Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số suy nghĩ về việc dạy học thơ chữ hán đường luật trong chương trình ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.38 KB, 15 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ VIỆC DẠY HỌC THƠ CHỮ HÁN
ĐƯỜNG LUẬT TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Hiện nay việc dạy thơ trong nhà trường THPT nói chung và dạy thơ chữ Hán
nói riêng gặp rất nhiều những khó khăn. Tìm hiểu thơ nói chung và thơ chữ Hán
nói riêng phải hiểu ngôn từ và hình tượng trong bài thơ. Trong thơ chữ Hán,
muốn hiểu ngôn từ đòi hỏi người đọc phải hiểu rõ từ ngữ, hình ảnh, điển cố, yếu
tố liên văn bản. Các em phải liên tưởng, tưởng tượng, bổ sung, cụ thể hoá các
chi tiết, phát hiện các mối liên hệ ngầm giữa các hình tượng và đồng thời còn
cảm nhận cái hay qua nghệ thuật văn bản. Mặt khác, thơ chữ Hán thường thể
hiện những tình cảm có tính tiêu biểu, tượng trưng hơn là cái cá thể cá biệt. Nhà
thơ thường không nói hết không nói trực tiếp ý mình mà để cho người đọc tự
suy nghĩ, cảm thụ. Ngôn ngữ thơ chữ Hán lại tinh luyện hàm súc mà lại có dư
ba, lời ít ý nhiều, ý tại ngôn ngoại hết sức sâu sắc mà ngay bản thân chúng ta đôi
khi còn khó hiểu. Từ thực trạng đó tôi xin trình bày một số suy nghĩ về việc dạy
học thơ chữ Hán Đường luật trong chương trình Ngữ văn THPT với mong
muốn tìm tòi khám phá ra một số hướng đi thích hợp cho việc giảng dạy các tác
phẩm thơ chữ Hán sao cho có hiệu quả.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Thơ chữ Hán Đường luật vốn ra đời trong môi trường văn hóa xã hội
phong kiến. Một xã hội tồn tại và duy trì được là bởi dựa vào những lề lối phép
tắc quy củ, đạo đức và nguyên tắc ứng xử của triết học Nho giáo vì vậy văn học
nghệ thuật cũng không thể tồn tại ngoài những quy tắc này. Sự ảnh hưởng của
những phép tắc quy củ ấy không chỉ ở mặt hình thức ( như những quy định về
luật thơ) mà còn ảnh hưởng đến cả mặt nội dung của thơ. Đó là tư duy nghệ
thuật, là tư tưởng thẩm mĩ hay những quan điểm thẩm mĩ và những nguyên tắc


ứng xử của thời đại họ. Tất cả đều được đóng khung trong những mô típ quen
thuộc, thậm chí có phần khuôn sáo. Chẳng hạn trong thơ chữ Hán Đường luật
thường có những đề tài quen thuộc như : Thơ vịnh cảnh, mượn cảnh để tả tình.
Người ta làm thơ để tỏ ý, tỏ chí, tỏ lòng. Chính vì vậy mà các bài thơ không chỉ
đóng khung về mặt hình thức mà còn cả về mặt nội dung nữa. Ngay trong những
quan điểm thẩm mĩ của các nhà thơ xưa cũng không nằm ngoài khuôn khổ.
Chẳng hạn khi nói đến các mùa thì dứt khoát sẽ là Xuân; Hạ; Thu; Đông. Khi
nói đến mùa Xuân thì không thể thiếu hoa Đào, hoa Mai. Khi nói đến mùa Hạ
thì phải là hoa Sen. Nói đến mùa Thu thì phải có hoa Cúc, hay lá vàng rơi…khi
nói đến con người thường thì thường có anh hùng, mĩ nhân, hay quân tử; tiểu
nhân…Tất cả đã được định dạng và đi vào nếp cảm nếp nghĩ của các nhà thơ,
thấm nhuần trong tư tưởng và cảm hứng sáng tác của họ. Vì vậy thơ thì nhiều
nhưng những bài thơ thật sự hay thì phải là của các bậc thiên tài trong thiên hạ.
Đối với thơ chữ Hán Đường luật trong chương trình Ngữ Văn THPT, các
tác phẩm được lựa chọn đều là những bài thơ hay nổi tiếng, nhưng cũng còn khá
nhiều vấn đề cần bàn về nội dung và hình thức thể hiện.
1
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Về phía giáo viên
Từ trước đến nay, khi giảng dạy các tác phẩm thơ chữ Hán Đường luật
nhiều giáo viên đều cho là khó và cũng không mấy hứng thú, bởi một lẽ :

- Giáo viên không giỏi chữ Hán và học sinh không được học Hán ngữ nên
trong quá trình tiếp cận văn bản gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc hiểu sâu
phần phiên âm của nguyên bản.
- Về phía giáo viên khi giảng dạy thường không bám vào nguyên tác bài thơ mà
bám vào phần dịch nghĩa để dạy cho học sinh dễ hiểu.
- Trong quá trình dạy quá chú trọng khâu phân tích phải theo kết cấu của thơ
Đường với Thất ngôn tứ tuyệt là: Khai – Thừa – Chuyển – Hợp, với Thất ngôn
bát cú là: Đề – Thực – Luận – Kết….
- Chủ yếu phân tích ý (vì là bản dịch) chứ không chú ý phân tích từ ngữ trong
câu.
- Bản thân giáo viên đôi khi cũng tự biến mình thành những người nói lại những
điều mà sách giáo khoa, sách giáo viên và tài liệu đã nói chứ chưa dám dũng
cảm từ bỏ một lối mòn để tìm những hướng khám phá cảm thụ mới.
2. Về phía học sinh
Một trong những hiện trạng chung là học sinh bây giờ ngại học môn Văn bởi
thường thì đây không phải là môn các em chọn thi đại học. Mặt khác xu hướng
của giới trẻ bây giờ có lối học thực dụng hơn chứ không có thời gian để dành
cho việc tìm hiểu hay ngâm ngợi một áng văn chương hay nữa. Chính vì vậy
việc dạy văn trong nhà trường gặp không ít khó khăn, nhất là đối với các bài thơ
chữ Hán lại là những bài thơ khó học. Trong thơ chữ Hán Đường luật có rất
nhiều các điển tích, điển cố khó hiểu khó nhớ, ngôn ngữ thơ lại hàm súc, ý tứ
sâu xa nên lứa tuổi của các em cũng chưa thể lĩnh ngộ được hết cái hay cái đẹp
của nó. Do vậy đại đa phần các em không có sự nhiệt hứng khi tiếp cận đối với
những bài thơ này. Đây là một thực trạng đáng buồn của bao thầy cô tâm huyết.
Tôi nghĩ rằng chính sự trì trệ trên lại khiến chúng ta càng quyết tâm đổi mới
mày mò để tìm lại tình yêu môn văn của các em. Hơn thế tôi cho rằng đây một
di sản văn hoá quý báu của dân tộc và nhân loại mà thế hệ chúng ta cần phải gìn
giữ, truyền tụng đến mai sau. Vì vậy tôi mạnh dạn xin đưa ra "Một số suy nghĩ
về việc dạy học thơ chữ Hán Đường luật trong chương trình Ngữ Văn THPT"
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

1. Cảm nhận vẻ đẹp của tác phẩm thông qua lớp ngôn từ.
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn bản văn học. Các chi tiết, các sự việc,
các hình tượng thơ … và các thành tố khác được tạo nên nhờ lớp ngôn từ.
Không có ngôn từ, ta không có căn cứ để tìm hiểu khám phá văn bản. Cái khó
của việc giảng dạy thơ chữ Hán Đường luật là chúng ta phải tìm hiểu khám phá
hai lớp ngôn từ khác nhau. Ngôn từ của nguyên bản và ngôn từ của bản dịch.
2
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

Phần đông, lâu nay giáo viên và học sinh khi đi tìm hiểu những văn bản thơ chữ
Hán Đường luật chủ yếu chỉ dựa vào lớp ngôn từ bản dịch, nên không thể tìm
hiểu hết cái hay cái đẹp của văn bản thơ. Nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta
không biết (hoặc biết rất hạn chế) chữ Hán. Học sinh không biết đã đành nhưng
có nhiều giáo viên chúng ta cũng rất mơ hồ đối với loại văn tự này khiến cho
việc tìm hiểu và khám phá các bài thơ chữ Hán Đường luật càng trở nên khó
khăn hơn rất nhiều. Tai hại hơn có thể dẫn đến việc hiểu sai nội dung ý nghĩa
của văn bản, hiểu không hết nghĩa của văn bản. Mặt khác trong quá trình tìm
hiểu khi căn cứ vào văn bản thơ thì có một số văn bản dịch chưa được sát nghĩa
do đó cũng dẫn đến sự hiểu sai về văn bản. Chúng tôi xin phép được đưa ra một
vài ví dụ cụ thể: Chẳng hạn trong bài Độc Tiểu Thanh ký của tác giả Nguyễn Du
có những chỗ mà cả phần dịch nghĩa và phần dịch thơ đều chưa chính xác:
VD: Ở câu đầu tiên tác giả viết:


西 西 西 西 西 西 西西
Sách giáo khoa dịch nghĩa là: Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi.
Với cách dịch này người dịch nghĩa đã bỏ đi mất từ 西? ( tẫn) có nghĩa là hết.
Như vậy đúng ra phải dịch là: Vườn hoa bên Tây Hồ nay đã chuyển hết thành
bãi hoang rồi.
Câu thơ phá đề đã gợi lên một nỗi niềm xót xa trước sự biến đổi của tạo
hóa gợi cho người đọc nhớ đến câu nói của người xưa: “ Sự đời thường vẫn có
chuyện bãi bể nương dâu”. Vẻ đẹp của Tây Hồ xưa kia ( nơi Tiểu Thanh đã từng
ở ) giờ đã thành bãi hoang, và những con người tài hoa một thời giờ cũng chỉ
còn là cát bụi.
Đến câu thứ hai trong nguyên tác là:

西 西 西 西 西 西 西西

Sách giáo khoa dịch là: Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.
Nếu dịch như vậy cả giáo viên và học sinh đều có thể hiểu chữ “ độc” ở đây với
chữ “độc” trong nhan đề là hoàn toàn giống nhau. Nhưng thực ra trong nguyên
tác thì không phải vậy. Hai từ “độc” này chỉ đồng âm nhưng khác nghĩa.

Từ “ độc” ở nhan đề là: 西 có nghĩa là “ đọc” còn từ “ độc” ở câu thứ hai là : 西
có nghĩa là : đơn độc( cô độc). Như vậy đáng lẽ ra câu thơ nên dịch là:
Một mình ta ( đơn độc) viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ
Và câu thơ này nên hiểu là lúc sinh thời Nguyễn Du là một người đơn độc
không có kẻ tri âm chính vì thế mà ông cảm thông sâu sắc với những người cùng
cảnh ngộ như nàng Tiểu Thanh khi phải sống cô đơn trên núi Cô Sơn cạnh vườn
hoa bên Tây Hồ (thuộc tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc). Mặt khác hiểu như vậy
thì mới thấy được sự xót xa trong niềm băn khoăn của tác giả khi viết hai câu
cuối:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.”

3
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

Niềm đau đáu mong mỏi muốn tìm được sự đồng cảm của người đời. Vì hiện
tại ông thấy mình đơn độc.
VD2: Trong bài Thu Hứng của nhà thơ Đỗ Phủ. Trong câu thứ sáu tác giả viết:

西西西西西西西
( Cô chu nhất hệ cố viên tâm)
Sách giáo khoa dịch là: Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi
vườn cũ. Dịch như vậy cũng đã đạt nhưng vẫn bỏ mất chữ “ nhất” mà theo
chúng tôi câu thơ này nên hiểu là:
Con thuyền cô lẻ vẫn một lòng nhớ thương nơi vườn cũ
Thực tế hình ảnh con thuyền ở đây là một hình ảnh thực gắn bó ( buộc) với cuộc
đời của nhà thơ đầy gian lao vất vả, lang thang phiêu bạt không có nhà cửa( phải
sống trên một con thuyền) nơi đất khách quê người. Cho nên con thuyền chính
là nhà của tác giả. Và con thuyền ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng cho một cuộc
đời đơn độc và trôi nổi của nhà thơ.
Ví dụ 3: Bài " Mộ " (Chiều tối) của Hồ Chí Minh. Trong câu thứ 2 tác giả viết

西西西西西西西

(Cô vân mạn mạn độ thiên không)

Sách giáo khoa dịch (dịch thơ): " Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không " dịch
chưa sát từ " cô vân " và " mạn mạn ": " cô " là cô đơn, lẻ loi nhưng bản dịch thơ
làm mất đi ý thơ ấy; từ " mạn mạn " là trôi lững lờ nhưng bản dịch thơ dịch "
trôi nhẹ " chưa thấy hết được trạng thái của đám mây. Câu thơ phần dịch thơ làm
mất đi ý thơ: thiên nhiên đã mang tâm trạng của con người; không thể hiện rõ
được bút pháp tả cảnh ngụ tình của nhà thơ. Câu 3 dịch thừa chữ " tối ".
Trên thực tế những tác phẩm thơ chữ Hán Đường luật được đưa vào
chương trình sách giáo khoa giảng dạy cho các em học sinh còn rất nhiều những
chỗ chưa có sự thống nhất giữa bản phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ. Bởi việc
tìm được tiếng nói chung giữa các văn bản này là một điều rất khó. Điều mà
chúng tôi quan tâm hơn cả là bản thân mỗi giáo viên chúng ta cần phải có một
sự tu dưỡng rèn luyện nhất định, cần trau dồi cho mình một vốn Hán ngữ nhất
định để tránh việc hiểu sai và dạy sai ý nghĩa của văn bản. Mặt khác hiểu được
chữ Hán cũng là cách chúng ta tiếp cận với văn bản của tác giả một cách gần gũi
nhất. Bởi thơ chữ Hán Đường luật thường cô đọng thâm thúy, ý nghĩa sâu sắc
và hàm xúc. Hiểu và cảm thụ được cái hay cái đẹp của nó không phải là vấn đề
đơn giản. Không những thế chúng ta còn phải hướng dẫn học sinh cảm thụ
những văn bản ấy. Vậy thì làm thế nào để hướng dẫn học sinh vượt qua đươc rào
cản về ngôn ngữ để giúp các em cảm thụ tốt được những văn bản này. Tôi xin
tham góp một vài cách làm như sau:
- Hướng dẫn các em đọc kỹ các phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và phần chú
giải. Trong quá trình cảm thụ cần chú ý thêm đến những thông tin bên ngoài tác
phẩm hoặc giáo viên nên dành một khoảng thời gian nhất định để tái tạo lại bối
cảnh và không gian xã hội để làm cơ sở cho việc tiếp cận văn bản.
-- Hướng dẫn học sinh so sánh giữa bản phiên âm và bản dịch thơ.
4
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn



Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

- Giáo viên có thể giải thích từng từ và chỉ cho học sinh thấy những điểm mà
bản dịch dịch chưa sát. Nếu cần giáo viên có thể viết một vài từ Hán ngữ lên
bảng.
( Thao tác này chủ yếu nhằm thu hút sự chú ý của các em học sinh) để chỉ cho
các em thấy sự khác biệt trong chữ viết và nghĩa của từ.
- Việc giảng giải các từ khó kết hợp với việc giảng giải về nghĩa từ hoặc câu thơ
sẽ giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ đặc biệt là sự sâu sắc thâm
thúy trong ngôn ngữ thơ chữ Hán Đường luật. Chú ý trong quá trình hướng dẫn
học sinh cảm thụ giáo viên cố gắng chọn những từ đắt, những từ có vai trò chức
năng như nhãn tự của thơ để giảng bình và từ đó khái quát lên được nội dung tư
tưởng của bài thơ.
Ví dụ: Khi dạy bài: " Độc Tiểu Thanh kí " của Nguyễn Du chúng ta có thể
thiết kế như sau:
Hoạt động của giáo viên-học Nội dung cần đạt
sinh
* Hoạt động 1: Hướng dẫn tìm I. Tiểu dẫn:
1.Tác giả Nguyễn Du
hiểu phần Tiểu dẫn
. Giới thiệu khái lược về Nguyễn Du và
(Học sinh đọc phần tiểu dẫn)
- Giáo viên giới thiệu sơ bộ về tác nàng Tiểu Thanh.
+ Nguyễn Du (1765 – 1820) là đại thi hào
giả.
của dân tộc Việt Nam, ngoài những tác
phẩm viết bằng chữ Nôm, Nguyễn Du có ba

tập thơ chữ Hán. “Độc Tiểu Thanh kí” là
một trong những bài thơ chữ Hán nổi tiếng
của ông Nguyễn Du rất quan tâm tới số
phận bất hạnh của những người phụ nữ có tài
hoa nhan sắc.
- Phần tiểu dẫn trong sách giáo
khoa đã cung cấp cho chúng ta
những thông tin gì về nàng Tiểu
Thanh ?

2. M ấy vấn đề xung quanh vi ệc tìm hi
ểu bài thơ.
a. Về nhân vật Tiểu Thanh
+ Tiểu Thanh người Quảng Lăng, tỉnh
Giang Tô, Trung Quốc, nàng rất thông
minh và nhiều tài nghệ. Năm mươi sáu tuổi
làm vợ lẽ một người ở Hàng Châu, tỉnh
Chiết Giang nàng họ Phùng và lấy chồng
tên là Phùng. Vợ cả ghen bắt ở riêng biệt
trên một ngọn núi thuộc địa phận Hàng
Châu. Ngọn núi ấy là Cô Sơn. Tiểu Thanh
buồn khổ làm nhiều thơ, từ. Nàng lâm bệnh
5

Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm


- Nguyễn Du sáng tác bài thơ này
khi nào?

* Hoạt động 2: Hướng dẫn tìm
hiểu phần Đọc - hiểu
- Em hiểu như thế nào về nhan đề
của bài thơ ?

? Em hiểu như thế nào về câu thơ:
“ Độc điếu song tiền nhất chỉ
thư”? So sánh với bản dịch trong
sách giáo khoa để chỉ ra những
chỗ dịch chưa sát?

Trường THPT Thạch Thành 3
mất lúc mười tám tuổi. Tập thơ, từ nàng để
lại bị người vợ cả đem đốt. Trước khi chết,
nàng lấy hai tờ giấy gói mấy vật trang sức
gửi tặng một cô gái. Đó là bản thảo thơ, thư
từ còn lại của nàng. Đây cũng là phần dư.
Bài thơ miêu tả số phận bất hạnh của
Tiểu Thanh một con người tài hoa và nhan
sắc. Đồng thời thể hiện suy nghĩ, thái độ
tình cảm của Nguyễn Du trước nỗi đau
nhân thế.
b. Nguyễn Du là bài thơ này khi nào.
- Theo như các tài liệu của các nhà nghiên
cứu văn học thì tác giả sáng tác bài thơ này
và đưa vào tập Thanh Hiên Thi tập. Như

vậy bài thơ được sáng tác trước khi
Nguyễn Du lên đường đi sứ sang Trung
Quốc.
II . ĐỌC HIỂU:
1. Đọc và biện giải những từ khó.
Bài thơ có tên là Độc Tiểu Thanh kí, có thể
có những cách lí giải như sau :
- Đọc tập kí ( ghi chép, chứ không phải thơ)
của nàng Tiểu Thanh.
- Đọc tập kí ( ghi chép) về nàng Tiểu Thanh
( Có thể là Tiểu Thanh truyện)
- Đọc tập thơ của Tiểu Thanh( phần dư)
Cả ba cách hiểu này đều có những căn cứ
riêng. Chúng ta nên hiểu là : Đọc tập kí ghi
chép về nàng Tiểu Thanh. Dù hiểu theo
cách nào thì điều quan trọng nhất là
Nguyễn Du đọc về cuộc đời, đọc những
dòng tâm tư của Tiểu Thanh, về số phận tài
hoa bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh cảm
thông với thân phận nàng tri âm cùng nàng
mà làm nên bài thơ. ( Đây là cảm hứng chủ
đạo của bài thơ)
- Độc : có nghĩa là một mình. Nghĩa cả câu
là : Một mình ta ( đơn độc) viếng nàng qua
một tập sách đọc trước cửa sổ
6

Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn



Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

- Bản dịch đã đánh mất đi hai chữ : Chữ
‘nhất’’ trong ‘nhất chỉ thư’’ và chữ ‘độc’’
trong ‘độc điếu’’. Thực ra nhất cũng là một
mà độc cũng là một, nhưng nếu nhất chỉ số
lượng thì độc là từ chỉ tâm trạng, tâm thế
của nhà thơ. Ở đây tác giả muốn nhấn mạnh
sự cô đơn cũng như nhấn mạnh cuộc gặp gỡ
tương xứng này. Một tâm trạng cô đơn gặp
một kiếp cô đơn bất hạnh.
- Độc điếu : Cũng có thể hiểu là một mình
ta viếng, một mình ta thương xót nàng và
? Ngoài ra các em còn những từ cũng là ta đang xót thương ta. Ta khóc cho
nào chưa rõ nghĩa thì đứng lên hỏi người mà cũng là khóc cho ta.
thầy sẽ giải đáp.
- Học sinh hỏi và giáo viên trả lời.
2. Cảm nhận vẻ đẹp của tác phẩm thông qua hình tượng nghệ thuật
Khi dạy học người giáo viên luôn có một suy nghĩ đó là: “ Làm cách nào
để có hiệu quả cao nhất? ". Việc sử dụng phương pháp như thế nào phải tùy
thuộc vào hoàn cảnh, nhu cầu, sở thích và năng lực của mỗi người. Do vậy
không phải bất cứ tác phẩm nào giáo viên cũng cứ nhất thiết là phải chia bố cục
rồi tiến hành đi phân tích theo bố cục ấy. Bản thân cách làm này có những mặt
hạn chế là bản thân mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất và trọn
vẹn. Việc phân chia bố cục cũng chỉ là giúp cho việc cảm thụ tác phẩm một cách
có lớp lang hơn và nó mang tính khoa học. Song không nhất thiết bài nào chúng

ta cũng tiến hành dạy như vậy sẽ khiến cho bài dạy trở nên nhàm chán. Mặt khác
tôi muốn đề cập đến một vấn đề trong những giờ dạy đổi mới theo hướng tích
cực là tính tự do sáng tạo trong những giờ dạy của giáo viên và học sinh. Trong
chương trình cũ phương pháp học gọi là những giờ Văn là những giờ Giảng văn.
Trong chương trình đổi mới người ta gọi là Đọc văn. Vậy nên hiểu thế nào là
Đọc hiểu văn bản.
Cái mới của giờ Đọc văn bây giờ chính là tạo ra một khoảng tự do nhất định
để phát huy tính sáng tạo của học sinh và giáo viên hơn là việc gò bó vào một
khuôn phép nhất định. Bởi đọc hiểu là đọc cảm thụ văn bản. Người đọc sẽ tiếp
nhận văn bản bằng tất cả kinh nghiệm, vốn sống vốn hiểu biết cùng với những
tâm tư tình cảm của mình để cùng rung động cùng đồng cảm với tác giả chứ
không phải đi theo con đường của tác giả hay con đường mà giáo viên đã chọn.
Đứng trên bình diện này chúng ta là những người “đồng sáng tạo với nhà văn”
Cho nên trong quá trình giảng dạy tôi đã tự mình mày mò nghiên cứu và muốn
tìm ra một hướng đi khác trong quá trình giảng dạy đó là trong quá trình dạy tôi
7
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

không cho học sinh chia bố cục mà định hướng cho học sinh cảm thụ thông qua
những hình tượng nghệ thuật trong văn bản.
“Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh thể hiện và tái
tạo hiện thực theo quy luật của nghệ thuật. Nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm là để
nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm của mình giúp con

người thể nghiệm ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ có ý nghĩa muôn
màu muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh. Nhưng khác với các nhà
khoa học, nghệ sĩ không diễn đạt trực tiếp ý nghĩ và tình cảm bằng khái niệm
trừu tượng, bằng định lí công thức mà bằng hình tượng, nghĩa là bằng cách làm
sống lại một cách cụ thể và gợi nhưng sự việc những hiện tượng làm ta đáng suy
nghĩ về tính cách số phận, về tình đời , tình người. ” ( Trần Đình Sử). Thông qua
các hình tượng nghệ thuật bao giờ nhà văn cũng gửi gắm những tâm tư tình cảm
và sự trải nghiệm của bản thân. Vấn đề quan trọng là trong quá trình giảng dạy
giáo viên cần phải biết lựa chọn các hình tượng nghệ thuật một cách chính xác
và định hướng cho các em cảm nhận một cách sâu sắc các hình tượng này rồi từ
đó khái quát lên nội dung tư tưởng của văn bản.
Theo tôi cấu trúc bài dạy theo cách làm mới sẽ ngắn gọn đơn giản hơn, nội
dung của bài không rườm rà, giúp giáo viên có thể chủ động được việc cân đối
thời gian và khắc sâu cho học sinh những vấn đề có bản và thiết thực nhất. Mặt
khác Thơ là thế giới nghệ thuật tinh vi đa chiều. Đặc biệt thơ chữ Hán Đường
luật là một thứ nghệ thuật tinh diệu do đó việc cảm nhận khám phá cái hay cái
đẹp của nó cũng cần có phương pháp tự do sáng tạo chứ không nên gò bó vào
một khuôn khổ nhất định nào. Cái hay cái độc đáo và kỳ diệu của Thơ chữ Hán
Đường luật là trong cái khuôn khổ chặt hẹp của niêm luật người nghệ sĩ tài hoa
vẫn tìm ra được cách thể hiện sự tài hoa phóng túng và những nét độc đáo riêng
biệt của thế giới tâm hồn.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài: " Xuất dương lưu biệt " của Phan Bội Châu chúng ta có
thể dạy theo : hình tượng chủ thể trữ tình - tác giả trong bài thơ. Qua đó tư
tưởng, hoài bão, tầm vóc của nhà thơ hiện lên rõ ràng.
Ví dụ 2: Khi dạy bài: " Mộ " của Hồ Chí Minh ta cũng có thể tìm hiểu theo hai
nhóm hình tượng:
+ Bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt lao động của con người.
+ Hình tượng chủ thể trữ tình của tác giả.
Có thể lần lượt tiến hành các bước như sau:
- Sau khi tìm hiểu xong lớp ngôn từ, giáo viên cho học sinh tìm hiểu xem

bài thơ này xây dựng những hình tượng nào tiêu biểu.
- Học sinh xác định xong, giáo viên lần lượt triển khai, phân tích tìm hiểu
từng hình tượng
- Rút ra vẻ đẹp của các hình tượng
- Khái quát ý nghĩa của bài thơ.
Khi dạy bài: " Độc Tiểu Thanh kí " của Nguyễn Du chúng ta có thể thiết
kế tiếp tục như sau:
Hoạt động của giáo viên - học
Nội dung cần đạt
8
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

sinh
* Hoạt động 2: Hướng dẫn tìm I. Tiểu dẫn:
II . ĐỌC HIỂU:
hiểu phần Đọc - hiểu
1. Đọc và biện giải những từ khó.
- Em hãy đọc bài thơ và cho biết 2. Đọc và cảm thụ về hình tượng trong
trong bài này tác giả đã tập trung văn bản
Trong bài thơ tác giả đã tập trung thể hiện
thể hiện hình tượng nào?
hai hình tượng nghệ thuật là Tiểu Thanh và
chủ thể trữ tình tác giả.

-? Tiểu Thanh là một người như a. Hình tượng Tiểu Thanh
- Tiểu Thanh là một người có nhan sắc, tài
thế nào?
năng và đạo đức nhưng lại có một số phận
? Em hãy tìm những minh chứng thật éo le tài hoa bạc mệnh.
để phân tích và chứng minh Tiểu - Thể hiện qua hai câu :
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Thanh là một con người tài hoa
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
bạc mệnh?
Chi phấn : Đồ trang sức của nữ giới chỉ
phụ nữ nói chung. Nó còn biểu tượng cho
sắc đẹp của nàng Tiểu Thanh.
Văn chương : Thể hiện tài năng của Tiểu
Thanh
=> Ca ngợi con người có nhan sắc và tài
năng toàn vẹn. Vậy mà son phấn ấy lại bị
vùi chôn, Văn chương thì bị đốt
=> Chôn đốt là những động từ cụ thể hóa sự
ghét, vùi dập phũ phàng của người vợ cả
với nàng Tiểu Thanh => cũng là thái độ của
xã hội phong kiến không chấp nhận những
con người tài sắc.
b. Hình tượng chủ thể trữ tình – tác giả.
- Chủ thể trữ tình của bài thơ xuất HS có thể trả lời khác nhau, nhưng giáo
viên cần định hướng cho HS là chủ thể trữ
hiện khi nào?
- Tác giả xuất hiện trong tâm thế tình tác giả đã xuất hiện ngay từ đầu bài
thơ :
như thế nào?

- Mở đầu bài thơ chúng ta đã bắt gặp một
tiếng thở dài đầy ảo não bi thương của tác
giả :
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
9
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3
( Vườn hoa bên Tây Hồ đã chuyển hết thành
bãi hoang rồi)

Câu thơ mở đầu gợi lên một sự đổi thay của
thiên nhiên nhưng cũng là sự đổi thay của
kiếp người, đời người. Sự đời bãi bể vẫn có
thể biến thành nương dâu như vậy. Và
những con người tài hoa nay cũng chỉ còn
là cát bụi mà thôi. Trong cái ngậm ngùi ấy
tác giả lại càng cảm thấy buồn hơn khi :
Một mình ta viếng nàng qua một tập sách
đọc trước cửa sổ.
Qua giọng thơ ta cảm thấy được cái tâm
trạng của một con người cô đơn trong cái
mênh mang mờ mịt của xã hội. Có một cái
gì như u uất bế tắc và không biết ngỏ cùng
ai nên đành tìm về với quá khứ để chia sẻ

- Hai câu thơ tác giả nói về mối
với người thiên cổ.
hận. Em hãy cho biết đó là mối
Hai câu thực đã dựng lại cuộc đời éo le đầy
hận của ai? Hận vì lẽ gì? Và tại
thương tâm của nàng Tiểu Thanh. Nhưng
sao lại không thể hỏi trời được?
đến hai câu luận thì đó không còn là nỗi đau
của nàng Tiểu Thanh nữa :
‘’Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư’’.
Nếu đọc câu thứ năm người đọc chỉ nhận
được một thông tin : Những mối hận từ xưa
đến nay khó có thể mà hỏi trời. Không biết
ai hận và hận về lẽ gì. Câu thơ không có
chủ ngữ. Nhưng có lẽ câu sáu đã cắt nghĩa
đầy đủ cho câu trước : Người ta hận vì ‘mắc
nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã’’. Những
người có nhan sắc, có tài hoa, có nhân cách
xưa nay vẫn hằng hay bị vùi dập. Đó chẳng
phải là một điều oan ức sao ? Cũng như
trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã viết ‘‘Có
tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai
một vần’’. Điều chua xót là nỗi oan ấy
không thể hỏi ai, ngay cả trời là đấng tối
cao cũng không sao hỏi được. Tác giả
10
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn



Sáng kiến kinh nghiệm

- Em cảm nhận được gì từ hai câu
thơ cuối?

- Qua bài thơ em có nhận xét gì về
con người Nguyễn Du?

- Nếu được trả lời Nguyễn Du em
sẽ nói với nhà thơ điều gì? (Học
sinh tự trả lời)

Trường THPT Thạch Thành 3
không nói là ai oán hận mà chỉ nhận mình ở
trong đó, hẳn có một dụng ý : Chỉ bao hàm
tất cả những đấng tài hoa, những người
phong nhã như Thúy Kiều, như Đạm Tiên,
như Tiểu Thanh và cả ông nữa. Câu thơ
phác họa một bi kịch của thời đại của
những đấng tài hoa. Có lẽ đây là niềm đồng
cảm sâu sắc nhất của nhà thơ không chỉ đối
với Tiểu Thanh mà đối với tất cả những
đấng tài hoa. Cũng có thể gọi đây là một bài
điếu văn chăng. Một bài văn khóc. Không
chỉ khóc cho Tiểu Thanh mà còn khóc cả
cho chính mình và khóc cho những đấng tài
hoa trong cuộc đời đen bạc.
Học sinh có thể trả lời nhiều cách và giáo

viên định hướng : Hai câu thơ đó có hai
cách hiểu :
Cách hiểu thứ nhất :
" Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như "
Cách hiểu thứ hai :
" Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
- Thiên hạ ai người cùng Tố Như khóc
những đấng tài hoa ( trong đó có cả Tố
Như)’’
Chúng ta nên hiểu theo cách hiểu thứ hai
này.
- Nguyễn Du là một tài năng hiếm có trong
làng văn chương Việt Nam. Ông là người
am hiểu sâu sắc hiện thực cuộc sống và
nhạy cảm với những nỗi đau khổ của con
người. Đặc biệt là những người phụ nữ
nhan sắc tài hoa mà bạc mệnh. Ông mang
một trái tim nhân hậu nhưng cũng có một
cuộc đời bi kịch. " Đau đời có cứu được đời
đâu "
- Hai câu thơ cuối thể hiện một nỗi niềm
trăn trở lớn của nhà thơ. Xuân Diệu cho đó
11

Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn



Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3
là “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya”.
Nhưng đến bây giờ chúng ta có thể khẳng
định :
“Ba trăm năm tính chưa đầy nửa
Thiên hạ ngày nay hiểu Tố Như”
Năm 1965, Việt Nam long trọng kỉ niệm hai
trăm năm ngày sinh của Nguyễn Du. Cũng
những ngày này, Hội đồng hoà bình thế giới
đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn
hoá thế giới.

3. Cảm nhận vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm.
Thơ chữ Hán Đường luật là một thứ nghệ thuật tinh diệu, đặc biệt là luật
thơ có cấu trúc hoàn thiện. Nó là sự hài hòa giữa bằng trắc, âm dương, đối xứng
và phi đối xứng. Nó lại nhất quán từ đề tài , mở đề tới kết luận. Nó là sự kết hợp
giữa thực từ và hư từ, giữa lời nói và không phải lời nói. Thơ chữ Hán Đường
luật thường lựa chọn những chi tiết đặc sắc điển hình đến độ tinh xảo giàu sức
gợi, giàu sức khái quát, mọi ý tứ thăng trầm , sâu sắc. Trong thơ chữ Hán Đường
luật thường dồn nén những ẩn dụ tượng trưng, những ẩn dụ tượng trưng này có
sức bùng nổ thông tin lớn. Cái ưu thế của nghệ thuật tinh tế xảo diệu được tạo ra
bởi “ ngôn hữu hạn, ý vô cùng” và sự tổ chức hình ảnh mang tính ẩn dụ cao.
Do vậy nếu cứ hướng dẫn các em tìm hiểu thật kỹ về nghệ thuật của thơ
chữ Hán Đường luật thì quả là một việc làm thật gian nan mà với trình độ non
nớt của các em chưa chắc đã hiểu được. Do đó khi giảng dạy những bài thơ chữ
Hán Đường luật chúng tôi chủ trương chỉ cần chọn một vài chi tiết nghệ thuật
điển hình đặc sắc để hướng dẫn các em cảm nhận.
Chẳng hạn khi dạy bài: Thu hứng của nhà thơ Đỗ Phủ tôi dẫn dắt học sinh

tìm hiểu một ý nhỏ về nghệ thuật như sau:
GV: Thơ Đường thường được cấu tứ dựa trên các mối quan hệ về sự vật hiện
tượng hay cảnh vật. Vậy trong bài thơ Thu hứng khung cảnh được xây dựng trên
những mối quan hệ nào?
- Yêu cầu học sinh nêu được những ý sau: Khung cảnh bài thơ được xây dựng
trên mối quan hệ: cảnh xa – cảnh gần; quan hệ giữa cảnh và tình; giữa không
gian và thời gian, giữa màu sắc và âm thanh.
GV: Qua việc tìm hiểu các mối quan hệ trên em có nhận xét gì về kết cấu của bài
thơ?
- Kết cấu của bài thơ chặt chẽ có sự nhất quán giữa nhan đề và nội dung bố cục.
Cả bài thơ xoay quanh một trục đó là Thu hứng tức là cảm xúc mùa thu, là thu
cảnh - thu tâm trong mối quan hệ gắn bó thống nhất, giữa mùa thu và cảm xúc.
Ngoài ra giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu thêm về các thủ
pháp nghệ thuật sử dụng ở trong bài.
12
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

Khi dạy bài: Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du, đến phần 3: Những nét đặc
sắc về nghệ thuật của bài thơ tôi có thể dẫn dắt và hỏi:
GV: Bài thơ được sáng tác theo thể thơ nào?
- Bài thơ được sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú.
GV: Một trong những đặc điểm của thể thơ này khác với các thể thơ mới khác
đó là gì?

- Một thể thơ có niêm luật hết sức gò bó nhưng có tính hàm súc cao.
GV: Vậy em hãy lí giải, chứng minh đặc sắc nghệ thuật này trong bài thơ?
- Một thể thơ có niêm luật hết sức gò bó vậy mà chỉ có 56 chữ thôi mà đã thâu
tóm được cả cuộc đời của Tiểu Thanh và gói trọn những tâm tình của nhà thơ
Nguyễn Du. Không những thế nhà thơ còn khái quát nên một quy luật nghiệt
ngã của cuộc đời về số phận của những con người tài hoa. Bài thơ là một lời ai
điếu người xưa mà cũng là một tiếng khóc cho cuộc đời đầy bi ai của chính bản
thân mình.
IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Với cách làm như trên chúng tôi đã vận dụng vào trong quá trình giảng
dạy và nhận thấy có được những chuyển biến tích cực trong việc tiếp nhận của
học sinh. Các em tiếp thu bài một cách hào hứng hơn, có những phát biểu và
cảm thụ văn bản sâu hơn. và điều đặc biệt đã để lại trong các em những ấn tượng
sâu sắc hơn về những giờ học văn. Đó là điều mà chúng tôi cho rằng việc cần
làm của giáo viên - Đi tìm lại tình yêu môn Ngữ văn của các em học sinh. Cũng
qua những giờ dạy bản thân tôi cũng rút ra được một số những kinh nghiệm quý
báu cho bản thân đó là:
- Bản thân cần phải luôn luôn có một sự tu dưỡng rèn luyện nhất định trong quá
trình giảng dạy. Đặc biệt đối với thơ chữ Hán cố gắng phải hiểu đến tận cùng
các lớp nghĩa của nguyên bản. Có như thế chúng ta mới thực sự tự tin đứng
trước học sinh để giảng giải cho các em cái hay cái đẹp của ngôn từ.
- Phải đặt bài thơ trong hoàn cảnh sáng tác để thấy rõ giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm, thấy được ý tứ sâu xa từ ngôn ngữ của tác phẩm.
- Giảng thơ chữ Hán Đường luật không nên quá câu nệ lệ thuộc vào kết cấu của
bài thơ, tuỳ theo từng tác phẩm có thể có cách dạy riêng, không nhất thiết đi
theo bố cục ( Đề – thực – luận – kết ) với Bát cú đường luật, hay( Khai – thừa –
chuyển – hợp) với thất ngôn tứ tuyệt đường luật…. Giáo viên phải thực sự nhìn
thấy nội dung cảm xúc trong bài để đưa ra cách dạy tối thiểu. Có thể giảng cách
ngang, có thể bổ dọc, có thể vừa cắt ngang vừa bổ dọc… theo chúng tôi nếu
giảng theo mạch cảm xúc như đã trình bày ở trên,bài giảng sẽ nhẹ nhàng hơn

nhiều.
- Không phân tích ý thơ tràn lan, mà chúng ta nên có dành một khoảng thời gian
nhất định để bình về những từ “nhãn tự” hay những câu thơ tâm đắc để làm nổi
bật rõ “ cái thần” trong bài. Hình ảnh, thể loại được dùng, vần nhịp, phép đối,
13
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

niêm, luật…. Có thể giúp cho học sinh thấy rõ hơn tính hoàn chỉnh của thơ
Đường luật.
Và điều cuối cùng mà tôi muốn nói là cách đánh giá học sinh. Chúng ta
cũng nên thay đổi cách đánh giá học sinh qua một giờ dạy tôi thường đánh giá
và phân loại học sinh theo những mức độ như sau:
- Mức độ nhận biết: Yêu cầu học sinh nắm được những kiến thức cơ bản. Nhận
diện, và cảm thụ được những nội dung chính của văn bản và thể loại văn bản.
- Mức độ thông hiểu: Hiểu và cảm thụ được một cách căn bản những cái hay
cái đẹp của văn bản.
- Mức độ vận dụng: Hiểu và cảm thụ văn bản một cách sâu sắc, khả năng tác
động sâu sắc của văn bản đến đời sống tâm tư tình cảm của học sinh có khả năng
giáo dục và tự giáo dục ý thức nhân phẩm của các em, có thể vận dụng vào việc
đánh giá, bình luận và viết các bài văn nghị luận.
Kết quả thu được như sau:
Năm


Tổng
số

Mức độ
vận dụng

Mức độ thông Mức độ nhận biết
hiểu

2014-2015

125

Chưa vận
dụng

13

10.4%

36

28,8%

76

60.8%

2015-2016


124

Đã vận
dụng

34

27,4%

42

33,9%

48

38.7%

C. KẾT LUẬN:

Để có được một giờ dạy Văn thành công quả là một điều khó. Dù đã có
nhiều năm đứng trên bục giảng nhưng bản thân tôi nhận thấy không phải giờ dạy
nào chúng ta cũng thành công. Muốn có được một giờ dạy thành công thì đòi hỏi
phải có sự kết hợp giữa nhiều yếu tố. Yếu tố người thầy, yếu tố học trò, sách vở
và các trang thiết bị phục vụ cho giờ học cũng hết sức quan trọng. Để đề tài này
có ý nghĩa thiết thực trong việc vận dụng vào thực tiễn tôi xin đề xuất mấy điểm
mấu chốt sau đây:
Đối với giáo viên: Cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách kỹ
lưỡng ở nhà. Từ lâu trong các bài dạy của giáo viên bao giờ cũng dành một mục
cuối cùng để để củng cố lại bài học và dặn dò học sinh về nhà chuẩn bị bài cũ.
Đó là quy định trong giáo án, nhưng thực tế thì việc làm này nhiều khi cũng chỉ

được thực hiện cho có lệ, chứ chưa phát huy được hiệu quả cao lắm. Bởi muốn
phát huy được hiệu quả thì ngay việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà cũng
phải được giáo viên tính toán và chuẩn bị một cách kỹ lưỡng để có thể có những
sự chuẩn bị tương thích với giáo án của giáo viên. Giáo viên cần đưa ra những
yêu cầu cụ thể hơn. Chẳng hạn như cần yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng trước
cả phần phiên âm, phần dịch nghĩa, phần dịch thơ trong các bài thơ sẽ học. Bên
cạnh đó việc các em trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa thông qua phần
14
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Thạch Thành 3

soạn bài của mình cũng còn mang tính chiếu lệ. Do tập tính của các em thường
ngại vận động suy nghĩ mà phần nhiều là các em sử dụng tài liệu để chép vào
chứ chưa thực sự chuẩn bị bài một cách nghiêm túc theo đúng nghĩa của nó. Vì
vậy trong quá trình yêu cầu các em chuẩn bị bài ở nhà giáo viên nên dựa vào hệ
thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa và đưa ra một số câu hỏi
gợi ý để định hướng cho các em chuẩn bị.
Đối với học sinh: Cần nghiêm túc thực hiện những yêu cầu của giáo viên
trên tinh thần tự nguyện và có hứng thú đối với những yêu cầu mà giáo viên đưa
ra.
Đối với các nhà quản lý giáo dục: Cần xem xét thêm về tính khoa học của
sách giáo khoa và nội dung chương trình học của các em học sinh để có sự điều
chỉnh cho kịp thời và phù hợp.


XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

KT. Hiệu trưởng
PHT

Thanh Hóa, ngày 16 tháng 5 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPY.
(Tác giả ký và ghi rõ họ tên)

Đỗ Duy Thành

Lê Đăng Chung.

15
Người thực hiện:Lê Đăng Chung.

Tổ Ngữ Văn



×