Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 12 viết đoạn văn nghị luận xã hội trong đề thi THPT quốc gia tại trường THPT nguyễn quán nho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.67 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

NỘI DUNG

TRANG

1. Mở đầu

1

1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm



3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến

5

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

7

2.3.1. Giải pháp 1: Củng cố kiến thức về đoạn văn và phương pháp 7
dựng đoạn văn nghị luận cho học sinh
2.3.2. Giải pháp 2: Củng cố kiến thức về cách làm bài văn NLXH

8

2.3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn NLXH với 9
các đề độc lập, riêng biệt.
2.3.4. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn NLXH 11
tích hợp với ngữ liệu phần đọc - hiểu trong đề thi THPTQG
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, 14
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị

17

3.1. Kết luận

17


3.2. Kiến nghị

17

Tài liệu tham khảo

19


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Làm văn là một phân mơn có vị trí rất quan trọng trong đánh giá kết quả
học tập môn Ngữ văn của học sinh. Đây là một hoạt động sáng tạo. Thông qua
các bài làm văn học sinh thể hiện nhận thức, tình cảm của mình đối với vấn đề
văn học và cuộc sống. Nó cũng phản ánh năng lực tư duy, trình độ ngơn ngữ và
một phần tính cách của học sinh.
Làm văn cũng là kĩ năng được kiểm tra, đánh giá nhiều nhất trong các bài
thi Ngữ văn nói chung và bài thi Ngữ văn của kì thi Trung học phổ thơng quốc
gia (THPTQG) nói riêng. Trong cấu trúc đề thi THPTQG phần làm văn có thang
điểm là 7/10 điểm.
Có rất nhiều kiểu bài làm văn được dạy trong chương trình Ngữ văn
THPT. Tuy nhiên kiểu bài làm văn trong đề thi THPTQG là kiểu bài nghị luận.
Kiểu bài này xuất hiện ở cả 2 dạng thức: nghị luận xã hội (NLXH) và nghị luận
văn học.
NLXH là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan
đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Mục đích cuối cùng
của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ
giữa người với người trong xã hội. Nó góp phần tăng cường sự tương tác của
học sinh với xã hội, với những điều đang xảy ra xung quanh mình, giúp các em

hình thành kĩ năng cũng như tư duy phản biện xã hội, làm cho bộ môn Ngữ văn
trở nên hứng thú hơn, gần với đời sống và mang tính ứng dụng nhiều hơn. Vì thế
NLXH đã trở thành một yêu cầu không thể thiếu trong các bài thi môn Ngữ văn
THPTQG.
Phần NLXH trong đề thi THPTQG của các năm trước đây thường yêu cầu
học sinh viết một bài văn ngắn (khoảng 600 chữ) với thang điểm là 3/10. Nhưng
cùng với xu hướng đổi mới của kì thi năm nay, bài thi môn Ngữ văn từ 180 phút
sẽ rút xuống chỉ cịn 120 phút, theo đó phần NLXH sẽ chuyển từ yêu cầu viết
bài văn (khoảng 600 chữ) sang viết đoạn văn (khoảng 200 chữ). Điều này đã
được thể hiện trong đề thi minh họa và đề thi thử nghiệm mà bộ Giáo dục và
Đào tạo (GD và ĐT) đã cơng bố. Sự thay đổi đó đã làm cho học sinh lớp 12 cảm
thấy lúng túng. Bởi vì lâu nay các em đã quen viết thành một bài văn. Bây giờ
các em chỉ viết có một đoạn, nghĩa là chuyển từ viết dài thành viết ngắn, các em
phải viết làm sao để không vượt quá dung lượng mà vẫn phải đủ ý và đúng
“chất” NLXH.
Hơn nữa, trước đây câu NLXH thường yêu cầu học sinh bàn về một vấn
đề riêng, độc lập và gần như không liên quan gì đến phần đọc - hiểu trước đó.
Cịn trong đề minh họa và đề thi thử nghiệm mà bộ GD và ĐT cơng bố, câu
NLXH có xu hướng tích hợp với phần đọc - hiểu. Câu NLXH thường yêu cầu
học sinh trình bày suy nghĩ của mình về một vấn đề xã hội nào đó có liên quan
đến ngữ liệu của phần đọc - hiểu. Viết về một vấn đề xã hội có liên quan đến
ngữ liệu phần đọc - hiểu nghĩa là học sinh phải trình bày được ý kiến riêng, lập
luận riêng của mình, khác với ngữ liệu đã cho thậm chí là phản biện lại ý kiến
đưa ra trong ngữ liệu. Đây thực sự là một thử thách đối với học sinh lớp 12. Đó
2


cũng là một vấn đề cần quan tâm của các giáo viên dạy 12 và ôn thi THPTQG
môn Ngữ văn.
Thực tế giảng dạy ở trường THPT Nguyễn Quán Nho, qua bài làm của

học sinh tôi nhận thấy phần lớn học sinh 12 khơng biết cách viết đoạn văn
NLXH mà có yêu cầu tích hợp với nội dung ngữ liệu ở phần đọc - hiểu. Về mặt
hình thức, nhiều em khơng viết đúng thể thức một đoạn văn. Về mặt nội dung,
các em thường có xu hướng viết dựa, viết theo hoặc “đồ họa” lại ý của ngữ liệu
đã cho, cá biệt có em cịn chép lại ngun văn cả phần ngữ liệu. Rất ít bài viết
của học sinh có những suy nghĩ độc lập, không phụ thuộc vào ngữ liệu trong đề
bài.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi ln trăn trở làm sao để học sinh lớp 12
năm nay sẽ tự tin và đạt được điểm số cao ở câu NLXH nói riêng, ở bài thi mơn
Ngữ văn của kì thi THPTQG nói chung. Vì vậy tơi đã thực hiện đề tài “Kinh
nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 12 viết đoạn văn NLXH trong đề thi THPTQG
tại trường THPT Nguyễn Qn Nho”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của tơi khi thực hiện đề tài nhằm góp phần củng cố kĩ năng viết
đoạn văn NLXH , nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 12, nâng
cao kết quả thi THPTQG cho học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Quán Nho.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các giải pháp để rèn luyện và nâng cao kĩ
năng viết đoạn văn NLXH trong đề thi THPTQG thông qua các đề thi mô
phỏng, đề thi khảo sát, các bài tập thực hành cho sinh lớp 12.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết:
+ Nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến đoạn văn, cách lập luận,
trình bày nội dung đoạn văn.
+ Nghiên cứu các đề thi có câu làm văn NLXH tích hợp với ngữ liệu phần
đọc - hiểu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thơng tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm.


3


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Lý thuyết về đoạn văn, đoạn văn nghị luận và phương pháp dựng
đoạn văn nghị luận
Khái niệm đoạn văn
Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập một, trình bày khái niệm đoạn văn như
sau:
Đoạn văn là một phần của văn bản. Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề
và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc được
lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối
tượng biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ
hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn
có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn.
Như vậy, một đoạn văn hoàn chỉnh phải thỏa mãn các tiêu chí sau:
- Về nội dung:
+ Đoạn văn phải có sự liên kết chủ đề.
+ Các câu trong đoạn phải được sắp xếp theo trình tự hợp lí, logic.
- Về hình thức: Các câu trong đoạn văn phải được liên kết với nhau bằng
một số biện pháp chính như: phép lặp, phép thế, phép nối, phép đồng nghĩa, trái
nghĩa và liên tưởng.
Đoạn văn nghị luận
Đoạn văn nghị luận là một phần của văn bản nghị luận viết ra nhằm xác
lập cho người đọc (người nghe) một quan điểm, một tư tưởng. Đoạn văn nghị
luận bao gồm luận điểm và các luận cứ.
Phương pháp dựng đoạn văn nghị luận
Có nhiều cách để trình bày một đoạn văn nhưng trong đó phổ biến nhất là
các cách sau đây: diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp.

- Đoạn diễn dịch: Diễn dịch là phương pháp trình bày ý từ luận điểm suy
ra các luận cứ (từ ý tổng quát suy ra ý cụ thể).
- Đoạn quy nạp: Quy nạp là phương pháp trình bày ý từ các luận cứ rút ra
những nhận định tổng quát, rút ra luận điểm (từ các ý cụ thể rút ra nhận định
chung).
- Đoạn tổng - phân - hợp: Đoạn tổng - phân - hợp là đoạn nghị luận có
cách triển khai ý từ luận điểm suy ra các luận cứ, rồi từ các luận cứ khẳng định
lại luận điểm. Qua mỗi bước vấn đề được nâng cao hơn.
Ngồi ra, cịn có các cách trình bày khác như: móc xích, song hành...
2.1.2. Các thao tác lập luận
- Giải thích
Giải thích là vận dụng tri thức để hiểu vấn đề nghị luận một cách rõ ràng
và giúp người khác hiểu đúng ý của mình. Hay nói cách khác người viết phải trả
lời câu hỏi có mơ hình: “A” là gì? Là như thế nào?
- Chứng minh
Chứng minh là đưa ra những cứ liệu - dẫn chứng xác đáng để làm sáng
tỏ một lí lẽ, một ý kiến để thuyết phục người đọc, người nghe tin tưởng vào vấn
đề.
4


- Bình luận:
“Bình luận là nhằm đề xuất và thuyết phục người đọc (người nghe) tán
đồng với nhận xét, đánh giá, bàn luận của mình về một hiện tượng (vấn đề)
trong đời sống hoặc trong văn học.” (Sgk Ngữ văn 11, tập hai, trang 73)
- Bác bỏ:
“Bác bỏ là dùng lí lẽ và chứng cứ để gạt bỏ những quan điểm, ý kiến sai
lệch hoặc thiếu chính xác,... từ đó, nêu ý kiến đúng của mình để thuyết phục
người nghe (người đọc). (Sgk Ngữ văn 11, tập hai, trang 26)
- Phân tích:

Phân tích là “chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố để đi sâu xem xét
một cách kĩ càng nội dung và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của
chúng”. (Sgk Ngữ văn 11, tập một, trang 25)
- So sánh:
So sánh là đặt “đối tượng nghiên cứu trong tương quan với đối tượng
khác” góp phần làm cho bài văn nghị luận sáng rõ, sinh động và có sức thuyết
phục. (Sgk Ngữ văn 11, tập 1, trang 80)
2.1.3. Các dạng nghị luận xã hội
- Dạng nghị luận về một tư tưởng, đaọ lý:
+ Khái niệm:
Nghị luận về một tư tưởng đạo lý là quá trình kết hợp những thao tác lập
luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng, đạo lí trong cuộc đời.
Tư tưởng đạo lí trong cuộc đời bao gồm:
Lí tưởng (lẽ sống).
Cách sống.
Hoạt động sống.
Mối quan hệ giữa con người với con người.
+ Yêu cầu làm bài văn về về tư tưởng đạo lí:
Hiểu được vấn đề cần nghị luận. Để hiểu vấn đề nghị luận thì người viết
phải phân tích đề, lí giải, cắt nghĩa...
Từ vấn đề nghị luận xác định, người viết tiếp tục phân tích, chứng minh
những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí bàn bạc, so sánh bác bỏ nghĩa là áp
dụng nhiều thao tác lập luận.
Phải biết rút ra ý nghĩa vấn đề.
Yêu cầu vô cùng quan trọng là người thực hiện nghị luận phải sống có lí
tưởng và đạo lí.
- Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống
+ Khái niệm
Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn về một hiện tượng xảy ra
trong đời sống có tác động tới xã hội.

+ Yêu cầu:
Bài nghị luận cần nêu rõ hiện tượng, phân tích các mặt đúng sai, lợi, hại,
chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ ý kiến của người viết.
Ngoài việc vận dụng các thao tác lập luận phân tích so sánh, bác bỏ, bình
luận... người viết cần diễn đạt giản dị, ngắn gọn, sáng sủa nhất là phần biểu cảm.
5


Tất cả những kiến thức lí thuyết trên là cơ sở để tôi thực hiện sáng kiến
kinh nghiệm này. Bên cạnh đó tơi cũng khảo sát thực trạng kĩ năng viết đoạn
văn NLXH của học sinh lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Quán Nho để có giải
pháp thực hiện hợp lí, hiệu quả.
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Khi bộ GD và ĐT công bố đề thi minh họa vào đầu tháng 10 năm 2016,
tôi và một số đồng nghiệp đã sử dụng đề thi này tổ chức cho học sinh một số lớp
12 làm bài thi thử. Sau đó tơi tiếp tục cho học sinh các lớp 12 mình trực tiếp
giảng dạy viết đoạn văn NLXH tích hợp với ngữ liệu phần đọc - hiểu tương tự
như đề thi minh họa của bộ GD. Tôi chỉ sử dụng thang điểm 5 cho các bài tập
mình ra để tương thích với cấu trúc đề thi của bộ GD.
Một số đề tôi dùng để khảo sát như sau:
Đề 1
I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
“Khi việc kiếm sống khơng cịn là vấn đề, hãy dùng phần tiền cịn lại để
theo đuổi mơ ước của mình. Hãy tung cánh và dám nghĩ dám làm. Hãy sống
một cuộc đời thật khác biệt!
Triết lý nổi tiếng từ đại học Harvard: số phận một người được định đoạt
qua những gì mà người đó làm trong thời gian rảnh rỗi từ 8 - 10h tối. Hãy dành
thời gian đó để học hỏi, suy nghĩ, và tham gia các bài giảng hay thảo luận có ý
nghĩa. Nếu bạn kiên trì trong vài năm, thành công sẽ đến gõ cửa với bạn.

Bất kể bạn kiếm được bao nhiêu, cứ nhớ phân chia thu nhập của bạn thành năm
phần. Chăm sóc cơ thể để nó luôn khỏe mạnh. Đầu tư vào các quan hệ để bạn
sẽ liên tục gặp những người mới để học hỏi những tri thức mới. Mở rộng mạng
lưới quan hệ cũng sẽ có tác động quan trọng lên mức thu nhập mà bạn sẽ kiếm
được sau này. Đi du lịch hàng năm và mở rộng chân trời của mình. Nắm bắt
những thay đổi mới nhất trong lĩnh vực của mình. Nếu bạn siêng năng theo đuổi
kế hoạch này,bạn sẽ sớm thấy mình thặng dư nhiều tiền trong tài khoản.
Cái gì đã qua thì cho qua. Đừng day dứt với những sai lầm cũ. Chẳng ích
lợi gì khi khóc nhè vì bình sữa bị đổ ngã. Ai cũng mắc phải sai lầm. Quan trọng
là bạn học được từ những sai lầm và tự hứa với chính mình khơng lặp lại. Nếu
bạn bỏ lỡ những cơ hội nào đó, đừng day dứt, vì sẽ ln có những cơ hội mới
chờ đợi.”
(Nguồn: fb - MaiTrọngNghĩa)

1. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
2. Nêu những thao tác lập luận được sử dụng trong đoạn trích.
3. Anh/Chị có đồng tình với ý kiến “số phận một người được định đoạt
qua những gì mà người đó làm trong thời gian rảnh rỗi từ 8 - 10h tối” khơng?
Vì sao?
4. Anh/Chị rút ra được những bài học gì từ đoạn trích trên?
II. LÀM VĂN (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý
kiến “Ai cũng mắc phải sai lầm. Quan trọng là bạn học được từ những sai lầm
và tự hứa với chính mình khơng lặp lại”.
6


Đề 2
I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Nhiều người cho rằng có tiền là có tất cả. Tiền bạc quả thật có sức mạnh
lớn lao. Nhưng tiền bạc không phải là vạn năng.
Nó có thể mua được chiếu giường, nhưng khơng mua được giấc ngủ.
Nó có thể mua được châu ngọc, nhưng khơng mua được sắc đẹp
Nó có thể mua được giấy bút, nhưng khơng mua được ý thơ
Nó có thể mua được nhà cửa, nhưng khơng mua được gia đình
Nó có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được sự ngon miệng
Nó có thể mua được trị chơi, nhưng khơng mua được niềm vui
Nó có thể mua được xu nịnh, nhưng khơng mua được lịng trung thành
Nó có thể mua được cánh hữu, nhưng khơng mua được tình bạn
Nó có thể mua được sự phục tùng, nhưng không mua được lịng kính
trọng
Nó có thể mua được quyền thế, nhưng khơng mua được trí tuệ
Nó có thể mua được thể xác, nhưng khơng mua được tình u
Nó có thể mua được vũ khí, nhưng khơng mua được hịa bình.
(Theo Thác-cơ-rê, dẫn theo Ngữ văn 11 Nâng cao, tập hai, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2016, tr. 17)
Câu 1 Đoạn trích trên sử dụng thao tác lập luận nào?
Câu 2 Tác giả sử dụng thao tác lập luận đó nhằm mục đích gì?
Câu 3 Hãy nêu cách hiểu của anh/ chị về một lí lẽ được nêu trong đoạn
trích trên.
Câu 4 Anh/ Chị có đồng tình với quan điểm "tiền bạc khơng phải là vạn
năng" khơng? Vì sao?
II. LÀM VĂN ( (2,0 điểm)
Từ nội dung của đoạn trích ở phần Đọc - hiểu, anh/chị hãy viết 01 đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Nếu khơng có
tiền...
KẾT QUẢ KHẢO SÁT CỤ THỂ ĐỐI VỚI CÂU LÀM VĂN NLXH
TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Ở MỘT SỐ LỚP 12 TRƯỜNG THPT
NGUYỄN QUÁN NHO NĂM HỌC 2016-2017

KẾT QUẢ
Khối
lớp

Tổng số
học sinh

Điểm 1,5 - 2,0

Điểm 1,0 - 1,25

Điểm 0 - 0,75

TS

%

TS

%

TS

%

12C1

45

3


6,7%

20

44,4%

22

48,9%

12C5

34

0

0%

13

38,2%

21

61,8%
7


Kết quả trên cho thấy số học sinh khơng có kĩ năng viết đoạn NLXH cịn

nhiều, số học sinh có kĩ năng viết đoạn NLXH thành thạo cịn ít. Trên bài làm
của hầu hết các em còn mắc nhiều lỗi. Về hình thức, các em viết thành nhiều
đoạn, thậm chí có em viết giống như một bài văn. Các câu khơng có sự liên kết
chặt chẽ, lập luận khơng mạch lạc, logic, diễn đạt lủng củng. Về mặt nội dung,
bài làm của nhiều em không đi vào bàn bạc vấn đề nêu ra trong đề mà viết dựa,
viết theo đoạn ngữ liệu, các ý sắp xếp lộn xộn, không theo một trình tự, một bố
cục nào. Ngay cả ở đề số 2 ở trên học sinh cần phải có tư duy phản biện thì đa số
các em vẫn viết trùng lặp với các ý ở đoạn ngữ liệu. Nhiều em viết văn theo lối
“thục mạng”, nghĩ gì viết nấy, khơng đầu tư suy nghĩ. Cho nên bài viết thì dài
mà các em vẫn viết không trúng. Một số học sinh thể hiện nhận thức hời hợt,
ngơ nghê.
Có thể nói kĩ năng làm văn, đặc biệt là kĩ năng viết đoạn NLXH của học
sinh còn nhiều hạn chế đặc biệt là kiểu đoạn văn trình bày suy nghĩ về một vấn
đề đặt ra trong ngữ liệu đọc - hiểu. Do vậy để khắc phục hạn chế của học sinh,
nâng cao chất lượng dạy và học địi hỏi giáo viên phải có những giải pháp hợp
lí.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Củng cố kiến thức về đoạn văn và phương pháp dựng
đoạn văn nghị luận cho học sinh
2.3.1.1. Khái niệm đoạn văn và đoạn văn nghị luận
Khái niệm đoạn văn
- Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi
đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương
đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
- Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các
từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại
từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu đạt. Câu chủ đề mang nội
dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu
hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng
tỏ chủ đề của đoạn.

Đoạn văn nghị luận
Đoạn văn nghị luận là một phần của văn bản nghị luận viết ra nhằm xác
lập cho người đọc (người nghe) một quan điểm, một tư tưởng. Đoạn văn nghị
luận bao gồm luận điểm và các luận cứ.
2.3.1.2. Các phương pháp dựng đoạn văn nghị luận thường gặp
Có nhiều cách dựng đoạn văn nghị luận nhưng để thuận lợi cho các em
khi viết đoạn văn NLXH tôi chỉ yêu cầu học sinh nắm vững các cách sau:
- Diễn dịch: là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đề
mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai những nội
dung chi tiết cụ thể ý tưởng của chủ đề đó. Các câu triển khai được thực hiện
bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm những
nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.
- Qui nạp: là cách trình bày ý ngược lại với diễn dịch - đi từ các ý chi tiết,
cụ thể đến ý khái quát. Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày
8


bằng thao tác chứng minh, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá
chung.
- Cách tổng - phân - hợp: là sự phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở
đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết
đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai
triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận,
nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng
hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Đây là những kiến thức cơ bản học sinh đã học từ THCS và cả ở chương
trình ngữ văn lớp 10, lớp 11. Tơi đã củng cố ngay cho học sinh sau khi bộ GD và
ĐT công bố đề thi minh họa qua các buổi học phụ đạo buổi chiều.
2.3.2. Giải pháp 2: Củng cố kiến thức về cách làm bài văn NLXH
2.3.2.1. Dạng nghị luận về một tư tưởng, đaọ lý:

Đề tài:
- Về nhận thức (lí tưởng, mục đích sống…)
- Về tâm hồn, tính cách ( lịng u nước, lịng nhân ái, tính khiêm tốn…)
- Về quan hệ gia đình (tình mẫu tử, tình anh em…)
- Về quan hệ xã hội (tình đồng bào, tình thầy trị, tình bạn…)
Cấu trúc triển khai tổng qt:
- Giới thiệu tư tưởng, đạo lý cần nghị luận.
- Giải thích tư tưởng, đạo lý cần bàn luận (từ ngữ, khái niệm, nghĩa đen,
nghĩa bóng...).
- Bàn luận về tư tưởng đạo lý.
+ Phân tích những mặt đúng, sai.
+ Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận.
(dẫn chứng từ đời sống và văn học).
- Rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lý.
2.3.2.2. Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống
Đề tài:
- Môi trường (hiện tượng trái đất nóng lên, thiên tai, ơ nhiễm…)
- Ứng xử văn hóa (lời cám ơn, lời xin lỗi, cách nói năng nơi công cộng…)
- Hiện tượng tiêu cực (nghiện thuốc lá, bạo lực gia đình, học sinh đánh
nhau trong trường học...)
- Hiện tượng tích cực (hiến máu nhân đạo, chương trình mùa hè xanh, xây
nhà tình nghĩa, người tốt việc tốt…)
Cấu trúc triển khai tổng quát:
- Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Nêu rõ hiện tượng.
- Bàn luận về hiện tượng.
+ Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
+ Phân tích mặt đúng, sai, lợi, hại
(Dùng dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh)
- Bày tỏ thái độ, ý kiến của bản thân về hiện tượng trên.

Từ cách làm bài cụ thể của hai dạng nghị luận xã hội trên tôi rút ra cách
làm tổng quát cho các đề nghị luận xã hội như sau:
9


* Giới thiệu vấn đề nghị luận
* Nêu và giải thích vấn đề nghị luận
* Bàn bạc (đúng/sai, phải/trái, ý nghĩa, tác dụng...)
* Xem xét, mở rộng, lật đi lật lại vấn đề
* Bài học rút ra
2.3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn NLXH với các
đề độc lập, riêng biệt
Mục đích của tơi khi thực hiện giải pháp này là để rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn NLXH cho học sinh thật thành thạo trước khi các em bước vào viết
đoạn văn có tích hợp với nội dung của ngữ liệu cho trước.
Để viết đoạn văn NLXH thành công tôi yêu cầu học sinh tuân thủ cách
làm một bài văn nghị luận xã hội với năm ý tổng quát như đã nêu ở giải pháp 2.
Tuy nhiên, trước đây mỗi bước sẽ tương ứng với một đoạn văn thì bây giờ học
sinh phải thực hiện nó chỉ trong một đoạn văn khoảng 200 chữ (tương đương với
2/3 trang giấy thi, khoảng 10 - 16 câu văn bình thường). Để thuận lợi cho học
sinh tơi đưa ra cho các em cấu trúc tổng quát của đoạn như sau:
Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận (khoảng 2 câu, một câu dẫn và một
câu nêu vấn đề)
Thân đoạn:
- Giải thích vấn đề nghị luận (khoảng 1- 3 câu)
- Bàn bạc (khoảng 4 - 5 câu)
- Xem xét, mở rộng, lật đi lật lại vấn đề (1- 3 câu)
- Bài học rút ra (1- 2 câu)
Kết đoạn (1 câu)
Tơi xem đây là “mơ hình chuẩn” của một đoạn văn NLXH. Với mơ hình

này tơi khuyến khích học sinh viết đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc tổng phân - hợp.
Để viết đúng với cấu trúc trên tôi đã cho học sinh thực hiện các bước:
Bước 1: Xác định vấn đề nghị luận.
Bước 2: Tìm ý dựa vào cấu trúc đã nêu trên.
Bước 3: Viết các ý thành các câu theo dung lượng đã đề ra.
Bước 4: Học sinh dựng thành đoạn văn hoàn chỉnh.
Bước 5: Học sinh tự xem lại bài viết của mình, tự so sánh với cấu trúc, tự
chấm điểm.
Bước 6: Giáo viên cho học sinh một đoạn văn tham khảo.
Chẳng hạn, tôi cho học sinh làm đề sau:
Anh/Chị hãy viết một đoạn văn NLXH khoảng (200 chữ) trình bày suy
nghĩ của mình về ý kiến: “Trong cuộc sống đôi khi chúng ta rất cần sự giúp đỡ
của người khác”.
Tôi đã tổ chức cho học sinh làm các bước trên như sau:
Bước 1: Xác định vấn đề nghị luận
Học sinh sẽ dễ dàng xác định được vấn đề nghị luận ở đây là: đôi khi
chúng ta cũng cần sự giúp đỡ của người khác.
Bước 2: Tìm ý
- Giới thiệu vấn đề nghị luận:
10


- Giải thích: Sự giúp đỡ của người khác là gì?
- Bàn bạc: Tại sao “trong cuộc sống đơi khi chúng ta rất cần sự giúp đỡ
của người khác”? Vì:
+ Cuộc sống có nhiều vấn đề nảy sinh khó lường, nhiều khi ta khơng thể
tự mình giải quyết được.
+ Sự giúp đỡ lẫn nhau sẽ tạo ra sự tương tác của mọi người trong xã hội,
trong cộng đồng.
+ Con người tìm được sự đồng cảm sẻ chia, tìm được niềm vui, ý nghĩa

của cuộc sống.
- Mở rộng vấn đề: không nên ỷ lại, dựa dẫm vào người khác
- Bài học: phải tự lập, chỉ nhận sự giúp đỡ của người khác khi thật cần
thiết và cũng phải biết giúp đỡ người khác.
Bước 3: Viết các ý thành các câu
Từ các ý đã tìm được tơi u cầu học sinh viết thành các câu. Chẳng hạn
như ở phần bàn bạc học sinh có thể viết thành các câu như thế này: Thực tế cuộc
sống luôn đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, bất ngờ, có khi vượt khỏi khả năng giải
quyết của bản thân. Vì vậy chúng ta cần người khác giúp đỡ. Nhờ có sự giúp đỡ
của người khác ta sẽ có thêm sức mạnh, niềm tin, nghị lực để vượt qua “giông
bão” của cuộc đời. Hơn nữa, sự giúp đỡ lẫn nhau giữa mọi người sẽ tạo lập các
mối quan hệ tốt đẹp, tăng cường sự tương tác giữa người với người trong xã
hội, trong cộng đồng. Từ đó, con người sẽ tìm được sự đồng cảm, sẻ chia, tìm
được niềm vui, ý nghĩa của cuộc sống.
Bước 4: Học sinh dựng thành đoạn văn hoàn chỉnh
Bước 5: Học sinh tự xem lại bài viết của mình, tự so sánh với cấu trúc
trên, tự chấm điểm
Khi học sinh dựng thành đoạn văn hồn chỉnh xong, tơi cho các em đọc
lại bài viết của mình, so sánh với cấu trúc tơi đưa ra, các em tự nhận xét bài viết,
tự đánh giá, tự cho điểm. Tiếp theo, tôi sẽ xem lại bài viết của một số em với lực
học khác nhau (từ khá giỏi đến yếu kém), phân tích để chỉ ra cho cả lớp thấy chỗ
đạt và chưa đạt của các bài làm đó.
Bước 6: Giáo viên cho học sinh một đoạn văn tham khảo
Sau khi hoàn thành tất cả các bước trên, tôi sẽ cung cấp cho học sinh một
đoạn văn hoàn chỉnh để các em tham khảo. Đoạn văn đó như sau:
“Có mặt trên cõi đời này tức là chúng ta đã tham gia vào dòng chảy cuộc
sống. Dịng chảy ấy đơi khi quăng quật chúng ta vào những chỗ nước chảy
mạnh, xiết khiến chúng ta có nguy cơ bị chìm nghỉm và lúc đó ta phải cần đến
sự giúp đỡ của người khác. Sự giúp đỡ chính là sự hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh
thần mà người khác dành cho chúng ta. Thực tế cuộc sống luôn đặt ra nhiều

vấn đề phức tạp, bất ngờ, có khi vượt khỏi khả năng giải quyết của bản thân. Vì
vậy,“đơi khi” chúng ta cần người khác giúp đỡ. Nhờ có sự giúp đỡ của người
khác ta sẽ có thêm sức mạnh, niềm tin, nghị lực để vượt qua “giông bão” của
cuộc đời. Hơn nữa, sự giúp đỡ lẫn nhau giữa mọi người sẽ tạo ra mối quan hệ
tốt đẹp, tăng cường sự tương tác giữa với người trong xã hội, trong cộng đồng.
Từ đó, con người sẽ tìm được sự đồng cảm, sẻ chia, tìm được niềm vui, ý nghĩa
của cuộc sống. Tuy nhiên, khơng phải vì thế mà chúng ta sống dựa dẫm, ỷ lại
11


vào người khác. Ngược lại mỗi người phải luôn luôn đề cao sự tự lập, chỉ nhận
sự giúp đỡ của người khác khi thật cần thiết. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải
sẵn sàng giúp đỡ người khác một cách chân thành, vơ tư, khơng vụ lợi. Có như
vậy xã hội mới trở nên tốt đẹp hơn,“đáng sống” hơn.
Từ đoạn văn trên học sinh sẽ dễ dàng nhận ra cấu trúc của nó với các ý
như sau:
Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận: câu 1, 2.
Thân đoạn:
- Giải thích: câu 3.
- Bàn luận: câu 4, 5, 6, 7, 8.
- Mở rộng vấn đề: câu 9.
- Bài hoc rút ra: câu 10, 11.
Kết đoạn: câu 12.
Trong các bước trên thì bước 1, bước 2, bước 4 là bắt buộc để viết được
một đoạn văn NLXH hoàn chỉnh cả nội dung lẫn hình thức, đáp ứng yêu cầu của
đề. Tuy nhiên không phải học sinh nào cũng thực hiện đầy đủ các bước trên khi
làm bài. Điều này giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở để tạo thành thói quen
cho học sinh. Đặc biệt để hình thành kĩ năng cho học sinh một cách thành thạo
cần tăng cường rèn luyện qua việc thực hành viết đoạn văn NLXH cho các em
một cách có hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.

2.3.4. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn NLXH tích hợp
với ngữ liệu phần đọc - hiểu trong đề thi THPTQG
Tôi cung cấp cho học sinh một số đề thi có phần đọc - hiểu và câu làm
văn NLXH tương tự như đề thi minh họa và thử nghiệm mà bộ GD đã công bố.
Tôi yêu cầu các em trả lời câu hỏi phần đọc - hiểu. Sau khi trả lời câu hỏi đọc hiểu học sinh sẽ viết đoạn văn nghị luận bàn về một vấn đề xã hội nêu trong
đoạn ngữ liệu.
Đây là một trong những đề tôi đã giao cho học sinh:
I. ĐỌC - HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Không thể phủ nhận, xu thế hội nhập và tồn cầu hóa khiến tiếng Việt có
nhiều cơ hội tiếp thu được nhiều yếu tố mới và tiến bộ làm cho tiếng Việt trở nên
giàu có. Nhưng mặt khác tiếng Việt cũng phải đối đầu trước nguy cơ hịa tan
theo xu hướng áp đảo của chính sách “thế giới phẳng” về ngơn ngữ và văn hóa
do một số nước lớn chủ xướng. Trong suốt những năm vừa qua, dù được đề cập
dưới nhiều khía cạnh nội dung phong phú nhưng mục tiêu thống nhất là “giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt” vẫn luôn là một chủ đề liên tục được bàn thảo,
khi ồn ào lúc lại lắng xuống, nhưng chưa bao giờ giảm sức “nóng”.
Tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ của đại đa số người Việt Nam, là công cụ
giao tiếp quan trọng bậc nhất trong một cộng đồng dân cư rộng lớn. Tiếng Việt
có lịch sử hình thành và phát triển rất đáng tự hào, trong đó đáng kể nhất là
khả năng tiếp nhận vốn từ vựng từ bên ngoài, tự điều chỉnh chúng một cách chủ
động, biến thành cái riêng, cái đặc biệt của người Việt, thực sự đã, đang và sẽ
mãi là tài sản quốc gia quý giá. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải kế thừa những
12


giá trị ngôn ngữ truyền thống và hội nhập như thế nào để đừng đánh mất bản
sắc của tiếng mẹ đẻ./.
(Khánh Linh, Tầm quan trọng của ngôn ngữ mẹ đẻ trong quá trình phát
triển, dangcongsan.vn, ngày 22/02/2016)


1. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
2. Nêu nội dung của đoạn trích?
3. Anh/Chị hiểu nghĩa của từ “bản sắc” trong cụm từ “bản sắc của tiếng
mẹ đẻ” là gì?
4. Anh/Chị hãy lấy một ví dụ chứng minh Tiếng Việt có “ khả năng tiếp
nhận vốn từ vựng từ bên ngoài, tự điều chỉnh chúng một cách chủ động, biến
thành cái riêng, cái đặc biệt của người Việt”.
II. LÀM VĂN
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/
chị về câu hỏi sau: Tại sao“giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” vẫn luôn là
một chủ đề liên tục được bàn thảo, khi ồn ào lúc lại lắng xuống, nhưng chưa
bao giờ giảm sức “nóng”?
Để học sinh viết đúng yêu cầu của đề, không sao chép, không đồ họa,
không viết theo phần đọc - hiểu tôi đã hướng dẫn học sinh:
Thứ nhất, học sinh sẽ tìm hiểu xem với vấn đề nghị luận đó, phần ngữ
liệu đã thể hiện quan điểm như thế nào? Em đồng tình với quan điểm đó hay
khơng? Vì sao?
Ví dụ: Với đề bài trên, học sinh sẽ xác định vấn đề nghị luận là: Lí do vì
sao phải “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.
Vấn đề này đoạn ngữ liệu đã thể hiện quan điểm là phải bảo vệ sự trong
sáng của Tiếng Việt. Đa số học sinh đồng tình với quan điểm này. Mỗi em đều
đưa ra được những lí do của mình.
Thứ hai, học sinh phải tìm các ý mà đoạn ngữ liệu đã trình bày về vấn đề
đó. Từ đây học sinh xem xét xem các ý đó đúng hay sai, đã bàn được khía cạnh
nào, cịn khía cạnh nào chưa đề cập tới, cần bàn bạc thêm những gì... Học sinh
phải nhận thức được rằng mình là một chủ thể độc lập đang bàn bạc, tranh luận
với tác giả bài viết hoặc từ đoạn ngữ liệu mà suy ngẫm, nảy sinh ra những ý kiến
riêng mới mẻ.
Ví dụ: Cũng với đề bài trên, học sinh sẽ tìm ra được các ý mà đoạn ngữ

liệu đã trình bày về vấn đề “Tại sao“giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” vẫn
luôn là một chủ đề liên tục được bàn thảo, khi ồn ào lúc lại lắng xuống, nhưng
chưa bao giờ giảm sức “nóng”?” là:
- Tiếng Việt đang phải đối đầu trước nguy cơ hòa tan theo xu hướng áp
đảo của chính sách “thế giới phẳng” về ngơn ngữ và văn hóa do một số nước lớn
chủ xướng.
- Tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ của đại đa số người Việt Nam, là công cụ
giao tiếp quan trọng bậc nhất trong một cộng đồng dân cư rộng lớn. Tiếng Việt...
thực sự đã, đang và sẽ mãi là tài sản quốc gia quý giá.
Từ đây học sinh sẽ thấy lí giải như vậy là hợp lí nhưng vẫn cịn nhiều khía
cạnh để bàn bạc. Học sinh có thể tìm thêm nhiều lí do như sau:
- Về tầm quan trọng:
13


+ Tiếng Việt là phương tiện ngôn ngữ diễn đạt được đầy dủ nhất đời
sống tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của người Việt.
+ Nó lưu giữ các giá trị tinh thần của cộng đồng dân cư Việt từ thuở xưa
đến nay.
+ Nó góp phần bảo tồn bản sắc Việt.
+ Nó nhắc nhở chúng ta lịng tự hào, tự tơn dân tộc...
- Trên thực tiễn, sự trong sáng của tiếng Việt đang bị đe dọa bởi những
hiện tượng sau:
+ Sự lệch chuẩn trong sử dụng Tiếng Việt của một bộ phận người Việt
đặc biệt là giới trẻ
+ ViệcLạm dụng tiếng nước ngoài diễn ra thường xuyên liên tục
+ Hiện tượng chửi thề, nói tục đang làm mất đi vẻ đẹp vốn có của tiếng
Việt.
Rõ ràng khi tìm được các ý như vậy thì học sinh khó mà viết dựa, viết
theo hoặc “đồ họa” lại ngữ liệu bởi vì khi tiến hành các thao tác này học sinh đã

có tư duy độc lập. Từ các ý trên học sinh có thể dễ dàng viết thành một đoạn văn
của riêng mình, khơng sao chép ý của người khác. Và cũng từ đây các em có thể
triển khai thêm nhiều ý khác.
Thứ ba, dù yêu cầu của đề bài là bàn về một vấn đề xã hội đã được đề
cập đến ở ngữ liệu đọc - hiểu thì học sinh vẫn phải xem xét nó như một đề bài
độc lập. Đoạn ngữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo. Nghĩa là khi làm bài các
em phải tiến hành các bước như tôi đã đề cập ở giải pháp thứ 2, trong đó có ba
bước gần như là bắt buộc. Đó là:
- Xác định vấn đề nghị luận
- Tìm ý: Cơng việc này phải bám sát vào cấu trúc tổng quát tôi đã đưa ra
Ví dụ: Vẫn ở đề bài trên, trước khi viết các em phải hình dung được đoạn
văn của mình sẽ trình bày những ý sau:
Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận (trích ý kiến trong đề bài)
Thân đoạn :
Giải thích: “Sự trong sáng của tiếng Việt” là gì?
Bàn bạc: Tại sao“giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” vẫn luôn là một
chủ đề liên tục được bàn thảo, khi ồn ào lúc lại lắng xuống, nhưng chưa bao giờ
giảm sức “nóng”?
Mở rộng vấn đề: “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” có phải là cứ
“khư khư” giữ lấy tiếng Việt mà bài trừ tất cả các ngôn ngữ khác hay khơng? Có
cần học thêm ngoại ngữ khơng?
Bài học rút ra
Kết đoạn: Khái quát vấn đề.
- Dựng đoạn hoàn chỉnh
Khi học sinh hồn thành bài viết của mình, tơi sẽ cung cấp cho các em
một đoạn văn tham khảo mà cách viết khác với đoạn ngữ liệu trong đề bài. Học
sinh sẽ phân tích đoạn văn tham khảo để rút kinh nghiệm.
Ví dụ:
Đoạn văn tham khảo cho đề bài trên là:
14



Tiếng Việt là tiếng nói của đại đa số người Việt. Trải qua hàng ngàn năm
tồn tại và phát triển với biết bao thăng trầm, Tiếng Việt đã đạt phẩm chất trong
sáng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây“giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt” vẫn luôn là một chủ đề liên tục được bàn thảo, khi ồn ào lúc lại lắng
xuống, nhưng chưa bao giờ giảm sức "nóng". Tại sao vậy? Sự trong sáng của
tiếng Việt được biểu hiện ở hệ thống chuần mực riêng của tiếng Việt, không pha
tạp, lai căng, ở tính lịch sự, văn hóa trong lời nói... Nhưng thực tế hiện nay, sự
lệch chuẩn trong sử dụng ngôn ngữ của một bộ phận người Việt đặc biệt là giới
trẻ; tình trạng lạm dụng tiếng nước ngồi; hiện tượng nói năng thơ tục, bất lịch
sự đang “đe dọa” sự trong sáng vốn có của tiếng Việt. Hơn nữa, tiếng Việt là
phương tiện ngôn ngữ diễn đạt được đầy đủ nhất đời sống tư tưởng, tình cảm,
tâm hồn của người Việt. Nó lưu giữ các giá trị tinh thần của cộng đồng dân cư
Việt từ xưa đến nay. Nó góp phần bảo tồn bản sắc Việt, nhắc nhở chúng ta lịng
tự hào, tự tơn dân tộc…Cho nên giữ gìn tiếng Việt và sự trong sáng của tiếng
Việt phải luôn là nhiệm vụ trọng tâm trong thời đại “hội nhập” hiện nay. Nhưng
khơng phải vì thế mà chúng ta giữ “khư khư” tiếng Việt, bài trừ các ngôn ngữ
khác. Ngược lại, song song với quá trình giữ gìn chúng ta cũng phải biết tiếp
thu tinh hoa của các ngôn ngữ khác, để làm tiếng Việt trở nên phong phú hơn,
giàu có hơn. Ngồi ra, mỗi chúng ta cũng cần biết thêm ít nhất là một ngoại
ngữ để hội nhập và “vươn ra thế giới”. Có như vậy, tiếng Việt mới ngày càng
phát triển và hồn thiện. Có như vậy, chúng ta mới có thể “hịa nhập” mà
khơng “hịa tan”.
Trên đây là những giải pháp để hướng dẫn học sinh lớp 12 viết đoạn
văn NLXH trong đề thi THPTQG ở trường THPT Nguyễn Quán Nho năm
học 2016 - 2017.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, với đồng nghiệp và nhà trường
Qua một năm thực hiện đề tài, tôi nhận thấy kĩ năng viết đoạn văn NLXH

của học sinh tăng lên rõ rệt nhiều em đạt đến mức độ thành thạo, đảm bảo sự
liên kết cả về nội dung cũng như hình thức. Đa số học sinh đã biết viết đoạn văn
NLXH về một vấn đề đặt ra trong ngữ liệu đọc - hiểu của đề thi, khơng cịn tình
trạng viết theo, viết dựa, viết lặp lại ngữ liệu. Các em đã thể hiện được suy nghĩ,
chính kiến riêng của mình, nhiều em có cách lập luận khá sắc sảo, thuyết phục.
Cuối năm học tôi đã khảo sát, kiểm chứng kết quả thực hiện đề tài qua
việc khảo sát kĩ năng viết đoạn NLXH của học sinh hai lớp 12 tôi dạy để đối
chứng với đầu năm chưa triển khai thực hiện đề tài. Tơi đã sử dụng đề có cấu
trúc như sau: phần Đọc - hiểu (3,0 điểm) và phần Làm văn chỉ có một câu nghị
luận xã hội (2,0 điểm). Tôi muốn sử dụng cấu trúc như vậy để tương thích với
cấu trúc đề thi THPTQG.
Đề bài tơi dùng để khảo sát:
I. ĐỌC - HIỂU
Đọc sách là nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu trí tuệ của con người. […]
Khơng có đọc sách tức là khơng cịn nhu cầu về cuộc sống trí tuệ nữa. Và khi
15


khơng cịn nhu cầu đó nữa, thì đời sống tinh thần của con người nghèo đi, mòn
mỏi đi, và cuộc sống đạo đức cũng mất luôn nền tảng. Đây là một câu chuyện
nghiêm túc, lâu dài và cần được trao đổi, thảo luận một cách cũng rất nghiêm
túc và lâu dài. Tôi chỉ muốn thử nêu lên ở đây một đề nghị: Tôi đề nghị các tổ
chức thanh niên của chúng ta, bên cạnh những sinh hoạt thường thấy hiện nay,
nên có một cuộc vận động đọc sách trong thanh niên cả nước; và vận động từng
nhà gây dựng tủ sách gia đình. Gần đây có một nước đã phát động phong trào
trong toàn quốc mỗi người mỗi ngày đọc lấy 20 dịng sách. Chúng ta cũng có
thể làm được như thế, hoặc vận động mỗi người trong một năm đọc lấy một
cuốn sách. Cứ bắt đầu bằng việc rất nhỏ, khơng q khó. Việc nhỏ đấy nhưng
rất có thể là việc nhỏ khởi đầu một công cuộc lớn.
(Theo Nguyên Ngọc, Một đề nghị, trích Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục,

tr.176)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2: Nêu nội dung chính của văn bản.
Câu 3:Vì sao theo tác giả “nên có một cuộc vận động đọc sách trong
thanh niên trong cả nước.
Câu 4: Anh/chị hãy bày tỏ ngắn gọn suy nghĩ của mình về vai trị của
việc đọc sách.
II.LÀM VĂN (2,0 điểm)
Từ nội dung của văn bản phần Đọc - hiểu, anh (chị) hãy bàn về văn hóa
đọc của người trẻ Việt Nam. (Trình bày bằng một đoạn văn khoảng 200 từ)
KẾT QUẢ KHẢO SÁT CỦA HỌC SINH HAI LỚP 12C1,12C5 TRƯỜNG
THPT NGUYỄN QUÁN NHO SAU KHI TRIỂN KHAI ÁP DỤNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM
(Điểm số câu NLXH)
Khối lớp

Đầu
năm
Cuối
năm

Tổng
số học
sinh

Điểm 1,5 - 2,0
TS
%


KẾT QUẢ
Điểm 1,0 - 1,25 Điểm 0 - 0,75
TS
%
TS
%

12C1

45

3

6,7%

20

44,4%

22

48,9%

12C5

34

0

0%


13

38,2%

21

61,8%

12C1

45

14

31,1%

22

48,9%

8

20,0%

12C5

34

8


23,5%

17

50,0%

9

26,5%

So với kết quả khi chưa thực hiện đề tài, kết quả trên có sự thay đổi rõ rệt,
tỉ lệ học sinh đạt điểm 1,5 - 2,0 (tương ứng mức khá, giỏi) tăng, tỉ lệ học sinh
điểm 1,0 - 1,25 (tương đương mức trung bình, trung bình khá) tăng, tỉ lệ học
sinh bị điểm dưới 1,0 giảm rõ rệt. Dưới đây là thống kê số liệu tăng giảm cụ thể:

16


BẢNG SO SÁNH ĐỐI CHỨNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRƯỚC VÀ
SAU KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI SKKN.
Lớp
12C1
12C5

Điểm 1,5 - 2,0

Điểm 1,0 - 1,25

Điểm 0 - 0,75


TS

%

TS

%

TS

%

11

+ 24,4%

2

+ 4,5%

- 14

- 28,9%

8

+ 23,5%

4


+ 12,8%

- 13

- 35,3%

( Kí hiệu: + là tăng, - là giảm).
Nhìn vào bảng so sánh đối chứng ta thấy sau khi thực hiện đề tài số học
sinh đạt điểm 1,5 - 2,0 của lớp 12C1 tăng 24,4%, lớp 12C5 tăng 23,5%. Số học
sinh đạt điểm dưới trung bình 12C1 giảm 28,9%, 12C5 giảm 35,3%.
Một số đồng nghiệp trong trường cũng đã áp dụng sáng kiến này cho học
sinh các lớp 12 khác và bước đầu đem lại kết quả khả quan. Kết quả này cũng
được khẳng định qua lần thi khảo sát chất lượng ôn thi THPTQG mà trường tổ
chức cho học sinh cuối tháng 4 - 2017 vừa qua. Tỉ lệ học sinh đạt điểm từ 1,0 trở
lên ở câu NLXH là khoảng 70%. Trong khi đó đợt khảo sát tháng đầu tháng 11 2016 tỉ lệ trên trung bình (từ 1,0 điểm trở lên) ở câu NLXH chỉ là gần 50%.
Tôi mong rằng kết quả này sẽ được tiếp tục khẳng định qua kì thi THPT
quốc gia năm 2017 và trong các năm học tới.

17


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Một số bài học rút ra của tôi sau khi thực hiện sáng kiến là:
- Giáo viên cần cho học sinh nắm vững kiến thức về đoạn văn, về cách
nghị luận một vấn đề xã hội, đặc biệt là những đề bài có tích hợp với ngữ liệu
cho trước.
- Giáo viên phải có điều tra khảo sát thực tế, và tuỳ theo đối tượng học
sinh khá, giỏi hay trung bình, yếu mà vận dụng các giải pháp phù hợp. Qua đó

mà củng cố hoặc nâng cao kiến thức về đoạn văn, rèn luyện kĩ năng dựng đoạn
văn NLXH cho học sinh.
- Đặc biệt là phải tăng cường kiến thức xã hội cho học sinh thông qua
nhiều kênh thông tin khác nhau.
Khả năng ứng dụng của sáng kiến:
Những giải pháp trong sáng kiến đã giúp học sinh nhất là đối tượng học
sinh từ trung bình trở xuống của trường THPT Nguyễn Quán Nho có kĩ năng
viết đoạn văn NLXH đặc biệt là đoạn văn NLXH tích hợp với ngữ liệu đọc hiểu trong các đề thi. Kĩ năng viết đoạn văn NLXH trong phạm vi đề tài này sẽ
giúp ích cho học sinh trong kì thi THPT quốc gia năm 2017 sắp tới và các năm
tiếp theo.
Sáng kiến cũng góp phần nâng cao khả năng viết luận cho học sinh sau
này. Đồng thời nó cũng giúp học sinh cải thiện kĩ năng thuyết trình, kĩ năng bày
tỏ quan điểm về các vấn đề xã hội, phần nào tạo ra thói quen tranh luận, thói
quen phản biện xã hội.
Các kinh nghiệm trong sáng kiến này cũng có thể ứng dụng trong các giờ
học ngoại khóa, trong các buổi thảo luận, tọa đàm, trong các hoạt động của
Đoàn thanh niên, trong các hoạt động sáng tạo của học sinh...
3.2. Kiến nghị
Để ứng dụng hiệu quả sáng kiến này vào q trình dạy và học mơn ngữ
văn, tơi kiến nghị:
Đối với nhà trường
- Tăng thêm số buổi ôn thi THPTQG môn Ngữ văn ở tất cả các lớp 12.
- Tổ chức hoạt động ngoại khóa cho học sinh với nội dung phong phú,
gần với thực tiễn để học sinh thu nhận thêm kiến thức xã hội, biết tranh luận,
trình bày quan điểm của mình về những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống xung
quanh.
Đối với các cơ quan quản lý giáo dục
- Tăng cường thời lượng dạy và học các tiết nghị luận xã hội trong
chương trình Ngữ văn phổ thông.
- Đổi mới cách ra đề thi, kiểm tra và đánh giá học sinh theo xu hướng

tích hợp, gần gũi với đời sống.
- Tổ chức thêm các chuyên đề chia sẻ kinh nghiệm dạy phần NLXH cho
giáo viên.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi qua việc thực hiện đề tài ở trường
THPT Nguyễn Quán Nho. Tuy nhiên, đây chỉ là kinh nghiệm mang tính chủ
18


quan của bản thân và mới áp dụng trong phạm vi hẹp, thời gian ngắn. Rất mong
sự đóng góp ý kiến, trao đổi, bổ sung của bạn bè đồng nghiệp và sự phổ biến
nhân rộng của đề tài để kết quả giáo dục nói chung, dạy và học văn nói riêng của
học sinh ngày càng được nâng cao.
Xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 12 tháng 05 năm 2017.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
ĐƠN VỊ

khơng sao chép nội dung của người khác.

Lê Thị Hồng Thắm

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 8.
2. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 9.
3. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 11.

4. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 12.
5. Luyện tập cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh
phổ thông của các tác giả: Nguyễn Quang Ninh – Nguyễn Thị Ban- Trần
Hữu Phong.
6. 28 đề thi THPTQG năm 2017,Gs Đỗ Ngọc Thống

20



×