MỤC LỤC
------------------
Trang
1. MỞ ĐẦU
2
- Lí do chọn đề tài
2
- Mục đích nghiên cứu
2
- Đối tượng nghiên cứu
2
- Phương pháp nghiên cứu
2
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy học bằng BĐTD
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng phương pháp
dạy học bằng BĐTD
2. 3. Vận dụng phương pháp giúp dạy học bằng BĐTD
3
3
2.4. Hiệu quả của việc vận dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD
9
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
2
10
1
N ÂNG CAO CHẤT LƯỢNG M ÔN NGỮ VĂN BẰNG PHƯƠNG PHÁP
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC
-----------------------1. MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
Dạy học nói chung, dạy Ngữ văn nói riêng, điều quan trong nhất là làm
thức dậy được tình yêu, niềm say mê đối với môn học. Hiện nay, tri thức trong
các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở lên quá tải với cả giáo viên và
học sinh, điều này đã tạo ra hàng loạt những áp lực và nghịch lý: Thời gian có
hạn mà kiến thức thì vô cùng; môn học thì quá tải mà sức học của học sinh có
hạn. Trong giờ giảng Ngữ văn, vấn đề không chỉ là ngôn ngữ, lời bình của
người thầy mà còn đòi hỏi phương pháp dạy học của người thầy. Phương pháp
dạy học là một trong những yêu cầu quan trọng đối với sự thành công trong
giờ giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh. BĐTD ( Bản đồ tư duy) là
một trong những phương pháp dạy học tương đối hiệu quả. Phương pháp dạy
học bằng BĐTD không chỉ giải quyết được vấn đề quá tải đối với kiến thức,
đơn giản hóa kiến thức của môn học mà nó còn giúp học sinh có khả năng nhớ
kiến thức lâu hơn, tránh sự nhàm chán đối với môn học, đặc biệt là bộ môn
Ngữ văn.
- Mục đích nghiên cứu
Góp phần nâng cao kĩ năng rèn luyện sử dụng bản đồ tư duy cho học
sinh
- Đối tượng
Giáo viên và học sinh trong giảng dạy và học tập môn Ngữ văn
- Phương pháp nghiên cứu
Thông qua kinh nghiệm giảng dạy môn Ngữ văn cấp THPT trong nhiều
năm và kinh nghiệm nghiên cứu giảng dạy thực hiện đổi mới CT-SGK vừa
qua.
Phương pháp tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài.
Phương pháp điều tra thực tiễn.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy học bằng BĐTD
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học
có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con
người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan
điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc
nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn
học khác trong các nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích
cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học
2
tốt môn Ngữ văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí
thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh
động của cuộc sống. Thế hệ học sinh ngày nay rất ít em có thiện chí, hứng thú
trong việc học môn Ngữ văn, chưa nắm được vai trò quan trọng của môn
Ngữ văn đối với đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Vì thế
đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức vừa hiệu quả vừa tạo được hứng thú
cho học sinh đối với môn Ngữ văn là rất cần thiết.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng giúp học sinh yếu kém viết mở
bài trong bài văn nghị luận
Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy
mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn.
Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời
than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và nay
đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài
làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có
những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác
giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất
nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ thể là:
- Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến
công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ
với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo
viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia
đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn
phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú
trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ
huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà
học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái
niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại.
- Kỹ năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng
nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết
chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có
những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa ... Đây là một tình trạng đã trở nên
phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
Từ nhận thức ấy, trong quá trình gi ảng dạy , tôi đã cố gắng tìm hiểu làm
thế nào để khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em
phương pháp học văn hiệu quả nhất. Nếu giải quyết được vấn đề này thì các
em sẽ vững vàng chủ động hơn khi bước vào những kì thi quan trọng.
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số bản đồ tư duy
giúp học sinh chuyển tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ
não một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả,
3
mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm
vi sâu rộng.
2.3. Vận dụng phương pháp giúp học sinh yếu kém viết mở bài trong bài
văn nghị luận
2.3.1. BĐTD tận dụng được các nguyên tắc của trí nhớ siêu đẳng
- Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về kiến thức
cần nhớ. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của trí nhớ siêu
đẳng. Đối với não bộ, BĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh màu
sắc phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm chán.
- Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng
một cách rất rõ ràng. Đặc biệt là khả năng khái quát và hệ thống hóa kiến thức.
- Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sơ BĐTD
cho phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử
dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng
rất nhiều màu sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng
sáng tạo đầy phong phú của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy
màu sắc sặc sỡ thông thường, BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý
luận, liên kết chặt chẽ về những gì được học.
- BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc: BĐTD thật sự giúp bạn
tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải khi học. Đây chính là công
cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não. Nếu vận dụng đúng cách,
nó sẽ hoàn toàn giải phóng những năng lực tiềm ẩn trong bạn, đưa bạn lên một
đẳng cấp mới, đẳng cấp của một tài năng thực thụ hay thậm chí của một thiên
tài.
2.3.2. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học
- Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức
của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho
các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD.
Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng.
- Ví dụ 1: Với văn bản: “Thầy bói xem voi” (Môn Ngữ văn lớp 6), sau phần
đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD
gồm 5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc
vào nội dung, kiến thức của bài học.
Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ
thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:
+ Bố cục của văn bản: Học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính
(Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi,
hậu quả.)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính
gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra
4
sao, ...) từ đó rút ra nhận xé về kết quả của cách xem voi phiếm diện để khái
quát thành bài học về cách nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng…
Sơ đồ minh hoạ
Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6
- Ví dụ 2: Khi học bài “So sánh” (Môn Ngữ văn lớp 6), đầu tiết học, giáo viên
có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, sau đó dẫn dắt vào bài học.
Giáo viên ghi nhan đề bài học lên bảng, khái quát lại các phương diện kiến
thức cần tìm về các phép tu từ đã học ở tiết học trước.
- Ở tiết học So sánh này ta cũng tìm hiểu kiến thức qua các phương diện: Khái
niệm, cấu tạo, tác dụng và các kiểu so sánh.
- Từ việc khái quát kiến thức cơ bản về So sánh, Giáo viên lần lượt hoàn thiện
BĐTD trên bảng thông qua ngữ liệu mẫu SGK. Việc hoàn thiện BĐTD phải
có sự phối hợp giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên đưa ra các tình huống
bằng hệ thống câu hỏi phát hiện, gợi mở, khái quát… Học sinh tham gia tích
cực vào các hoạt động dạy học do giáo viên tổ chức: cá nhân, nhóm, thảo
luận…
- Cùng với giáo viên, học sinh cũng lần lượt hoàn thành BĐTD vào vở ghi. Để
kiến thức bài học được chi tiết, dễ hiểu, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
tiếp tục trẻ nhỏ thêm các nhánh trên BĐTD.
Sơ đồ minh hoạ
5
Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6
- Có thể dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến
thức sau mỗi chương, phần…: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý
để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học
bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời
rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức
khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng.
- Ví dụ 1: Ở lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng
tổng hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có
về từ loại đã học ở lớp dưới. Đặc trưng của tiết học này là ôn tập, khái quát lại
kiến thức đã học vì vậy BĐTD sẽ giúp các em có cái nhìn tổng quát hơn về từ
ngữ tiếng Việt. Việc sử dụng BĐTD trong tiết tổng kết văn học nói chung,
trong phân môn tiếng Việt nói riêng không chỉ có tác dụng khái quát hóa kiến
thức mà còn giúp củng cố kỹ năng nhận biết và kỹ năng thực hành. Tổng kết
ngữ pháp ở lớp 9 được coi là giờ thực hành. Vì vậy giáo viên cần linh hoạt
trong việc tổ chức các hình thức học tập. Với kiểu bài này, giáo viên nên tạo ra
các nhóm học tập thực hiện việc vẽ BĐTD, sau đó đại diện các nhóm trình bày
bài làm của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung thêm cho bài
làm. Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức.
Sơ đồ minh hoạ
6
Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9
- Ví dụ 2: BĐTD khi tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ
thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho học
sinh bằng BĐTD. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm:
a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác...
b. Tác phẩm:
+ Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và
chữ Nôm gồm cả thơ và truyện)
+ Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo
viên gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc
mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam; tại sao Truyện Kiều được viết
bằng những câu thơ lục bát mà vẫn được coi là một tác phầm truyện…
+ Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều (Gặp gỡ và đính ước; gia
biến và lưu lạc. đoàn tụ)
+ Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (gái trị hiện thực, giá trị nhân đạo);
giá trị nghệ thuật của truyện.
Sơ đồ minh hoạ
7
Đây là những hình ảnh được vẽ bằng phần mềm Mindmap mà tôi tham
khảo từ đồng nghiệp trên thư viện violet. Việc sử dụng phần mềm Mindmap
không dễ, tuy nhiên chúng ta có thể đơn giản hóa phương pháp trên qua sơ đồ
hình nan quạt, xương cá, mô hình…Việc sơ đồ hóa kiến thức trong tiết dạy
Ngữ văn chắc chắn sẽ gúp học sinh nhớ kiến thức lâu hơn, hệ thống hơn. Đối
với phân môn Tập làm văn BĐTD hay sơ đồ có thể coi là một dàn ý sơ lược
của một đề bài cụ thể.
2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển
tư duy lôgic.
- Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu
trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa…
hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng
cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
2.3.3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy
học môn Ngữ văn
- BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp
học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm
chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết
bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức
với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau.
Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết
cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của
8
mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương
pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
- BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực:
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu,
nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn
ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích
cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo
của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự
do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng,
cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách
trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các
em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
2.4. Hiệu quả của việc vận dụng phương pháp giúp học sinh yếu kém viết
mở bài trong bài văn nghị luận
BĐTD rất hữu hiệu cho người học khi lập kế hoạch, dự án, có thói quen
tính toán tỉ mỉ trước khi bắt tay vào công việc. Nó cho người học một cái nhìn
tổng thể, cách đánh giá khách quan. Nếu một người nào đó đang một dự án
kinh doanh thì đừng quên sử dụng BĐTD khi làm việc.
Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những
ý tưởng, sử dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành công. Khi ta bắt đầu
cho một dự án kinh doanh khởi nghiệp, ta phải lo quá nhiều việc một lúc. Có
khi nào ta nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông suốt và biết sắp
xếp công việc theo một trật tự ngay từ đầu.
Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp
học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển
khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội
dung của phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích
cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang
lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh
và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp
học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết
kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ
giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên
kết chặt chẽ của tri thức.
Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy
học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi
thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích
cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử
9
dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức
chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học
sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn
học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài
học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc
ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng
Việt.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Kết luận
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi đã vận dụng có kết quả
trong một phạm vi hẹp. Có thể những điều này không là những điều mới mẻ
với các đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm nhưng với tôi đó là tất cả sự tâm
đắc sau những năm công tác giảng dạy .Và những điều tôi thực hiện trên đây
cũng chỉ là một việc nhỏ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ
Văn. Rất mong được sự đóng góp chân thành của các đồng nghiệp
- Kiến nghị
Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ văn trong từng học
kỳ, từng năm để giáo viên có cơ hội được học tập, trao đổi kinh nghiệm, bàn
luận tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả, góp phần tích cực vào việc nâng
cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn.
Có kế hoạch tham mưu với cấp trên về chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo
viên có chất lượng cao, phương pháp dạy học tốt.
Có kế hoạch bổ sung đồ dùng thiết bị dạy học, đặc biệt là đầu tư công nghệ
thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
HIỆU TRƯỞNG
Thanh hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình. Bài viết không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Doãn Thị Bích Phượng
10
11