Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số kinh nghiệm dạy học thể loại ca dao trong chương trình ngữ văn 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.6 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
1.Mở đầu.........................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài.....................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................1
1.4.1. Về lý thuyết......................................................................................1
1.4.2. Về thực tiễn .....................................................................................1
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...............................................................2
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài .........................................................................2
2.2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu..........................................................2
2.2.1 . Thuận lợi........................................................................................2
2.2.2 . Khó khăn........................................................................................2
2.2.3. Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu..... ..................................3
2.3. Nội dung, biện pháp thực hiện giải pháp của đề tài..............................3
2.3.1. Một số vấn đề về khái niệm và đặc trưng của ca dao.....................3
2.3.2. Một số kinh nghiệm khi giảng dạy phần ca dao.............................4
2.4 . Giáo án ứng dụng..................................................................................7
2.5. Kết quả thực nghiệm............................................................................11
3. Kết luận, kiến nghị...................................................................................12

1


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Ca dao dân ca trong đời sống tâm hồn nhân dân như một tiếng ru tỏa mát
giữa trưa hè, như một bến sông hò hẹn khi chiều buông...Tuy nhiên việc học
tập ca dao trong nhà trường chủ yếu dựa trên văn bản ngôn từ của bài ca. Việc
làm này phần nào hạn chế việc khám phá đầy đủ vẻ đẹp đặc trưng của bài ca


dao. Bởi lẽ, bản chất của văn học dân gian nói chung là “một nghệ thuật phức
tạp..., sử dụng hình tượng thị giác lẫn thính giác, trong đó phương tiện diễn
tả và phương tiện biểu hiện kết hợp với nhau” ( V.E. Guxev, Mỹ học folklor,
Hoàng Ngọc Hiến dịch, NXB Đà Nẵng ). Làm thế nào để có thể thưởng thức
ca dao đúng với vẻ đẹp vốn có của nó trong điều kiện nhà trường phổ thông
hiện nay? Đó là câu hỏi khiến cho những giáo viên dạy văn luôn trăn trở trong
quá trình giảng dạy.
Hơn nữa, hiện nay đứng trước cơn lốc của cơ chế thị trường, nhiều giá trị
nhân văn có nguy cơ bị xói mòn, mai một. Từ thực tế đó, đòi hỏi người giáo
viên dạy Ngữ văn phải nhận thức được những thử thách đang chờ đón phía
trước. Bên cạnh đó, đa số phụ huynh học sinh lại hướng cho con em lựa chọn
các môn tự nhiên. Đứng trước bối cảnh đó, con đường dẫn dắt học sinh tiếp
cận tác phẩm văn chương, đặc biệt là các tác phẩm văn học dân gian càng trở
nên nhọc nhằn, đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật cao hơn, linh hoạt
hơn về phương pháp mới có thể tạo hứng thú cho các em trong những giờ
học.
Trong quá trình giảng dạy phần ca dao ở chương trình lớp 10 THPT Ban
cơ bản, tôi thấy học sinh còn chưa hiểu hết được nội dung ý nghĩa của tác
phẩm. Vì vậy trong sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy học thể
loại ca dao trong chương trình Ngữ Văn 10 – THPT, tôi sẽ trình bày hướng
tiếp cận theo đặc trưng thể loại để học sinh có thể hiểu đúng thể loại ca dao
trong nhà trường phổ thông.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm giúp cho giáo viên dạy văn, nhất là giáo viên đang trực tiếp giảng
dạy ở lớp 10 THPT có thêm tư liệu để phục vụ cho việc giảng dạy mảng văn
học dân gian trong đó có thể loại ca dao. Hi vọng đây sẽ là nguồn kiến thức
bổ ích cho các thầy cô.
- Đối với học sinh đây là một trong những phương pháp quan trọng để giúp
các em hiểu đúng và cảm nhận được cái hay của mỗi bài ca dao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài sẽ đi sâu vào nghiên cứu cách tiếp cận các bài ca dao trong chương
trình để có thể khám phá được cái hay, cái đẹp. Từ đó hướng dẫn học sinh đọc
hiểu để cảm nhận sâu sắc ý nghĩa của các bài ca dao.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1 Về lý thuyết:
- Tìm hiểu các tài liệu về thể loại ca dao của văn học dân gian.
- Các bài nghiên cứu, lí luận phê bình về các bài ca dao.
2


1.4. 2. Về thực tiễn:
- Dự giờ của các đồng nghiệp về các tiết giảng văn văn học dân gian trong
chương trình.
- Thực nghiệm triển khai đề tài vào tiết dạy cụ thể.
- Chọ hai lớp cơ bản có trình độ ngang nhau: một lớp thực nghiệm đề tài
còn một lớp không.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài
Tác phẩm văn học trong đó có văn học dân gian là một chỉnh thể nghệ
thuật toàn vẹn. Vì vậy tác phẩm văn học bao giờ cũng tồn tại trong dạng thức
một loại thể nhất định. Bởi vậy đọc hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng thể
loại là vô cùng quan trọng. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại chính là giảng dạy tác phẩm trong sự thống nhất giữa hình thức với nội
dung, một sự giáo dục đi đúng với quy luật và bản chất của văn học đồng thời
đảm bảo hiệu quả giáo dục cao nhất.
Mặt khác đặc điểm riêng của lịch sử dân tộc dẫn tới sự hình thành nhiều
thể loại văn học dân gian khác nhau. Do vậy việc tiếp cận tác phẩm văn học
dân gian theo đúng đặc trưng thể loại là việc có ý nghĩa.
Dạy học ngày nay là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Thầy là
người đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh khám phá ra tri thức. Giờ dạy

học văn nay không còn là giờ giảng văn truyền thống mà là giờ đọc hiểu văn
bản. Có nghĩa là dưới sự tổ chức của thầy trò phải đọc và hiểu được văn bản.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.2.1.Thuận lợi
Về phía giáo viên:
Được sự quan tâm chỉ đạo của BGH nhà trường, tổ Văn đã tổ chức cho các
thành viên trong tổ học tập về phương pháp giảng dạy mới; trao đổi kinh
nghiệm và trau dồi kiến thức để cùng nhau tiến bộ góp phần phát triển nền
giáo dục nước nhà.
Bên cạnh đó, giáo viên trong tổ Văn của trường nhiều người có tuổi đời
cũng như tuổi nghề nên có tinh thần trao đổi về kiến thức, kinh nghiệm giảng
dạy, biết đoàn kết giúp đỡ nhau để nâng cao chuyên môn và nghiệp vụ sư
phạm.
Về phía học sinh:
Đa số các em có tinh thần cầu tiến, ham học hỏỉ, thích khám phá
những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
2.2.2. Khó khăn:
Về phía giáo viên:
Việc thay đổi sách giáo khoa về nội dung chương trình và phương
pháp giảng dạy có nhiều đổi mới. Bên cạnh đó việc giảng dạy tác phẩm
văn chương theo đặc trưng thể loại lâu nay chưa thật chú trọng và tài liệu
tham khảo về vấn đề này chưa nhiều gây khó khăn cho giáo viên trong quá
trình giảng dạy.
3


Về phía học sinh:
Học sinh ở trường chúng tôi chủ yếu là học ban tự nhiên, các em chỉ
chú trọng các môn Toán, Lí, Hoá. Nhiều em còn nhút nhát, chưa mạnh
dạn phát biểu ý kiến, chưa dám chủ động trình bày cách cảm thụ, cảm

nhận của riêng mình. Bên cạnh đó một số em cho rằng văn học dân gian
vốn không xa lạ với các em nên không cần phải tìm hiểu sâu, do đó mà có
những lệch lạc khi tiếp nhận tác phẩm.
2.2.3. Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu
Trước khi nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã
tiến hành khảo sát các tiết dạy và học phần ca dao trong chương trình ở
khối lớp 10 trong năm học 2014-2015, 2015-2016
- Hình thức và nội dung khảo sát:
+ Tập trung vào mảng kiến thức thuộc phần văn học dân gian đã dạy
thực tế trong chương trình ở khối lớp 10 trong năm học 2014-2015, 20152016
+ Sử dụng phiếu học tập với những câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra
việc nắm kiến thức bài học, sự hiểu biết của học sinh về ca dao.
+ Tiến hành cho học sinh làm bài kiểm tra viết, đánh giá tổng quát khả
năng cảm thụ, phân tích giá trị nghệ thuật và nội dung các bài ca dao trong
chương trình.
- Kết quả khảo sát:
Giỏi
Khá
Tb
Yếu

số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

10A1 47
0
0
10
21.3 22
46.8 15
31.9
10
10A3 48
0
0
12
25
20
41.7 16
33.3
10A5 47
0
0
22
46.8 20
42.6 5
10.6
Qua thực tế khảo sát tôi thấy:
+ Sự hiểu biết về tác phẩm văn học dân gian nhất là thể loại ca dao được
học trong chương trình còn hạn chế.
+ Khả năng tiếp thu và cảm nhận những bài ca dao chưa cao.
+ Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội
dung các tác phẩm còn hời hợt. Vì vậy số bài đạt điểm khá chưa cao.
2.3. Nội dung, biện pháp thực hiện giải pháp của đề tài

2.3.1. Một số vấn đề về khái niệm và đặc trưng của ca dao
2.3.1.1 Khái niệm ca dao
Theo SGK Ngữ văn 10 cơ bản, ca dao là lời thơ trữ tình dân gian thường kết
hợp với âm nhạc khi diễn xướng nhằm diễn tả thế giớ nội tâm của con người.
Dân ca là những sáng tác kết hợp lời với nhạc. Ca dao là lời của dân ca, hay
nói cách khác dân ca chính là hình thức diễn xướng của ca dao. Điều đó
khẳng định việc học ca dao phải dựa vào vốn văn hóa đã làm nền cho sự ra
đời và đời sống của các bài ca dao qua năm tháng.
2.3.1.2 Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của ca dao
Khối Lớp

4


Về nội dung:
Ca dao được coi là “thơ của vạn nhà”, là tấm gương soi của tâm hồn và
đời sống dân tộc. Ca dao diễn tả đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của
nhân dân lao động trong các quan hệ lứa đôi, gia đình, quê hương, đất
nước...Ra đời trong xã hội cũ, ca dao trữ tình là những tiếng hát than thân,
những lời ca yêu thương tình nghĩa cất lên từ cuộc đời còn nhiều xót xa cay
đắng nhưng đằm thắm ân tình của người bình dân Việt Nam sau lũy tre xanh,
bên giếng nước gốc đa, sân đình,...Bên cạnh đó, còn có những bài ca dao hài
hước thể hiện tinh thần lạc quan của người lao động.
Về nghệ thuật:
Lời ca dao thường ngắn, phần lớn đặt theo lục bát hặc lục bát biến thể.
Ngôn ngữ gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày, giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ và
đặc biệt là lối diễn đạt bằng một số công thức mang đậm sắc thái dân gian.
2.3.2. Một số kinh nghiệm khi giảng dạy phần ca dao
2.3.2.1 . Sử dụng kĩ năng mềm để tạo không khí cho tiết học
Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng của con

người: kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm...Đối với
người giáo viên, trong quá trình giảng dạy đôi khi phải làm việc như một ca
sĩ, một họa sĩ, một diễn viên thậm chí một nhà biên kịch... Khi dạy phần ca
dao trong chương trình, giáo viên có thể hát cho học sinh nghe một hai làn
điệu dân ca không chỉ tạo không khí lớp học sôi nổi mà còn là cách để khắc
sâu cho học sinh thấy được đặc trưng của thể loại ca dao. Giáo viên cũng có
thể khuyến khích học sinh cùng tham gia, hưởng ứng và sẽ có hình thức
khuyến khích như cho điểm miệng. Với cách làm này giờ dạy văn không chỉ
đơn thuần là truyền thụ kiến thức mà còn phải hay, phải lôi cuốn học sinh làm
cho học sinh thích thú, say mê.
2.3.2.2 . Chú trọng đặc trưng thể loại
Việc đổi mới phương pháp dạy học rất chú trọng đến cách tiếp cận tác
phẩm theo đặc trưng thể loại.
Ca dao là một thể loại khá quen thuộc trong tâm thức con người nói chung
và học sinh nói riêng. Do đó mà dễ nảy sinh tâm lí chủ quan khi tiếp cận tác
phẩm. Vì vậy mà khi giảng dạy phần này tôi thấy đa số giáo viên thường lướt
nhanh phần đặc trưng của thể loại ca dao mà chỉ tập trung vào khai thác các
bài ca dao cụ thể. Tuy nhiên qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng nếu
lướt qua phần đặc trưng thể loại, giáo viên khó mà giúp học sinh cảm nhận cái
hay, cái đẹp của một bài ca dao. Do đó, thay vì dành thời gian để cố gắng khai
thác, tìm hiểu tất cả các bài ca dao trích trong sách giáo khoa, giáo viên nên
dành thời gian để giúp học sinh nắm vững đặc trưng thể loại.
Khi dạy bài ca dao “Khăn thương nhớ ai...” giáo viên có thể đặt vấn đề
cho học sinh suy nghĩ phát hiện: thương nhớ vốn là một tình cảm khó hình
dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Vậy mà ở bài ca dao này, tình cảm
đó lại được diễn tả khá cụ thể, tinh tế và gợi cảm. Đó là nhờ cách nói riêng
mang tính nghệ thuật của ca dao. Cách nói đó như thế nào? Tác giả dân gian
5



đã dùng thủ pháp gì và thủ pháp đó đã tạo hiệu quả ra sao?. Học sinh phát
hiện và trả lời: Ca dao hay nói bằng hình ảnh, biểu tượng. Trong bài ca dao
này, nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã được biểu hiện một
cách cụ thể, sinh động bằng các hình ảnh biểu tượng khăn, đèn, mắt. Gắn liền
với các hình ảnh biểu tượng là các thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ,
những hình thức lặp đi lặp lại.
Tóm lại ca dao có vẻ đẹp riêng. Đó là những tác phẩm trữ tình vừa độc
đáo, giàu tính thẩm mĩ vừa đậm đà tinh thần dân tộc.
2.3.2.3. Đặt bài ca dao trong những tác phẩm cùng đề tài, chủ đề.
Thơ dân gian xem như một dạng thức chính của thơ trữ tình và ở thơ ca dân
gian, “đặc điểm dân tộc được biểu lộ nhiều nhất” ( Heeghen). Vì vậy có thể
dựa vào thơ ca dân gian để “khám phá tâm hồn các dân tộc, cách các dân tộc
nhìn thế giới và nhìn cuộc đời”. Hay nói như Xuân Diệu, học ở ca dao có thể
“học tính giai cấp trong đó, học lập trường của những người lao động, học
cái hiện thực của việc đời qua mấy nghìn năm trong đó, học các tương quan
xã hội...học máu và mồ hôi, nước mắt và nụ cười của những con người”. Nói
tóm lại “bản chất trữ tình của ca dao bao giờ cũng mang tính phổ quát toàn
dân tộc” ( Nguyễn Trường Phát, Thi pháp văn học dân gian, NXB Giáo dục).
Để thể hiện tiếng nói cộng đồng, chủ thể của mỗi bài ca dao là cái tôi tập
thể chứ không phải là cái tôi cá biệt. Do vậy nhân vật trữ tình trong ca dao có
thể quy về một số kiểu nhất định: chàng trai, cô gái, người vợ, người chồng,
người mẹ, người con dâu...Như vậy để tìm hiểu đầy đủ những khía cạnh, cách
nhìn, thái độ của nhân dân trước một vấn đề cụ thể trong một bài ca dao, việc
đặt bài ca trong hệ thống đề tài, chủ đề là việc làm cần thiết và tất yếu. Đây là
con đường ngắn nhất để chúng ta có thể tìm ra tiếng nói chung của cộng đồng
trước một đối tượng cụ thể nào đó.
Ví dụ như khi dạy bài ca dao “ Thân em như tấm lụa đào...” cần đặt bài ca
dao vào đề tài người phụ nữ và chùm ca dao thuộc chủ đề than thân của người
phụ nữ trong xã hội cũ, mở rộng ra các câu tục ngữ, truyện thơ, chèo...để thấy
được cách nhìn, thái độ của nhân dân đối với người phụ nữ. Đó là niềm cảm

thương thân phận bé nhỏ, bị lệ thuộc, chịu nhiều vất vả, bấp bênh ( Thân em
như hạt mưa, giếng giữa đàng, miếng cau khô, trái bần trôi...), thái độ bất
bình trước những bất công xã hội với quan niệm trọng nam khinh nữ, chế độ
đa thê ( Quan Âm Thị Kính, tiếng hát than thân của người vợ lẽ, nàng dâu...).
Việc đặt bài ca dao vào tổng thể của đề tài, chủ đề cũng góp phần phát hiện
điểm sáng tạo riêng của mỗi bài ca dao. Chẳng hạn khi dạy bài ca dao “ Ước
gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi” giáo viên cần
đặt chiếc cầu dải yếm trong hệ thống hình ảnh cái cầu của ca dao tình yêu để
cảm nhận vẻ đẹp của nó. Trong ca dao tình yêu, cái cầu là một chi tiết nghệ
thuật quen thuộc và đặc sắc, xuất hiện với tần số khá lớn, trở thành một biểu
tượng để chỉ nơi gặp gỡ, hò hẹn của những đôi lứa đang yêu, là phương tiện
để họ có thể đến với nhau. Cái cầu đó có thể là cành hồng ( Hai ta cách một
con sông/ Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang), ngọn mồng tơi ( Gần đây
6


mà chẳng sang chơi/ Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu...). Đặt trong hệ
thống hình ảnh cái cầu nói trên càng thấy rõ vẻ đẹp độc đáo của cái cầu – dải
yếm. Đó chính là người con gái! Người con gái muốn dùng cái vật thân thiết
nhất, gần gũi nhất để bắc cầu mời mọc người mình yêu( SGV Ngữ văn 10 tập
1 – trang114). Đây không phải là cành hồng, ngọn mồng tơi – những cái ở
bên ngoài họ phải mượn để bắc cầu mà là cái dải yếm của họ.Cái cầu - dải
yếm đã được tạo nên bằng chính máu thịt, cuộc đời, trái tim rạo rực yêu
đương của những người con gái làng quê. Trong hệ thống hình ảnh cái cầu
của ca dao, cầu dải yếm là kết tinh đẹp đẽ nhất.
Như vậy việc đặt bài ca dao vào tổng thể các sáng tác dân gian cùng đề tài,
chủ đề có ý nghĩa soi chiếu qua lại để từ đó có thể đánh giá được giá trị mỗi
tác phẩm một cách hợp lí và thấu đáo.
2.3.2.4. Tìm hiểu vẻ đẹp của hình tượng trong bài ca dao
Văn học phản ánh hiện thực đời sống bằng hình tượng. Ca dao cũng vậy.

Hình tượng là một trong những cơ sở quan trọng thể hiện vẻ đẹp bài ca dao,
chủ yếu là từ những qua sát trực tiếp hàng ngày của nhân dân. Với chùm ca
dao thân em, có thể tìm được các hình tượng sau: hạt mưa, quả cau, giếng
giữa đàng, hạc đầu đình, củ ấu gai, trái xoài trên cây...Phân tích bài ca dao
“Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” với hình
tượng tấm lụa đào đặt trong hệ thống, ta thấy điểm gặp gỡ chung là: hầu hết
những sự vật bé nhỏ, lênh đênh, không làm chủ số phận; đồng thời cũng thấy
đặc điểm riêng của hình tượng này: vẻ cao sang, quý báu, mềm mại... gợi vẻ
đẹp quyến rũ, kiêu sa của người con gái thời thiếu nữ. Nó cũng gợi lên sự
tương phản gay gắt giữa giá trị, vẻ đẹp với số phận lênh đênh, vô định của
hình tượng. Đó cũng là tiếng nói phơi bày sự bất công xã hội - nguyên nhân
của số phận chìm nổi ấy.
Như vậy vẻ đẹp của hình tượng trong một bài ca dao không chỉ mang vẻ
đẹp của một hình tượng nghệ thuật đơn thuần mà ở chiều sâu của nó là cốt
cách dân tộc, tiếng nói chung của một lớp người, một thời đại. Mặt khác thế
giới hình tượng phong phú của ca dao vô cùng gần gũi, gắn bó với đời sống
hàng ngày của nhân dân. Do vậy cảm nhận một hình tượng nghệ thuật của ca
dao cũng là tìm về với cái đẹp cội nguồn, là đánh thức hồn quê, hồn đất nước
trong mỗi chúng ta.
2.3.2.5. Gắn với hoạt động ngoại khóa dân gian
Hoạt động ngoại khoá Văn học theo quan niệm đổi mới phương pháp dạy
học là một hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả, nối liền bục giảng
với thực tiễn đời sống; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh,
qua đó kiểm tra chất lượng dạy học trong những giờ học chính khoá. Vì thế
hoạt động ngoại khoá Văn học vừa là hoạt động giáo dục, vừa là hoạt động
thẩm mỹ "góp phần tạo ra lối sống văn hoá và khả năng hưởng thụ văn hoá
nghệ thuật cho học sinh. Qua hoạt động ngoại khóa Văn học, học sinh được
phát triển cân đối về trí tuệ, đạo đức, thể dục và mĩ dục" (Phan Trọng Luận,
Phương pháp dạy văn, NXB Đại học Quốc gia 1996, Tr. 381). Đây là hình
7



thức khai thác tác phẩm văn học dân gian nhất là thể loại ca dao để làm sống
lại tác phẩm trong môi trường diễn xướng thông qua các hình thức diễn bằng
lời, nhạc, vũ.
2.4. Giáo án ứng dụng
Tiết 24 - 25:

CA DAO THAN THÂN YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA

A. Mục tiêu bài học
Giúp học sinh nắm được:
- Những đặc trưng cơ bản của ca dao, dân ca.
- Cảm nhận được tiếng hát than thân và yêu thương tình nghĩa của người bình
dân trong xã hội phong kiến xưa qua nghệ thuật riêng đậm màu sắc dân gian
của ca dao.
- Nắm được phương pháp tiếp cận và phân tích ca dao.
- Đồng cảm với tâm tư của người lao động xưa, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của
họ
B. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
Giáo viên: - Đọc kĩ SGK, SGV và các tư liệu có liên quan để nắm chắc
những đặc trưng cơ bản của ca dao.
- Sưu tầm một số tư liệu có liên quan đến bài học.
Học sinh: - Đọc phần Tiểu dẫn trong SGK kết hợp với việc tìm hiểu thêm
một số tư liệu khác về ca dao.
- Đọc văn bản các bài ca dao trong SGK và trả lời câu hỏi trong
phần Hướng dẫn học bài.
C. Cách thức tiến hành
Giáo viên kết hợp sử dụng phương pháp giảng giải, giảng bình, phân tích để
tiếp cận bài học.

D. Tiến trình bài học
1. Ổn định lớp
2. Dẫn dắt học sinh vào bài mới: Ca dao là khúc hát tâm tình của người
Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó bồi đắp tâm hồn con người,
giúp ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp bình yên nơi thôn quê, nỗi nhọc nhằn cũng
như vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động. Để hiểu rõ hơn về vẻ đẹp tâm
hồn ấy, hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu bài Ca dao than thân yêu thương tình
nghĩa.
3. Bài mới
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1; Tìm hiểu phần Tiểu dẫn
I. Tiểu dẫn
Gv gợi học sinh nhớ lại kiến thức đã học 1. Khái niệm ca dao
và dẫn dắt vào bài: Hãy nhắc lại khái - Ca dao là lời thơ trữ tình dân
niệm ca dao? Ca dao khác dân ca ở chỗ gian thường kết hợp với âm nhạc
nào?
khi diễn xướng nhằm diễn tả thế
Hs: trình bày
giới nội tâm của con người.
8


Gv lưu ý Hs phân biệt ca dao, dân ca
- Ca dao là lời của dân ca
Dân ca là những sáng tác kết hợp lời với
nhạc. Nói đến dân ca phải nói đến môi
trường và hình thức diễn xướng ( dân ca
quan họ Bắc Ninh, hát ví, hát dặm Nghệ
Tĩnh...)

GV giúp học sinh phân biệt rõ hơn bằng
cách đọc bài ca dao:
- Con cò bay lả bay la
Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng
- Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.
và hát/ngâm theo điệu cò lả và theo làn
điệu dân ca quan họ Bắc Ninh
Gv gọi 1, 2 học sinh hát và có hình thức
khen thưởng như cho điểm miệng

2. Nội dung và nghệ thuật của
ca dao:
- Về nội dung:
Ca dao diễn tả đời sống tâm hồn,
tư tưởng, tình cảm của nhân dân
lao động trong các quan hệ lứa
đôi, gia đình, quê hương, đất
nước...Ra đời trong xã hội cũ, ca
dao trữ tình là những tiếng hát
than thân, những lời ca yêu
thương tình nghĩa cất lên từ cuộc
đời còn nhiều xót xa cay đắng
nhưng đằm thắm ân tình của
người bình dân Việt Nam sau lũy
tre xanh, bên giếng nước gốc đa,
sân đình,...Bên cạnh đó, còn có
những bài ca dao hài hước thể
hiện tinh thần lạc quan của người
lao động.

- Về nghệ thuật:
Lời ca dao thường ngắn, phần
lớn đặt theo lục bát hoặc lục bát
biến thể. Ngôn ngữ gần với lời ăn
tiếng nói hằng ngày, giàu hình
ảnh so sánh, ẩn dụ và đặc biệt là
lối diễn đạt bằng một số công
thức mang đậm sắc thái dân gian.

Hoạt động 2; Tìm hiểu một số bài ca
dao
Gv hướng dẫn học sinh cách đọc các bài
ca dao
GV: Nhân vật trữ tình trong bài ca dao số
1 là ai? Em có nhận xét gì về hình thức
mở đầu của bài ca dao?
HS trả lời.
GV: Không chỉ có bài ca dao này trong ca
dao có một hệ thống bà mở đầu bằng
“Thân em như...” Em có thể đọc một số
bài ca dao có cách mở đầu như vậy?
Hs trả lời. Gv có thể đọc thêm một số bài
khác.

II. Cảm nhận một số bài ca dao
1. Ca dao than thân ( bài 1 )
- Nhân vật trữ tình: Lời than của
người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Công thức mở đầu: Thân em
→ Mô típ “Thân em” xuất hiện

với tần số khá lớn trong ca dao.
- Biện pháp nghệ thuật: so sánh,
ẩn dụ: Thân em – tấm lụa đào
→ Là tiếng nói tự khẳng định giá
trị, phẩm chất tôt đẹp của người
phụ nữ
- Cách xây dựng đối lập:
+ Tấm lụa đào >< phất phơ giữa
9


GV: Hình thức lặp lại với tần số khá lớn
như thế cho ta biết điều gì về thân phận
của người phụ nữ trong xã hội cũ?
HS nêu cảm nhận
Gv đánh giá: Đó là những cuộc đời bị phụ
thuộc không được quyền quyết định của
người phụ nữ. Thân em như là lời chung
của người phụ nữ về giá trị con người và
thân phận nhỏ bé, yếu ớt, đắng cay, tội
nghiệp của họ.
GV nêu vấn đề: Thân phận có nét chung
nhưng nỗi đau của từng người lại mang
sắc thái riêng được diễn tả bằng những
hình ảnh so sánh và ẩn dụ khác nhau.
Gv; Người con gái ý thức về mình như thế
nào qua hình ảnh so sánh “như tấm lụa
đào” và hình ảnh bổ sung “ phất phơ
giữa chợ biết vào tay ai”?
Hs thảo luận, trả lời:

Người phụ nữ ý thức được sắc đẹp, tuổi
xuân và giá trị của mình nhưng số phận
chông chênh, không có gì đảm bảo, không
biết sẽ vào tay ai. Người phụ nữ cảm thấy
mình không khác gì một món hàng để
mua bán. Người con gái bước vào cái tuổi
đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì
cũng là lúc nỗi lo về thân phận ập đến.
Gv gọi Hs đọc bài ca dao số 4.
Gv: Nhân vật trữ tình trong bài ca dao là
ai? Cô gái này đang sống trong một tâm
trạng như thế nào?
Gv dẫn dắt: Nỗi nhớ là hiện thân của tình
yêu nhưng nó vốn trừu tượng. Song với
tác giả dân gian nỗi nhớ ấy lại được diễn
tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm.

chợ → đối lập giữa vẻ đẹp, giá trị
và nhân phẩm. Thân phận của cô
được coi như món hàng giữa chợ
=> Bài ca dao không chỉ là lời
than của cô gái có thân phận bị
phụ thuộc, không thể làm chủ và
quyết định được tương lai hạnh
phúc của mình đồng thời còn là
tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm
chất của mình.

2. Ca dao yêu thương tình nghĩa
Bài 4

- Nhân vật trữ tình: cô gái
a. Nỗi nhớ thương
- Điệp từ “thương nhớ”→ nỗi
nhớ triền miên, cồn cào da diết.
- Hình ảnh khăn: là vật trao
duyên, kỉ vật gợi nhớ người đàng
xa. Là vật luôn gắn bó, chia sẻ
với người con gái
- Những trạng thái của chiếc
khăn:
+ Thương nhớ
+ Rơi xuống đất
+ Vắt lên vai
+ Chùi nước mắt
10


Gv: Sự khác biệt về thể thơ của hai câu
kết với 10 câu đầu? Em hiểu như thế nào
là cảm xúc lo phiền? Cô gái lo phiền về
điều gì?

Gv dẫn dắt: Hình ảnh muối mặn gừng cay
là hai hình ảnh gắn bó, thường được nhắc
đến trong ca dao như những biểu tượng
cho tình nghĩa thủy chung của con người:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng / Gừng
cay muối mặn xin đừng quên nhau...

→Những hình ảnh nhân hóa và

một loạt các động từ chỉ sự vận
động trái chiều đã diễn tả nỗi nhớ
trải ra không gian nhiều chiều và
tâm trạng rối bời, ngổn ngang
trăm mối của cô gái.
- Hình ảnh ngọn đèn gợi thời gian
ban đêm, nỗi nhớ chuyển từ
không gian sang thời gian, từ
ngày sang đêm nên càng thêm
sâu sắc da diết.
- Hình ảnh ngọn đèn không tắt là
ẩn dụ chỉ ngọn lửa tình yêu bùng
cháy, mãnh liệt, nỗi nhớ đằng
đẵng với thời gian.
- Hình ảnh đôi mắt là hình ảnh
hoán dụ, là cửa sổ tâm hồn
+ mắt ngủ không yên: sự trằn
trọc, thao thức → nỗi nhớ xâm
nhập cả tiềm thức và vô thức của
cô gái.
b. Nỗi lo phiền
- Thể thơ: lục bát: âm điệu da
diết, khắc khoải, lắng sâu.
- Cô gái lo phiền vì không yên
một bề
Đặt hoàn cảnh cuộc sống người
phụ nữ xưa trong hệ thống những
bài ca dao than thân về hôn nhân
gia đình thì nỗi lo của cô gái vì lễ
giáo phong kiến bất công, hủ tục

của xã hội cũ khiến tình yêu dù
có tha thiết sâu nặng nhưng
không dễ gì dẫn tới hôn nhân.
Bài 6:
- Muối và gừng:
+ Là những gia vị trong bữa ăn
của nhân dân ta.
+ Là vị thuốc lúc đau ốm của
người lao động nghèo.
+ Là những vật luôn gắn bó với
nhau.
+ Thử thách thời gian không làm
11


nhạt phai hương vị: muối - ba
năm – còn mặn / gừng – chín
tháng – còn cay.
- Hình ảnh biểu tượng: muối mặn
– gừng cay. Đó là những hình
ảnh ẩn dụ tượng trưng cho những
trải nghiệm cay đắng, mặn mà
của tình người nhất là tình vợ
chồng. Đồng thời sự gắn bó tự
nhiên của chúng còn biểu tượng
cho tình nghĩa thủy chung của
con người. chỉ có cái chết mới
chia lìa con người.
=> Bài ca dao trên thể hiện sự
gắn bó thủy chung, son sắt, bền

vững của tình cảm vợ chồng.
III. Tổng kết
Nội dung:
Gv; Từ việc học những bài ca dao than - Đời đời sống tâm hồn phong
thân yêu thương tình nghĩa, em hiểu được phú với nhiều cung bậc cảm xúc
gì về đời sống tâm hồn, tình cảm và vẻ tình cảm khác nhau của người
đẹp của người lao động xưa?
dân lao động.
- Vẻ đẹp tâm hồn của người lao
động xưa: giàu tình cảm yêu
thương, khao khát hạnh phúc,
thủy chung, tình nghĩa.
Nghệ thuật;
- Sử dụng hình ảnh biểu tượng:
khăn, đèn, mắt, gừng cay, muối
mặn...
- Hình ảnh so sánh, ẩn dụ.
- Thể thơ lục bát, bốn chữ
Củng cố, dặn dò:
- Học thuộc các bài ca dao.
- Cảm nhận các bài thơ còn lại.
2.5. Kết quả thực nghiệm
Áp dụng đề tài Một số kinh nghiệm dạy học thể loại ca dao trong
chương trình Ngữ Văn 10 – THPT trong tiết dạy bài Ca dao than thân yêu
thương tình nghĩa đã giúp tôi đạt được kết quả nhất định: Học sinh trong lớp
tôi trực tiếp giảng dạy đã cảm thấy thích thú hơn với giờ học. Điều quan trọng
12


là các em đều nhận ra rằng để tiếp cận một bài ca dao phải đặt bài ca dao đó

trong hệ thống những bài cùng đề tài, chủ đề và phải chú trọng đặc trưng thể
loại...
Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi vào thực tế giảng dạy
ở 3 lớp đều là Ban cơ bản, tôi thu được kết qủa như sau:

số
10A1 47
10A3 48
10A5 47

Khối Lớp
10

Giỏi
SL
2
0
0

%
0.4
0
0

Khá
SL
30
31
35


Tb
%
SL
63.8 15
64.6 14
74.5 10

Yếu
%
SL
31.9 0
29.2 3
21.3 2

%
0
0.8
0.4

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận;
- Vẻ đẹp của một bài ca dao là tổng hòa của vẻ đẹp ngôn ngữ, vẻ đẹp văn
hóa và vẻ đẹp độc đáo của sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy khám phá vẻ đẹp của
một bài ca dao cần đặt trong tổng thể văn hóa dân gian và bản chất của thể
loại trữ tình.
- Nắm vững kiến thức, rèn luyện nhân cách cho học sinh là mục đích cao đẹp
và cuối cùng của mỗi giờ văn trong trường phổ thông nói chung. Băn khoăn
trăn trở để tìm ra những phương pháp tiếp cận, giảng dạy hiệu quả là mục tiêu
và trách nhiệm của mỗi giáo viên tâm huyết với nghề nhất là trong bối cảnh
hiện nay. Đối với thể loại ca dao mặc dù là thể loại khá quen thuộc nhưng để

cảm nhận được vẻ đẹp của bài ca dao không phải là việc dễ dàng. Chính vì
thế với đề tài này tôi hi vọng đây sẽ là một số kinh nghiệm bổ ích giúp các
đồng nghiệp có thêm tư liệu cho việc soạn giảng phần nội dung này.
Trong quá trình xây dựng dề tài, do hạn chế về năng lực, vốn sống, sự
hiểu biết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp
ý của các đồng nghiệp gần xa.
3.2. Kiến nghị
- Đối với nhà trường: thường xuyên tổ chức các hoạt động học tập, trao đổi
chuyên môn nhất là phương pháp đổi mới dạy học.
+ Cần đầu tư thêm tài liệu về môn văn để học sinh và giáo viên có thể tiếp
nhận các kiến thức mới một cách thường xuyên.
- Đối với tổ chuyên môn:
+ Thay đổi cách sinh hoạt chuyên môn không chỉ là dự giờ góp ý mà còn tổ
chức những chuyên đề học tập.
+ Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa vừa nhằm củng cố kiến
thức vừa tạo được sự hứng thú cho học sinh học tập.
- Đối với giáo viên:

13


+ Ngoài việc học tập để năng cao năng lực chuyên môn, mỗi giáo viên phải
nghiên cứu thêm một số kỹ năng mềm có thể phục vụ cho quá trình giảng dạy
làm sao đó để thu hút sự yêu thích của học sinh đối với bộ môn.

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa ngày 23 tháng 05 năm2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội sung của

người khác.

Trịnh Thị Thanh Vân

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Sách giáo viên Ngữ văn 10 cơ bản- NXB Giáo dục năm 2006, Đoàn Lê
Giang
2.Tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong ca dao Việt nam, NXB Giáo dục,
Nguyễn Thị Ngọc Điệp
3.Thi pháp văn học dân gian, NXB Giáo dục, Nguyễn Trường Phát.
4. Tục ngữ, ca dao Việt nam,
5. Heghen, mỹ học, NXB văn học, Phan Ngọc dịch
6. V.E. Guxev, Mỹ học folklor, Hoàng Ngọc Hiến dịch, NXB Đà Nẵng

15



×