (2), học sinh nhận
ra dạng đề nghị luận về tư tưởng, đạo lý nhờ các câu nói nằm trong dấu ngoặc
kép. Đề (1) là câu nói của nhà văn Nga, Lép Tôn-xtôi, còn đề (2) là câu nói của
Lâm Ngữ Đường ở Trung Quốc. Yêu cầu của hai đề bài này là bình luận về câu
nói được trích dẫn. Nội dung của hai phát ngôn trên đều thuộc về vấn đề nhận
thức cuộc sống. Như vậy, ở dạng đề đơn giản, học sinh có thể nhận ra kiểu bài


nghị luận về một tư tưởng, đạo lý nhờ vào tín hiệu những nhận định, tư tưởng
được trích dẫn nguyên văn và đặt trong dấu ngoặc kép ở ngay đề bài.
Đối với đề (3) và (4), học sinh nhận ra dạng bài nghị luận về một hiện tượng
đời sống nhờ vào đối tượng được đề cập đến trong đề bài và yêu cầu của đề bài.
Đối tượng được đề cập đến là một sự kiện, một vấn đề đang xảy ra trong cuộc
sống hiện tại. Thông thường, đề bài đơn giản, học sinh có thể dễ dàng xác định
được dạng đề thông qua các từ ngữ như: hiện tượng, vấn đề, vấn nạn… Ở đề (3)
tín hiệu nhận diện là “vấn đề tai nạn giao thông”, ở đề (4) là hiện tượng nghiện
“game”.
Tuy nhiên, đối với đề (5) và (6), vấn đề nhận diện đề không đơn giản. Đối
với đề (5) có trích dẫn câu nói của B. Gates, vế đầu tiên có yêu cầu bàn luận về
câu nói này nhưng ở vế sau của đề bài yêu cầu bàn về trách nhiệm của thế hệ trẻ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lại là vấn đề về hiện tượng đời
sống. Như vậy, đề bài này vừa là nghị luận về một tư tưởng, đạo lý vừa là nghị
luận về hiện tượng đời sống. Với yêu cầu của đề bài (5), phải giải quyết trọng
tâm là bàn luận về tư tưởng, đạo lý nhiều hơn là hiện tượng đời sống. Tương tự

như vậy, đối với đề số (6), có lời trích dẫn câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên đề bài lại yêu cầu trình bày quan điểm về việc làm thế nào để phát
huy tốt nhất thời vàng son của tuổi trẻ hiện nay. Để giải quyết đề bài này, yêu
cầu người viết phải đi từ nhận định của Bác để bàn về vấn đề trong cuộc sống
hiện tại. Như vậy, yêu cầu đề chú trọng nhiều hơn đến phần hiện tượng đời sống.
Với các đề bài vừa thuộc nghị luận về tư tưởng, đạo lý vừa thuộc nghị luận
về hiện tượng đời sống, học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Với kiểu bài này, học
sinh cần kết hợp yêu cầu bài làm của cả hai dạng đề để giải quyết vấn đề. Trước
hết, các em phải xác định phần chung của cả hai dạng đề cần giải quyết, đó là:
-

Giới thiệu tư tưởng, đạo lý hoặc hiện tượng đời sống.
Bàn luận về tư tưởng, đạo lý hay hiện tượng đời sống, chỉ ra mặt đúng, mặt tích
cực hoặc mặt tiêu cực, mặt sai của vấn đề cần nghị luận.
Rút ra bài học nhận thức cho bản thân.
Mỗi dạng đề có các yêu cầu riêng của nó. Dạng đề nghị luận về một tư
tưởng, đạo lý cần nhất thiết phải giải thích ý nghĩa của tư tưởng, đạo lý còn dạng
bài nghị luận về hiện tượng đời sống thì thiên về phân tích nguyên nhân, chỉ ra
hậu quả của hiện tượng cần bàn luận. Đối với đề bài có sự kết hợp cả hai dạng
thì cần xác định luận điểm nhiều hơn, bao gồm cả phần chung và phần riêng của
vấn đề.
Như vậy, nhận diện đề là khâu quan trọng đầu tiên, giúp học sinh xác định
được hướng đi của bài làm, tránh việc lạc đề.

3.

Rèn luyện kĩ năng phân tích đề


Sau khi nhận diện đề, học sinh cần tiến hành khâu tìm hiểu đề. Đây không

phải là thao tác của riêng văn nghị luận xã hội mà bất cứ bài làm văn nào cũng
cần thiết phải chú ý. Trước mỗi đề nghị luận, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
đọc kĩ đề, gạch chân những từ ngữ quan trọng và tự đặt ra những câu hỏi như:
Vấn đề đặt ra trong đề bài là gì? Cần sử dụng những thao tác nào để nghị luận?
Để phân tích đề đạt hiệu quả cao, học sinh cần trải qua các bước sau:
Bước 1: Đọc kĩ đề bài. Đây là bước cần thiết để có được những nhận định
chung nhất, những dự cảm đầu tiên về nội dung làm bài và những phương
hướng để giải quyết vấn đề do đề bài nêu ra.
Bước 2: Phân tích, xác định yêu cầu về nội dung và hình thức nghị luận:
-

Xác định rõ ba yêu cầu: (1) Yêu cầu về thể loại; (2) những yêu cầu về nội dung
và (3) yêu cầu về phạm vi dẫn chứng. Đối với đề nghị luận xã hội, yêu cầu (1)
và (3) gần như giống nhau ở các đề bài. Thông thường, yêu cầu (1) là bình luận
còn yêu cầu (3) là dẫn chứng phải lấy từ thực tế cuộc sống, có thể lấy từ sách vở,
văn học nhưng cần hạn chế vì dễ sa vào ngoại đề. Yêu cầu (2) là quan trọng
nhất, đòi hỏi học sinh phải xác định đúng nội dung để đi đúng trọng tâm yêu
cầu.
Ví dụ:
Đề 1: Tục ngữ có câu: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Nhưng cũng
có bạn cho rằng: Nếu không có ý thức học tập thì chắc gì đã có sàng khôn nào?
Hãy chứng minh rằng cả câu tục ngữ và ý kiến trên đều có khía cạnh đúng.
Yêu cầu về nội dung (luận đề): dữ kiện “đi một ngày đàng, học một sàng
khôn” và “Nếu không có ý thức học tập thì chắc gì đã có sàng khôn nào?”
(chứng minh cả câu tục ngữ và ý kiến của bạn đều có khía cạnh đúng).
Đề 2: Suy nghĩ của anh (chị) về lòng yêu thương con người của tuổi trẻ trong
xã hội hiện nay?
Luận đề của đề bài này là vấn đề lòng yêu thương con người của tuổi trẻ
trong xã hội hiện nay.
Đề 3: Trong đoạn trích “Đất Nước” (Trích trường ca “Mặt đường khát

vọng”), tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
“Em ơi em!
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”


Anh (chị) hãy bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề vai trò, trách nhiệm của tuổi
trẻ đối với đất nước trong những dòng thơ trên?
Luận đề của đề bài này là bàn về vai trò, trách nhiệm của tuổi trẻ đối với đất
nước.
Đề 4: Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến sau của M. Gorki: “Sách mở
ra trước mắt tôi những chân trời mới”?
Luận đề của đề bài này là vai trò của sách trong cuộc sống của con người.
Với các ví dụ trên, có thể thấy, khi tìm hiểu đề, học sinh cần nắm vững
các thao tác: đọc kĩ đề, tìm từ hoặc cụm từ then chốt nhất trong đề bài, từ đó
phát biểu thành một câu hoặc một cụm từ ngắn gọn. Lưu ý học sinh, phải tìm
hiểu cặn kẽ ý nghĩa của những từ ngữ quan trọng, vai trò của các vế, các câu,
phân tích quan hệ ngữ pháp và quan hệ logic – ngữ nghĩa của chúng. Bắt đầu từ
sự phân tích ý nghĩa trực tiếp của vấn đề, chú trọng những lời trích dẫn (nếu có),
tập trung vào những từ ngữ đầu mối then chốt và ngăn tách các vế trong câu để
dễ phân biệt. Phải phát hiện cho hết ý nghĩa của các từ cả về nghĩa đen và nghĩa
bóng.
4.

Rèn kĩ năng tìm ý và lập dàn ý.
Đa số học sinh hiện nay, nhất là học sinh trung bình, yếu - kém chưa biết
viết văn theo luận điểm. Thông thường, các em viết lan man, ý lộn xộn, thường
hay tẩy xóa, nhớ đâu viết đó, nghĩ được gì thì viết ý đó. Những bài làm như thế

trong thang điểm của các đề thi thường chưa tới 50% so với số điểm tối đa. Có
thể thấy những bài văn này viết lan man, chung chung thành một đoạn chưa
thành bài văn. Thậm chí, giáo viên nhắc nhở nhiều lần cũng chỉ được một số em
chú ý thực sự đến việc tìm luận điểm cho bài viết.
Ở dạng bài nghị luận xã hội, luận điểm chính đã có sẵn trong cấu trúc bài
làm theo yêu cầu của sách giáo khoa. Học sinh chỉ cần tuân theo trình tự các
bước để lập dàn ý. Sau đây, tôi xin mạnh dạn đưa ra một cấu trúc bài làm về thứ
tự các luận điểm trong một bài văn nghị luận xã hội:



Đối với dạng bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lý:
Cấu trúc bài văn cần đạt:
 Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tư tưởng, đạo lý cần bàn luận.
 Thân Bài: gồm 3 nội dung:

-

Luận điểm 1: Giải thích:
+ Luận cứ: giải thích từ khóa (nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn).
+ Luận cứ: Giải thích từng vế (Nếu tư tưởng, đạo lý có nhiều vế).
+ Luận cứ: Giải thích khái quát nghĩa cả câu.


-

Luận điểm 2: Bàn luận:
+ Luận cứ (phần bình): Phân tích ý nghĩa, tác động, ảnh hưởng của tư tưởng,
đạo lý đối với đời sống con người (mặt đúng).
+ Luận cứ (phần luận): mở rộng vấn đề: Phê phán những thái độ sai trái,

những hiện tượng đi ngược lại với tư tưởng, đạo lý đang bàn luận.
+ Luận cứ: Lấy dẫn chứng minh họa.
- Luận điểm 3: Rút ra bài học nhận thức cho bản thân.
 Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa, mở rộng vấn đề.
Ví dụ:
ĐỀ 1: Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh
(chị) về câu ngạn ngữ Hy Lạp sau:
“Cái rễ của học hành thì đắng cay nhưng hoa quả của nó lại ngọt ngào”
Yêu cầu dàn ý:
 Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về vai trò của học vấn trong cuộc đời con
người.
 Thân bài:

-

Luận điểm: Giải thích:
+ Luận cứ: Học là gì?
+ Luận cứ: “Cái rễ của học hành thì đắng cay” nghĩa là gì?
+ Luận cứ: “hoa quả của nó lại ngọt ngào” nghĩa là gì?
+ Luận cứ: Câu văn đã dùng phép so sánh ẩn dụ quá trình học hỏi của con
người đầy vất vả, gian khổ, khó khăn (cái rễ của học hành thì đắng cay) nhưng
có học vấn sẽ mang lại niềm vui, hạnh phúc và lợi ích to lớn cho bản thân và xã
hội (hoa quả ngọt ngào). Phải nhìn thấy cả hai mặt của vấn đề và xác định rõ, chỉ
có không ngại khó, không ngại khổ, con người mới có thể thành công trong học
tập.
- Luận điểm: Bàn luận:
+ Luận cứ (phần bình): vai trò và bản chất của việc học: là một quá trình vất
vả, không ngừng nghỉ, diễn ra suốt cuộc đời con người; có học vấn, con người
mới có điều kiện làm chủ bản thân, gia đình và xã hội. Trên cơ sở đó, đời sống
vật chất và tinh thần mới được nâng cao.

+ Từ đó, ý kiến này ngầm đưa ra dụng ư khuyên răn con người ta muốn có
học vấn cao, phải nỗ lực học tập, tự vượt lên chính mình, kiên trì và chiến thắng


hoàn cảnh khó khăn để học hỏi, hoàn thiện bản thân. Đây là một lời khuyên sâu
sắc, đúng đắn, sáng suốt, có giá trị muôn đời.
+ Luận cứ (phần luận): Phê phán thái độ lười học, tự kiêu, chủ quan trong
học tập. Tình trạng lười học, bỏ học, học giả, học thiếu trung thực hiện nay trong
xã hội, nguyên nhân, hậu quả và giải pháp khắc phục.
+ Luận cứ: Nêu một số dẫn chứng tiêu biểu: Hồ Chí Minh, Gor-ki...
- Luận điểm: Bài học nhận thức cho bản thân: phải có ý chí, nghị lực để
vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong học tập.
 Kết bài: Khẳng định tính đúng đắn và ý nghĩa triết lý sâu xa của câu nói.
Đề 2: Viết một bài văn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị)
về ý kiến sau của La Roche Fou: “Một quyển sách tốt là một người bạn hiền”
Yêu cầu dàn ý:
 Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận.
Thân bài:
-

Luận điểm: Giải thích:
+ Luận cứ: Thế nào là sách tốt? (là loại sách mở ra cho ta chân trời mới, giúp
ta mở mang kiến thức về nhiều mặt).
+ Luận cứ: Thế nào là bạn hiền? (đó là người bạn có thể giúp ta chia sẻ
những nỗi niềm trong cuộc sống, giúp ta vươn lên trong học tập, cuộc sống).
+ Luận cứ: Tại sao lại ví sách tốt là người bạn hiền (do tác dụng tốt đẹp như
nhau).

-


Luận điểm: Bàn luận:
+ Luận cứ: Vai trò của sách.
+ Luận cứ (mở rộng): Trong xã hội có sách tốt và sách xấu, bạn tốt và bạn
xấu.
+ Luận cứ: Lấy dẫn chứng minh họa.

-

Luận điểm: Rút ra bài học nhận thức cho bản thân:
 Kết bài: Đánh giá lại vấn đề.



Đối với dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống:
Cấu trúc bài văn cần đạt như sau:
 Mở bài: giới thiệu ngắn gọn, khái quát về hiện tượng.
 Thân bài


Luận
điểm
1

Hiện tượng tích cực

Hiện tượng tiêu cực

Giải thích, làm rõ biểu hiện của hiện tượng
Bàn luận:
+ Luận cứ: Làm rõ vai trò, tác động của hiện tượng đối với đời

sống con người – Nêu dẫn chứng cụ thể.

2

+ Luận cứ: Phê phán những
+ Luận cứ: Phân tích nguyên
hiện tượng trái ngược.
nhân của hiện tượng.
+ Luận cứ: Đề xuất phương
+ Luận cứ: Đề xuất phương
hướng phát huy.
hướng khắc phục

3

- Rút ra bài học nhận thức cho bản thân

 Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa, mở rộng vấn đề.
Ví dụ:
Đề 1: Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về lòng yêu thương con người của
tuổi trẻ trong xã hội hiện nay?
Yêu cầu cần đạt:
 Mở bài: giới thiệu ngắn gọn, khái quát về hiện tượng.
 Thân bài
-

Luận điểm: Giải thích: Lòng yêu thương con người là gì?
Luận điểm: Bàn luận:
+ Luận cứ: Biểu hiện lòng yêu thương con người của tuổi trẻ trong xã hội?
+ Luận cứ: Ý nghĩa của lòng yêu thương con người?

+ Luận cứ: Phê phán thái độ thờ ơ, vô cảm… của con người.
+ Luận cứ: Dẫn chứng: Những tấm gương về sự yêu thương, đùm bọc...
+ Luận cứ: Đề xuất hướng phát huy lòng yêu thương ở con người trẻ tuổi
- Luận điểm: Rút ra bài học nhận thức cho bản thân.
 Kết bài: khái quát, đánh giá lại vấn đề.
Đề 2: Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng “nghiện” Internet trong giới trẻ
hiện nay?
Yêu cầu cần đạt:
 Mở bài: giới thiệu ngắn gọn, khái quát về hiện tượng.


 Thân bài
-

Luận điểm: Giải thích:
+ Luận cứ: “Nghiện” là gì?
+ Luận cứ: Thế nào là “nghiện Internet”?

-

Luận điểm: Bàn luận:
+ Luận cứ: Tác dụng và mặt trái của Internet.
+ Luận cứ: Biểu hiện của hiện tượng nghiện Internet trong giới trẻ hiện nay.
Hậu quả của việc nghiện Internet?
+ Luận cứ: Phân tích nguyên nhân nghiện Internet trong giới trẻ hiện nay.
+ Luận cứ: Đề xuất biện pháp khắc phục hiện tượng nghiện Internet trong
giới trẻ.
+ Dẫn chứng: Những bài học cuộc sống từ hiện tượng nghiện Internet được
truyền thông đưa tin.
- Luận điểm: Rút ra bài học nhận thức cho bản thân.

 Kết bài: khái quát, đánh giá lại vấn đề.
Trong quá trình rèn luyện kĩ năng, giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh
nhớ rằng: mỗi luận điểm nên viết thành một đoạn văn riêng biệt, để người đọc
nhận thấy bài làm có luận điểm rõ ràng, mạch lạc và học sinh cũng khắc phục
được hiện trạng viết lan man, không rõ ý hoặc lạc đề.
Việc hướng dẫn học sinh nhận diện đề và phân tích đề, lập dàn ý cho bài
văn nghị luận xã hội trong quá trình ôn tập, kiểm tra có thể giúp các em nhận
diện được yêu cầu của đề bài nhanh hơn, làm bài đạt kết quả cao hơn. Sau khi
hướng dẫn học sinh các thao tác trên, người viết đã khảo sát kết quả về khả năng
nhận diện đề của học sinh như sau:
Mức độ nhận diện

%

Nhận diện và làm bài nhanh, đúng trọng tâm

68.9

Nhận diện và làm bài chậm

24.3

Không nhận diện được đề và cách làm bài

6.8

Tổng số

100.0


IV. Hiệu quả của giải pháp:
Thực tế cho thấy, thời gian đầu, các em không nhận diện được đề và cũng
không biết phân tích đề, tìm luận điểm để lập dàn ý cho bài văn nghị luận xã hội.
Khi viết bài, có khi cả phần thân bài các em chỉ viết một đoạn văn, ý nọ chồng ý


kia, mắc rất nhiều lỗi diễn đạt và thường không đủ nội dung yêu cầu của cấu trúc
bài văn nghị luận xã hội.
Qua thời gian vận dụng kĩ năng nhận diện đề, phân tích, tìm ý, lập dàn ý
kết quả đạt khả quan hơn rất nhiều (tôi vận dụng những kĩ năng này không chỉ ở
kiểu bài nghị luận xã hội mà còn ở tất cả các kiểu bài có trong chương trình
học). Trên lớp, thông thường, sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài xong, tôi
thường ra dạng bài kiểm tra nhanh: cho đề bài sau … Hãy nhận diện, phân tích
đề hoặc tìm ý… sau đó cho học sinh về nhà lập dàn ý của đề bài đó vào vở hoặc
giấy nháp, tiết sau đó tôi thu bài về chấm và sửa cho các em. Ban đầu, tôi nhận
thấy sự không hứng thú của các em, thậm chí là thái độ đối phó khi tôi giao dạng
bài tập trên. Sau đó, tôi vẫn kiên trì áp dụng và tìm thêm một số biện pháp khác
ví dụ như cho các em hoạt động nhóm (chia nhóm trong đó có ít nhất một em
học khá môn văn), các nhóm sẽ trình bày yêu cầu của mình trên giấy A3 hoặc
bảng phụ. Sau một thời gian kiên trì, kết quả tôi nhận được thật khả quan, các
em đã viết bài đầy đủ bố cục, có thể là chưa hay nhưng các em đã nhận diện
được đề nhanh và tự phân tích được đề bài cũng như lập được dàn ý và đi sâu
vào trọng tâm đề bài yêu cầu, đa số các em đã làm chủ được bài viết của mình.
Bên cạnh đó, cũng có không ít những bài nghị luận xã hội hấp dẫn, thu hút và
khơi gợi được tình cảm của người đọc.
Kết quả cụ thể các lớp dạy của học kì I như sau
Thống kê điểm trên trung bình
Lớp

Thi

CLĐN

Bài
số 1

viết

Bài viết
Bài viết
Thi học kì
số 2
số 3
I

12A1

38.5

56.4

76.9

82.1

92.3

12A2

60.0


50.0

70.0

75.0

87.5

12A3

45.9

54.1

62.2

75.7

81.1

12A4

41.0

51.3

64.1

76.9


89.7

C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
Đối với môn Ngữ văn, quá trình đổi mới phương pháp dạy học, ngoài việc
tiến hành các hoạt động sư phạm tác động làm cho học sinh cảm nhận, nắm hiểu
những kiến thức về văn học, vấn đề kĩ năng “viết” để trình bày, diễn đạt cảm
xúc, suy nghĩ của bản thân là hết sức quan trọng. Kiến thức và kĩ năng mà môn
Ngữ văn trong nhà trường phổ thông truyền tải là hết sức “tạp mờ”, cần phải có


sự lột tả và dẫn dắt kĩ thuật cụ thể, học sinh mới có thể bắt nhịp làm quen và
sáng tạo được.
Với phương pháp Rèn luyện kĩ năng nhận diện đề, phân tích đề và lập dàn ý
trong bài văn nghị luận xã hội vừa trình bày, tôi xác định đây chỉ là định hướng
để học sinh có kĩ năng viết đúng, đầy đủ yêu cầu trong bài văn nghị luận xã hội.
Bên cạnh đó, tôi khuyến khích tư duy sáng tạo của các em trong quá trình luyện
tập, rèn luyện kĩ năng viết bài cao hơn, hay hơn.
Để học sinh viết tốt bài văn nghị luận xã hội, không chỉ đòi hỏi phương pháp
giảng dạy của người giáo viên mà còn có cả năng khiếu, kĩ năng viết văn vốn có
của học sinh. Tuy nhiên, phương pháp khoa học, phù hợp của giáo viên sẽ góp
phần không nhỏ trong việc nâng cao kết quả học tập của học sinh, nhất là môn
Ngữ văn, một môn vừa đòi hỏi tư duy nhiều, vừa đòi hỏi năng khiếu thiên bẩm
của người học. Vì vậy, theo tôi, đây là một phương pháp bổ ích giúp học sinh
đối tượng trung bình – yếu rèn luyện được cách viết văn, viết tốt được bài văn
nghị luận xã hội.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã áp dụng thành công trong quá
trình giảng dạy. Tôi hy vọng, phương pháp này sẽ được phổ biến và áp dụng
thành công trong tương lai ở nhiều giáo viên khác. Tuy nhiên, đó chỉ là mong
muốn chủ quan của người viết. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp

chân thành của quý đồng nghiệp.
2. Đề xuất
Với những khó khăn đặc thù của việc dạy và học môn Ngữ văn, những
thay đổi thường xuyên về phương pháp, mục đích, yêu cầu, cách kiểm tra đánh
giá học sinh, Ban chuyên môn cần tăng cường những chuyên đề trao đổi giữa
các thành viên trong tổ chuyên môn, bộ môn văn trong cụm Thạch Thành.
Với giáo viên, cần thay đổi phương pháp giảng dạy để phù hợp với yêu
cầu của bộ môn, yêu cầu của xã hội về sản phẩm giáo dục. Đặc biệt chú ý tới
mục đích bồi dưỡng năng lực cho học sinh.
Với học sinh, cần chủ động trong việc nâng cao năng lực bản thân từ bộ
môn, luôn cập nhật thông tin từ những kênh khác nhau để tăng khả năng nắm bắt
thông tin, rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội. Tham gia hoạt động ngoại khóa
do nhà trường tổ chức để có kinh nghiệm học hỏi. Đây cũng là cơ hội để rèn
luyện kĩ năng viết văn, phạm vi hiểu biết và kĩ năng sống cho mỗi cá nhân.


XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
KT.Hiệu trưởng
P. Hiệu trưởng

Thanh Hóa, tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Đỗ Duy Thành
Nguyễn Thị Hương

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.

Bảo Quyến, Rèn kĩ năng làm văn nghị luận, NXB Giáo dục, 2007.
Dương Thị Mai Hương - Rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh qua các giờ
Làm văn ở nhà trường THPT, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSPHN, 2002.
Đỗ Ngọc Thống, Đổi mới phương pháp dạy học làm văn cấp THPT (tập 1),
NXB Hà Nội, 2001


Hoàng Dục – Trần Văn Vụ, Ôn tập Ngữ văn 12, kiến thức và kĩ năng, NXB Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, 2009.
5. Hoàng Đức Huy, Phương pháp làm văn thuyết minh, nghị luận, NXB ĐHQG.
TPHCM, 2004.
6. Lê Anh Xuân (chủ biên), Rèn kĩ năng làm bài thi tốt nghiệp và bài thi đại học
môn Ngữ văn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
7. Lê Anh Xuân (chủ biên), 199 bài văn nghị luận xã hội ngắn, NXB Đại học Quốc
gia Hà Hội, 2009.
8. Lê Đình Mai, Để làm tốt các kiểu bài văn nghị luận, NXBGD, 1996.
9. Nguyễn Đăng Mạnh, Muốn viết được bài văn hay, NXBGD, 2008.
10. Nguyễn Quốc Siêu – Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông, NXBGD, 2005.
11. Phan Trọng Luận, Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 12,
NXB Sư phạm, 2010.
12. Phan Trọng Luận, Thiết kế bài học Ngữ văn 12, NXBGD, 2008.
13. Phan Trọng Luận (chủ biên), Sách giáo khoa Ngữ văn 12, NXBGD, 2008.
14. Phan Trọng Luận, Sách giáo viên Ngữ văn 12, NXBGD, 2008.
15. Phan Trọng Luận – Trần Đình Sử, Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo
khoa lớp 12 môn Ngữ văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2008.
16. Phan Quốc Trung, Những bài làm văn nghị luận xã hội chọn lọc, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.
17. Thẩm Thị Hà, Phương pháp làm văn nghị luận.
18. Trịnh Đình Hưng – Tổ chức rèn luyện kĩ năng xây dựng đề cương văn bản nghị
luận văn học cho học sinh lớp 10, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSPHN, 2001.
4.



×