Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Rèn luyện kỹ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.48 KB, 18 trang )

1. Mở đầu
- Lí do chọn đề tài
+ Nghị luận là một trong sáu phương thức biểu đạt quen thuộc của con
người trong nhận thức đời sống, xã hội. Vận dụng kết hợp các phương thức tự
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội là một hoạt
động quan trọng, cần thiết phù hợp với nhu cầu biểu đạt tự nhiên. Trong thực
tế, không có văn bản nghị luận nào dù ở dạng nói hoặc viết mà từ đầu đến
cuối chỉ sử dụng duy nhất một phương thức biểu đạt. Muốn diễn đạt rõ ràng
sáng tỏ tư tưởng, quan điểm của mình, người nói, người viết thường phải sử
dụng kết hợp nhiều phương thức khác để hỗ trợ làm tăng sức thuyết phục của
văn nghị luận.
+ Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận
xã hội là một kĩ năng mới và khó trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn
THPT. Mặc dù, chương trình và SGK Ngữ văn 8,9 bậc THCS đã tách ra để
rèn luyện riêng các PTBĐ, phương thức biểu đạt kết hợp tự sự, miêu tả, biểu
cảm trong kiểu văn bản nghị luận, nhưng phải đến lớp 12 học sinh mới được
rèn luyện vận dụng một cách tổng hợp, toàn diện cả 4 phương thức biểu đạt tự
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh.
+ Do tính chất phức tạp của việc vận dụng kết hợp các phương thức
biểu đạt trong bài văn nghị luận xã hội ở lớp 12 khiến GV và HS gặp nhiều
khó khăn, bất cập trong quá trình dạy học. Chất lượng bài văn nghị luận xã
hội của học sinh lớp 12 còn nhiều hạn chế do chưa biết vận dụng các phương
thức biểu đạt phù hợp với mục đích nghị luận.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Rèn luyện kĩ
năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm,
thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12”.
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất được các nguyên tắc, biện pháp tổ
chức rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm,
thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12.
- Đối tượng nghiên cứu


Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu
cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết gồm:
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp nhằm hệ thống hóa các
vấn đề lí luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài.
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp khảo sát; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp
thống kê, phân loại.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm (tổ chức thiết kế giáo án và dạy
học thực nghiệm các biện pháp, hình thức tổ chức rèn luyện kĩ năng vận dụng
kết hợp các PTBĐ trong bài văn nghị luận xã hội cho HS lớp 12).
1


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của việc Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương
thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị
luận xã hội
2.1.1. Khái niệm văn nghị luận
Văn nghị luận là một loại văn có vẻ đẹp riêng ở cách lập luận lôi cuốn
và lí lẽ thuyết phục, có tác dụng to lớn trong đời sống và trong nhà trường. Ta
có thể bắt gặp văn nghị luận ở bất cứ đâu, trong cuộc họp, trong bài diễn
thuyết, trong các bài xã luận, bình luận, phát biểu ý kiến trên báo chí hoặc
trao đổi, tranh luận về một vấn đề cụ thể trong cuộc sống thường ngày,... Ở
nước ta, văn nghị luận có lịch sử khá lâu đời, có sứ mệnh lớn lao trong trường
kì lịch sử, trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Cho đến nay, văn nghị
luận vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở nên đa dạng,
phong phú. Do vậy, vấn đề nghiên cứu về văn nghị luận vẫn tiếp tục tiêu tốn
không ít giấy mực, công sức của rất nhiều các học giả, các nhà nghiên cứu

quan tâm đến nó. Về khái niệm văn nghị luận cũng có rất nhiều quan niệm
khác nhau:
2.1.2. Văn nghị luận xã hội
Nghị luận xã hội là một bộ phận của kiểu văn bản nghị luận sử dụng
phương thức lập luận nhằm trình bày quan điểm, tư tưởng, ý kiến của người viết
về các vấn đề có ý nghĩa xã hội, thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và dẫn
chứng. Dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí; Nghị luận về hiện tượng đời
sống và sử dụng kết hợp nhiều phương thức biểu đạt là điểm đổi mới quan trọng
của dạy học làm văn trong chương trình, sách Ngữ văn 12 hiện hành.
Dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí thường bàn luận về một vấn
đề tư tưởng đạo lí có ý nghĩa trong đời sống xã hội (giải thích tư tưởng đạo lí;
phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch trong tư tưởng;
Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động).
Dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống thường bàn luận về một
sự việc, hiện tượng đang được xã hội, cộng đồng quan tâm (nêu rõ hiện
tượng; liên hệ thực tế phân tích các mặt biểu hiện đúng – sai – lợi – hại của sự
việc, hiện tượng; bày tỏ ý kiến, thái độ của người nói, người viết về sự việc,
hiện tượng).
2.1.3. Các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh
trong bài văn nghị luận xã hội
* Khái niệm:
Phương thức biểu đạt được hiểu là cách thức phản ánh và tái hiện lại
đời sống (thiên nhiên, xã hội, con người) của người viết, người nói. Mỗi
phương thức biểu đạt phù hợp với một mục đích, ý đồ phản ánh, tái hiện nhất
định và được thực hiện bởi một thao tác chính nào đó. Thông thường rất ít khi
người viết chỉ sử dụng một phương thức mà trái lại sử dụng nhiều phương
thức trong một văn bản. Khi gọi kiểu văn bản nào đó là do căn cứ vào phương
thức biểu đạt chính.
2



* Phân biệt phương thức biểu đạt chính và phương thức biểu đạt kết hợp
Mỗi phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản phải phù hợp
với mục đích, ý đồ giao tiếp. Chẳng hạn, khi tạo lập kiểu văn bản tự sự người
viết, người nói cần sử dụng kết hợp phương thức miêu tả vì nó phù hợp với ý
đồ xây dựng nhân vật (kể kết hợp với tả hình dáng, tính tình, nội tâm, hành
động việc làm của nhân vật). Khi tạo lập kiểu văn bản nghị luận, người ta
thường hay sử dụng kết hợp phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh vì nó phù hợp với yêu cầu và mục đích của bài văn nghị luận làm tăng
thêm sức thuyết phục cho bài văn nghị luận. Để tránh nhầm lẫn giữa phương
thức biểu đạt chính với phương thức biểu đạt kết hợp trong một kiểu văn bản,
chúng ta có thể căn cứ vào sự khác biệt được xác định trong bảng so sánh sau:
Bảng 1: So sánh PTBĐ chính và YTBĐ kết hợp
Phương thức biểu đạt chính
Yếu tố biểu đạt kết hợp
- Được sử dụng chủ yếu trong VB - Là khi phương thức được vận dụng một
cách thứ yếu bên cạnh PTBĐ chủ yếu
khác.
- Chi phối toàn bộ quá trình tạo - YTBĐ lúc này chỉ được sử dụng xen kẽ
lập VB từ mục đích giao tiếp của trong VB, thường chỉ có tác dụng đến một
VB đến các yếu tố tạo nên nội bộ phận, tạo thêm một đặc điểm nào đó
dung và hình thức của VB như: đề của VB không tạo nên sự thay đổi về tổng
tài, kết cấu nội dung của VB, từ ý thể bố cục, kết cấu nội dung và hình thức
đến lời văn,...
của VB.
* Phương thức tự sự
“Tự” có nghĩa là kể, “sự” là việc. Tự sự là kể việc. Trong quá trình bàn
luận vấn đề, để người nghe, người đọc có thể hiểu rõ hơn quá trình hình thành
và phát triển của sự vật, hiện tượng người viết phải sử dụng phương thức tự
sự. Bản chất của tự sự là trình bày sự việc, sự kiện được diễn ra theo trình tự

thời gian, diễn biến của sự việc. Trong văn bản nghị luận, tự sự là phương
thức được sử dụng kết hợp, đan xen khi người nói người viết muốn trình bày
trình tự phát triển của sự vật, sự việc hoặc vấn đề được bàn luận. Việc sử dụng
tự sự như vậy sẽ làm tăng tính chính xác và sự hấp dẫn cho nội dung vấn đề
được bàn luận.
* Phương thức miêu tả
Trong quá trình tạo lập văn bản, khi muốn giúp người đọc hình dung ra
đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh...
làm cho đối tượng được nói tới như hiện lên trước mắt người đọc... thì người
viết phải dùng động tác miêu tả. Như thế, phương thức miêu tả chính là
phương thức dùng động tác miêu tả để phản ánh và tái hiện đời sống. Tuy
nhiên không phải chỉ trong văn miêu tả người ta mới sử dụng đến phương
thức này bởi miêu tả hiện diện hầu như trong tất cả các kiểu văn bản khác với
tư cách là phương thức biểu đạt kết hợp, bổ trợ. Đối với kiểu văn bản nghị
luận cũng vậy, nhờ có phương thức miêu tả mà đối tượng bàn luận được khắc

3


họa rõ nét, nội dung bàn luận trở nên cụ thể sinh động hơn, qua đó người tiếp
nhận có điều kiện hiểu rõ hơn về đối tượng bàn luận.
* Phương thức biểu cảm:
Biểu cảm là sự biểu bộ tình cảm, tư tưởng của con người nhờ ngôn ngữ
hay một số phương tiện khác và là nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc
sống hàng ngày. Biểu cảm lấy việc biểu lộ nội tâm của chủ thể làm mục đích.
Nếu phương thức miêu tả sử dụng các chất liệu tạo hình, thì phương thức biểu
cảm sử dụng các chất liệu gợi tình.
Văn nghị luận có mối quan hệ gắn bó khăng khít với biểu cảm vì biểu
cảm không chỉ có mục đích biểu thị tình cảm mà còn có cả chức năng diễn đạt
tư tưởng. Vì vậy, trong một vài trường hợp, chúng ta khó phân biệt văn nghị

luận và biểu cảm. Nếu nghị luận thiên về lập luận, sử dụng nhiều bằng chứng
và lí lẽ để giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận,... thì
biểu cảm thiên về việc biểu thị tư tưởng và cảm xúc. Biểu cảm thiên về cảm
nhận có tính tự do và cảm tính hơn còn nghị luận thiên về các hoạt động của
nhận thức lí tính, của tư duy locgic.
* Phương thức thuyết minh:
Phương thức thuyết minh là trình bày, giới thiệu, giải thích một cách
khách quan về đối tượng khi người nói, người viết muốn làm rõ đặc điểm cơ
bản của đối tượng, cung cấp tri thức về các sự việc, hiện tượng trong tự nhiên
và xã hội. Trong bài văn nghị luận, những kiến thức đem lại từ phương thức
thuyết minh để trả lời câu hỏi : sự việc, hiện tượng ấy là gì ? có đặc điểm gì?
nguồn gốc, lịch sử hình thành và phát triển ra sao? Có tác dụng lợi ích gì ? sẽ
giúp cho nội dung nghị luận đúng với những gì đang diễn ra trong thực tiễn vì
thế có sức thuyết phục người nghe, người đọc.
2.2. Thực trạng dạy và học NLXH cho học sinh lớp 12 ở trường phổ
thông
2.2.1. Giờ dạy làm văn NLXH ở lớp 12 của giáo viên:
Quan sát giờ dạy của giáo viên ở trường phổ thông cho thấy, những tiết
dạy thực hành phần lớn giáo viên còn tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ chức
các hoạt động thực hành luyện tập của học sinh. Trong một bài học thực hành
luyện tập giáo viên bao giờ cũng phải hướng học sinh vào một số công đoạn
chính để đảm bảo kĩ năng trọng tâm của bài học học sinh cần đạt. Giờ thực
hành ở phổ thông hiện nay phần nhiều giáo viên chưa quan tâm và đầu tư cho
vấn đề này. Cụ thể là các nội dung thực hành được tiến hành được tiến hành
một cách dàn trải không có trọng tâm; thiếu hẳn những thao tác công đoạn cụ
thể, cần thiết để hình thành và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Các hình thức
tổ chức luyện tập, thực hành rèn luyện kĩ năng cho học sinh của giáo viên còn
khá đơn điệu, buồn tẻ, chủ yếu cho học sinh làm bài tập. Sách giáo khoa
hướng dẫn sơ sài, giáo viên thả nổi cho học sinh tự làm dẫn đến tình trạng học
sinh mông lung, mơ hồ, mất phương hướng trong các giờ thực hành luyện tập.

Đa số học sinh khi được hỏi đều trả lời giờ thực hành làm văn kém hứng thú,
ít tác dụng.
4


Trong các giờ thực hành luyện tập, đa số giáo viên dạy theo kinh
nghiệm làm văn và rất tùy hứng, không bám sát nội dung dạy học trong sách
giáo khoa. Không chỉ vậy, khi luyện tập thực hành, nhiều giáo viên chỉ giao
bài tập cho học sinh, không có sự hướng dẫn, hỗ trợ, đánh giá, bổ sung giúp
học sinh kịp thời nhận ra ưu điểm, hạn chế, biết cách khắc phục hạn chế trong
làm văn.
2.2.2. Bài làm văn NLXH của học sinh lớp 12:
Ưu điểm nổi bật nhất của các bài làm văn theo chương trình, sách giáo
khoa Ngữ văn hiện hành là được học sinh chủ động bày tỏ ý kiến, quan điểm
riêng về vấn đề bàn luận và sử dụng đan xen kết hợp nhiều phương thức biểu
đạt và thao tác lập luận trong bài văn. Tuy nhiên, qua khảo sát, đa số học sinh
làm văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống nhưng không nêu ý
kiến nhận xét, đánh giá của bản thân về sự việc, hiện tượng đó, không tỏ rõ ý
thức và thái độ đúng đắn trước vấn đề NLXH mà sa vào kể lể, miêu tả, phát
biểu cảm nghĩ lan man về các sự việc, hiện tượng trong đời sống, xã hội. Số ít
học sinh lại mắc lỗi sử dụng phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh như là phương thức chính để tạo lập bài văn. Từ đầu đến cuối bài văn,
học sinh phát biểu cảm nghĩ về một quan điểm sống, hoặc kể, liệt kê về sự ô
nhiễm môi trường trong những tình huống khác nhau dẫn đến sai về bố cục
bài văn và kết cấu ý trong bài văn, sai về phương thức biểu đạt, không đáp
ứng yêu cầu của đề bài.
Cách sử dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh trong bài văn nghị luận xã hội của học sinh lớp 12 hiện nay cũng còn rất
đơn điệu, thiếu sự sáng tạo. Điều này làm cho bài văn nghị luận trở nên khuôn
sáo và khó tạo được sự đồng cảm ở người đọc.

Có thể nói, xem xét ở cả hai phương diện kiến thức và kĩ năng, học sinh
lớp 12 còn rất nhiều hạn chế về khả năng sử dụng kết hợp các phương thức tự
sự, miêu tả, biểu cảm và thuyết minh trong bài văn NLXH. Sự hạn chế về
năng lực của học sinh trước hết có nguyên nhân từ nội dung dạy học trong
sách giáo khoa còn sơ sài nhất là tiết luyện tập chưa đủ để chuyển hóa thành
kỹ năng, thành năng lực thực sự của học sinh. Thêm nữa nhiều giáo viên lại
chưa chú ý đầu tư, tìm hiểu để bổ sung, nâng cao kiến thức. Do vậy, hầu hết
các tiết học về nội dung này đều chỉ được tiến hành theo một quy trình: Tìm
hiểu ví dụ, giáo viên chỉ chú ý làm rõ vai trò, tác dụng của một phương thức
biểu đạt mà chưa giúp học sinh nắm được cách vận dụng phương thức biểu
đạt này như thế nào. Phần luyện tập mới chỉ tập trung chủ yếu đến việc phân
tích tác dụng mà chưa chú ý đúng mức tới bài tập tạo lập, bài tập rèn luyện kỹ
năng và nhất là bài tập sửa lỗi cho học sinh.
Bên cạnh đó, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nói trên còn bắt
nguồn từ sự thiếu hụt những tri thức về đời sống cũng như kinh nghiệm giao
tiếp của học sinh lớp 12. Điều này làm cho bài văn nghị luận của các em
chẳng những thiếu tính thuyết phục mà còn nghèo nàn về thông tin, đơn điệu
trong cách thức diễn đạt. Một số học sinh dù có hiểu biết nhất định nhưng lại
5


chưa biết cách vận dụng sao cho phù hợp với vấn đề nghị luận, làm cho lý lẽ
và dẫn chứng thiếu tính nhất quán.
Ngoài ra, kĩ năng dụng kết hợp các PTBĐ trong bài văn NLXH của học
sinh lớp 12 hiện nay còn tùy tiện, chung chung là do xu hướng xem nhẹ việc
học văn và làm văn. Phần lớn học sinh làm văn không xuất phát từ nhu cầu tự
thân của học sinh, làm văn theo kiểu đối phó, kém hứng thú. Một số lượng
không nhỏ bài văn của học sinh là sự cóp nhặt nội dung từ các nguồn tài liệu
tham khảo khác nhau, không phải là kết quả của một quá trình suy nghĩ
nghiêm túc, cũng không phải là tiếng nói hay thái độ, hành động của người

viết trước các vấn đề của đời sống, xã hội.
2.3. Giải pháp Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các phương thức tự sự,
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH cho học sinh lớp 12
2.3.1. Hệ thống hóa kiến thức về các phương thức biểu đạt tự sự, miêu
tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội bằng phương pháp
phân tích mẫu
Trước khi rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp phương thức tự sự, miêu
tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH, học sinh đã được trang bị kiến
thức về từng phương thức riêng lẻ ở lớp 6, kiến thức về sự kết hợp chúng ở
lớp 8 chương trình THCS. Cho nên khi rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp cả
4 phương thức này trong các bài văn NLXH cho học sinh lớp 12 giáo viên cần
định hướng, khơi gợi để học sinh huy động một cách tổng lực, tối đa những tri
thức cũ đã học ở các lớp trước để hình thành kiến thức mới và phát triển kĩ
năng làm bài văn NLXH ở mức độ khó hơn, phức tạp hơn. Mục tiêu của phần
củng cố kiến thức lí thuyết là giúp học sinh nhớ lại kiến thức về phương thức
tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, thấy được vai trò quan trọng của sự kết
hợp chúng trong bài văn NLXH. Đồng thời giúp học sinh biết cách vận dụng
kết hợp từ hai phương thức hay kết hợp nhiều phương thức khi viết đoạn văn,
bài văn NLXH. Khi hình thành tri thức cho học sinh, giáo viên có thể thực
hiện theo trình tự sau:
Bước 1: Cung cấp ngữ liệu, yêu cầu học sinh đọc, quan sát ngữ liệu đã
được giáo viên cung cấp
Bước 2: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu bằng cách đưa ra
những câu hỏi gợi mở, câu hỏi có tính khám phám, phát hiện, câu hỏi lí giải,
phân tích câu hỏi tích hợp huy động. Từ việc phân tích văn bản ngữ liệu, học
sinh sẽ xác định được các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh
được sử dụng trong bài văn NLXH, cách vận dụng kết hợp chúng trong bài
văn.
Bước 3: Học sinh tổng hợp, ghi nhớ kiến thức, kĩ năng trọng tâm của
bài học. Giáo viên nhận xét, bổ sung và chốt kết quả bài học cần ghi nhớ.

2.3.2. Tổ chức cho học sinh nhận biết các phương thức biểu đạt và
cách thức vận dụng tổng hợp chúng trong bài văn NLXH bằng kĩ thuật dạy
học tương tác

6


Nhận biết trong làm văn là mức độ nhận thức tương ứng với mức độ
“Biết” trong thang phân loại của Bloom. Mức độ nhận biết giúp giáo viên
kiểm tra khả năng ghi nhớ của học sinh về những đặc điểm của phương thức
tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh. Yêu cầu học sinh nhận biết sự kết hợp
bốn phương thức biểu đạt này trong bài văn NLXH là loại bài tập có mức độ
yêu cầu đơn giản nhất trong thang phân loại 6 mức độ nhận thức của Bloom.
Loại bài tập này thường mang tính ôn tập sau các giờ học lí thuyết hoặc mang
tính chất khởi động, khơi gợi khả năng nhớ lại kiến thức cơ bản của học sinh.
Phần trình bày yêu cầu thường được diễn đạt theo những hình thức khác nhau:
Đoạn văn đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào? Phương thức biểu đạt
nào đóng vai trò chủ yếu? Phương thức biểu đạt nào được sử dụng đan xen
(kết hợp) đóng vai trò bổ trợ? Hãy chỉ ra sự kết hợp các PTBĐ trong đoạn
văn? Tác giả đã vận dụng các PTBĐ trong đoạn văn/văn bản này như thế nào?
Để hướng dẫn học sinh nhận biết cách thức kết hợp phương thức tự sự,
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong đoạn ngữ liệu trên, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh thực hiện các yêu cầu theo quy trình sau:
Bước 1: Đọc kĩ các đoạn văn và xác định chủ đề bàn luận.
Bước 2: Xác định mục đích nghị luận của đoạn văn.
Bước 3: Xác định luận điểm và các luận cứ trong đoạn văn.
Bước 4: Xác định phương thức biểu đạt chính và các phương thức biểu
đạt kết hợp trong đoạn văn.
Bước 5: Xác định cách vận dụng kết hợp các PTBĐ đó.
2.2.3. Học sinh lí giải sự cần thiết của sự kết hợp các phương thức biểu

đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH
Lí giải là khả năng giải thích, cắt nghĩa, diễn đạt những kiến thức đã
biết theo những yêu cầu khác nhau hoặc theo một quan điểm mới. Học sinh sẽ
sử dụng những kiến thức đã học về phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm,
thuyết minh để lí giải vai trò, tác dụng của chúng khi được sử dụng kết hợp
trong những đoạn văn, bài văn NLXH. Mục đích của loại bài tập này không
chỉ nhằm làm cho học sinh hiểu được giá trị của việc sử dụng kết hợp mà còn
biết cách sử dụng kết hợp chúng trong quá trình viết bài văn.
2.3.4. Hướng dẫn học sinh xác định PTBĐ chính và các PTBĐ kết hợp
để làm sáng tỏ chủ đề, đề bài làm văn NLXH
Tìm hiểu đề, tìm ý hay còn gọi là định hướng cho nội dung bài viết là
một khâu quan trọng trong quá trình làm bài văn NLXH. Để có thể xác định
được PTBĐ cần kết hợp để làm sáng tỏ chủ đề, đề tài trong một đề văn nghị
luận xã hội, trước hết học sinh cần xác định được đề bài hướng tới nội dung
nghị luận nào? Vấn đề nào cần được làm sáng tỏ? Học sinh có thể tiến hành
theo các bước sau:
Bước 1: Học sinh tìm hiểu đề. Ở bước này, học sinh cần đọc kĩ đề bài,
nhận diện đề, xác định mục đích, yêu cầu về chủ đề, đề tài cần bàn luận, phạm
vi của bài viết, phương thức biểu đạt chính.

7


Bước 2: Học sinh xác định nội dung bàn luận, tìm ý, xác định các thao
tác lập luận cần sử dụng và các phương thức biểu đạt kết hợp.
Bước 3: Học sinh lập dàn ý (tổ chức sắp xếp ý) cho bài văn đảm bảo bố
cục của kiểu bài mà đề yêu cầu tạo lập. Căn cứ vào các ý trong dàn ý học sinh
xác định chính xác hơn PTBĐ nào cần sử dụng kết hợp trong bài văn.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá.
2.3.5. Tổ chức cho học sinh viết đoạn văn NLXH có sử dụng kết hợp

các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh
Bên cạnh việc đảm bảo các tiêu chí trên, để trình bày một đoạn văn
nghị luận học sinh cần biết vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt và các
thao tác lập luận. Việc sử dụng kết hợp phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm,
thuyết minh có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự sinh động, cụ thể, chặt
chẽ và sức thuyết phục cho luận điểm, luận cứ trong đoạn văn, bài văn nghị
luận. Bài tập yêu cầu học sinh viết đoạn văn, bài văn nghị luận văn học sử
dụng kết hợp các phương thức biểu đạt không chỉ giúp học sinh nâng cao
năng lực tạo lập văn bản, năng lực vận dụng sáng tạo mà còn nâng cao chất
lượng của các bài làm văn.
Để giúp HS rèn luyện kĩ năng viết các đoạn văn trong bài văn NLXH
có vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, GV cần tổ chức và hướng dẫn
cho HS lần lượt thực hiện các bước sau:
Bước 1: Xác định vai trò, vị trí của đoạn văn (đoạn mở bài, đoạn thân
bài, đoạn kết bài).
Xác định nội dung (chủ đề), mục đích nghị luận của đoạn văn
Bước 2: Từ việc xác định trên, lựa chọn phương thức biểu đạt chính,
xác định các phương thức biểu đạt và các thao tác lập luận kết hợp, chọn kiểu
kết cấu đoạn văn phù hợp.
Bước 3: Đặt câu và liên kết câu để tạo thành đoạn văn hoàn chỉnh đúng
ngữ pháp.
2.3.6. Học sinh nhận xét, sửa lỗi kết hợp phương thức tự sự, miêu tả biểu
cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH bằng phương pháp đánh giá đồng đẳng
Một trong những phương pháp học tập môn làm văn hiệu quả là học
sinh được học tập qua thực hành trải nghiệm và học qua sai lầm « Đọc văn
người để sửa văn mình ». Việc làm cho học sinh có khả năng phát hiện ra lỗi
sai và khắc phục lỗi sai trong tạo lập văn bản là khâu hết sức cần thiết giúp
các em nâng cao năng lực làm văn phù hợp với mục đích giao tiếp, phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh đòi hỏi phải thay đổi nội dung
và cách thức đánh giá. Học sinh được tự đánh giá kết quả thực hành viết đoạn

văn, bài văn nghị luận văn học sử dụng kết hợp PTBĐ vừa có ý nghĩa tăng
cường tình khách quan trong đánh giá đồng thời phát huy vai trò tích cực,
sáng tạo của chủ thể học sinh trong học tập. GV cần tổ chức, thực hiện các
bước sau:
Bước 1: Giáo viên cho học sinh đánh giá kết quả thực hành của bạn
theo hình thức đổi bài.
8


Bươc 2: Học sinh nhận bài thực hành của mình đã được bạn đánh giá.
Học sinh kiểm tra lại và trao đổi với bạn nếu có vấn đề thắc mắc
Bước 3: Giáo viên đánh giá kết quả thực hành của học sinh.
2.2.7. Học sinh tự rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các PTBĐ có sự
hướng dẫn của giáo viên
Để kích thích tinh thần hăng say học tập rèn luyện của học sinh, giáo
viên có thể kiểm tra đánh giá kết quả tự học, tự thực hành luyện tập ở nhà của
các em bằng cách kiểm tra miệng, kiểm tra làm bài tập ở nhà vào đầu tiết học.
Những biện pháp, cách thức tổ chức rèn luyện kĩ năng vận dụng kết
hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH góp
phần hiện thực hóa mục tiêu dạy học kiểu văn bản nghị luận trong chương
trình, sách giáo khoa Ngữ văn 12, nâng cao năng lực tạo lập văn bản của học
sinh.
2.2.8. Tổ chức thực nghiệm: Thiết kế giáo án thực nghiệm
Tiết 38: LUYỆN TẬP VẬN DỤNG KẾT HỢP CÁC PHƯƠNG
THỨC BIỂU ĐẠT TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN (Nghị luận về một
tư tưởng đạo lí, Nghị luận về một hiện tượng đời sống)
A. Mục tiêu cần đạt
1/ Kiến thức:
- Thấy được sự cần thiết phải vận dụng kết hợp các phương thức biểu
đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận.

- Hiểu được yêu cầu và cách thức vận dụng kết hợp các phương thức biểu
đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận (NLXH)
2/ Kĩ năng:
- Bước đầu biết vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu
tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống và bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
3/ Thái độ:
Có ý thức vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả,
biểu cảm, thuyết minh khi viết bài văn nghị luận (nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống và bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí).
B. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
1. Chuẩn bị của giáo viên
- Giáo án
- Sách giáo khoa Ngữ văn 12
- Laptop và máy chiếu
- Một số ngữ liệu phục vụ tiết học
2. Chuẩn bị của học sinh
- Chuẩn bị bài ở nhà về kiểu văn bản nghị luận (đã học ở lớp 7), cách
làm các dạng bài văn nghị luận xã hội có sử dụng kết hợp các phương thức tự
sự, miêu tả, biểu cảm (đã học ở lớp 8, lớp 9).
C. Tiến trình tổ chức dạy học:
I. Ổn định tổ chức lớp
9


II. Kiểm tra bài cũ và sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
III. Dạy học bài mới
Giới thiệu bài mới: Trong sáu kiểu văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm,
nghị luận, thuyết minh, hành chính - công vụ, thì kiểu văn bản nghị luận được
học nhiều hơn cả tập trung ở các lớp 7, lớp 8, lớp 9 bậc THCS và toàn bộ

chương trình lớp 11 và lớp 12 bậc THPT. Học nhiều như vậy nhằm mục đích
giúp học sinh có năng lực tạo lập tốt kiểu văn bản nghị luận đặc biệt với 2
dạng bài NLXH thông dụng giúp các em thành đạt trong cuộc sống: Nghị luận
về một sự việc hiện tượng đời sống; Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
Một trong những kĩ năng quan trọng giúp các em viết bài văn nghị luận có
sức lôi cuốn, thuyết phục chính là kĩ năng vận dụng kết hợp các phương thức
biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh.
Hoạt động của GV và HS
Kết quả cần đạt
Phần 1: Luyện tập trên lớp
Bài tập 1: Tìm hiểu yêu cầu và cách
HOẠT ĐỘNG 1: Tìm hiểu yêu thức vận dụng kết hợp phương thức
cầu và cách thức vận dụng kết biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm,
hợp các phương thức biểu đạt tự thuyết minh trong bài văn NL và
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết NLXH.
minh trong văn bản nghị luận nói
chung và các dạng bài NLXH nói  HS thấy được sự cần thiết phải vận
riêng.
dụng kết hợp các phương thức tự sự,
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong văn
? Văn nghị luận nói chung, nghị bản nghị luận nói chung, các dạng bài
luận xã hội nói riêng được viết ra NLXH nói riêng
nhằm mục đích gì?
(1) Xác lập cho người đọc, người nghe
- GV chiếu lên bảng bài văn/đoạn một tư tưởng, quan điểm, lập trường
văn nghị luận về Sự lãng phí nhất định về một hiện tượng đời sống
trong cuộc sống.
hay một tư tưởng đạo lí.
- HS quan sát đoạn văn để tìm
thông tin trả lời các câu hỏi sau:

? HS xác định PTBĐ chính và các
PT được kết hợp trong đoạn văn?
(2) PTBĐ chính: Nghị luận
? Sự kết hợp các PTBĐ tự sự, (3) PTBĐ kết hợp: tự sự, miêu tả, biểu
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh cảm, thuyết minh.
đem lại giá trị gì cho đoạn văn (4) Giá trị biểu đạt: giúp cho đoạn văn
trên?
trình bày về sự lãng phí trong cuộc sống
? Vì sao trong một bài văn hoặc được rõ ràng, cụ thể, sinh động, chính
đoạn văn NLXH cần vận dụng kết xác.
hợp các phương thức biểu đạt tự “Lãng phí trong cuộc sống biểu hiện rất
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết phong phú nhiều hình thức, nhiều cấp
minh?
độ”

10


? Để việc vận dụng kết hợp các
PTBĐ có tác dụng nâng cao hiệu
quả nghị luận, người viết cần chú
ý những yêu cầu gì?
? HS nêu ra 1 số cách vận dụng
kết hợp các phương thức tự sự,
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh
trong bài văn/đoạn văn NL?

HOẠT ĐỘNG 2: HS thực hành
cách làm bài văn nghị luận về
tư tưởng sống đẹp và diễn đạt

hoàn chỉnh một đoạn văn nghị
luận có sử dụng kết hợp các
PTBĐ.

a) GV tổ chức cho HS tìm hiểu
đề
? Chủ đề của bài phát biểu là gì?
? Xác định yêu cầu của đề bài.
? Yêu cầu tạo lập kiểu văn
bản/dạng bài văn nào?
? Sử dụng phương thức biểu đạt
nào là PT chính để viết bài văn?

b) GV tổ chức cho HS tìm ý: xác
định các luận điểm chính và các
phương thức biểu đạt kết hợp

(5) Làm cho nội dung nghị luận trong
đoạn văn/bài văn NL rõ ràng, cụ thể,
chính xác, có sức thuyết phục mạnh mẽ.
 HS hiểu được yêu cầu và cách thức
vận dụng kết hợp các phương thức biểu
đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh
trong bài văn nghị luận và NLXH.
(6) Những yêu cầu khi sử dụng kết hợp:
- Phù hợp với yêu cầu và mục đích nghị
luận.
- Không phá vỡ mạch nghị luận.
(7) Cách thức vận dụng kết hợp:
- Các PT tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết

minh được sử dụng linh hoạt, đan xen
với việc trình bày lí lẽ, dẫn chứng trong
bài văn/đoạn văn NL và NLXH.
- Sử dụng linh hoạt 2 hay nhiều phương
thức biểu đạt tùy theo đích lập luận của
đoạn văn/bài văn NL.
Bài tập 2. Thực hành cách làm bài văn
nghị luận về tư tưởng sống đẹp và
diễn đạt hoàn chỉnh một đoạn văn
nghị luận có sử dụng kết hợp các
PTBĐ.
1. HS biết vận dụng kết hợp các phương
thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh để phát biểu ý kiến về tư tưởng
“Sống đẹp”.
2. HS biết viết bài văn/đoạn văn nghị
luận về về một tư tưởng đạo lí.
a) Tìm hiểu đề
(1) Chủ đề: Sống đẹp
(2) Yêu cầu: Bày tỏ ý kiển, quan điểm,
thái độ của người viết về quan niệm
“sống đẹp”.
(3) Dạng bài: nghị luận về một tư tưởng,
đạo lí
(4) Phương thức biểu đạt chính: nghị
luận.
b) Tìm ý: xác định các luận điểm chính
và các phương thức biểu đạt kết hợp.
(5) Các luận điểm của bài viết/ý lớn:
11



cho bài phát biểu.
? Tìm những luận điểm cần thiết
để làm sáng rõ chủ đề “Sống đẹp”
- GV tổ chức cho học sinh tìm ý
và trình bày, thảo luận theo
nhóm/tổ.

- Sống đẹp là sống có ích.
- Sống đẹp là sống có khát vọng hoài
bão
- Sống đẹp là sống có niềm tin và nghị
lực
- Sống đẹp là sống có tâm hồn lạc quan,
yêu đời.
- Phê phán lối sống không đẹp.
? Để làm sáng tỏ các luận điểm (6) Các phương thức biểu đạt cần kết
đó, em cần sử dụng kết hợp các hợp: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
PTBĐ nào?
minh.
? Kết hợp các phương thức biểu
đạt đó ở những chỗ nào và kết
hợp như thế nào để ý kiến của em
có sức thuyết phục, hấp dẫn?

c) GV tổ chức cho học sinh lập
dàn ý cho bài phát biểu:
? HS dựa vào bố cục của bài văn
nghị luận về một tư tưởng đạo lí

để lập dàn ý cho bài phát biểu về
chủ đề “Sống đẹp”.
? Mở bài phát biểu em sẽ nói gì?
? Phần nội dung của bài phát biểu
em sẽ giải quyết các ý chính nào?
<-> HS trình bày, thảo luận theo
tổ/nhóm.
<-> HS liên hệ với thực tế chỉ ra
các mặt tốt và lợi ích của tư tưởng
sống đẹp.

<-> HS liên hệ với thực tế chỉ ra

(7) Kết hợp phương thức tự sự, miêu tả,
biểu cảm, thuyết minh ở chỗ luận bàn tư
tưởng sống đẹp là tư tưởng đúng đắn.
Liên hệ thực tế chỉ ra cái tốt, cái lợi ích
của tư tưởng sống đẹp; đồng thời phê
phán những biểu hiện của lối sống không
đẹp.
(8) Kết hợp các phương thức biểu đạt
này đan xen khi trình bày lí lẽ, dẫn
chứng, bày tỏ thái độ trước những biểu
hiện của lối sống đẹp và lối sống không
đẹp.
c) Lập dàn ý cho bài phát biểu về tư
tưởng “Sống đẹp”.
I. Mở bài:
- Giới thiệu tư tường sống đẹp và dẫn
câu thơ của Tố Hữu trong bài thơ “Một

khúc ca”
II. Thân bài:
1. Giải thích tư tưởng “Sống đẹp”: Sống
đẹp là sống có ích, sống có khát vọng
hoài bão, sống có tâm hồn yêu đời và có
niềm tin nghị lực.
2. Luận bàn về tư tưởng sống đẹp: Sống
đẹp là tư tưởng sống đúng đắn, làm cho
cuộc sống có ý nghĩa, xã hội tốt đẹp, văn
minh.
- Sống đẹp là sống có ích.
- Sống đẹp là sống có khát vọng hoài
bão
- Sống đẹp là sống có niềm tin và nghị
12


các mặt xấu và tác hại của những lực
biểu hiện sống không đẹp.
- Sống đẹp là sống có tâm hồn lạc quan,
yêu đời.
3. Nhận thức và hành động của bản thân:
? Bản thân phải làm gì để có lối
- Phê phán lối sống không đẹp.
sống đẹp?
+ Biểu hiện
+ Tác hại:

d) GV tổ chức cho HS thực hành
viết đoạn văn NL có sử dụng kết

hợp các PTBĐ
? HS diễn đạt 1 trong số các luận
điểm trên một thành đoạn văn NL
hoàn chỉnh có sử dụng kết hợp
các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu
cảm, thuyết minh.

- Bản thân muốn có lối sống đẹp:
+ Rèn luyện tư tưởng, nhân cách, sống
yêu thương chan hòa.
+ Luôn quyết tâm làm việc tốt, tránh
điều xấu, điều ác không làm.
+ Luôn biết tự học bằng cách lắng nghe
nhiều hơn, quan sát cuộc sống nhiều
hơn.
III. Kết luận:
Khẳng định sống đẹp thì bản thân sẽ
hạnh phúc và xã hội sẽ tốt đẹp hơn.
d) HS diễn đạt 1 luận điểm thành đoạn
văn hoàn chỉnh có sử dụng kết hợp các
PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh.
Sống đẹp là một tư tưởng sống
đúng đắn. Có nhiều quan niệm khác
nhau về sống đẹp. Đối với tôi, sống đẹp
là sống biết hy sinh. Người biết nghĩ cho
người khác, luôn quan tâm đến mọi
người hẳn là người có tấm lòng vị tha,
giàu tình yêu thương và sống có trách
nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh vì yêu

nước thương dân mà đã hy sinh trọn
cuộc đời để đấu tranh cho nền độc lập, tự
do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.
Những người lính đảo Trường Sa vì
muốn bảo vệ chủ quyền độc lập và sự
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước mà ngày
đêm kiên cường trước sóng, gió chiến
đấu với ngoại xâm. Nhiều học sinh quê
hương Thanh Hóa dù hoàn cảnh gia đình
khó khăn vẫn dành dụm từng đồng tiền
bé nhỏ ủng hộ các bạn nghèo vùng lũ
Quảng Bình sớm được đến trường. Sống
13


Phần 2: Luyện tập ở nhà
HOẠT ĐỘNG 3: HS trả lời các
câu hỏi ở bài tập 1, sách Ngữ
văn 12, tập 1, trang 161.
? Bài văn nghị luận có vận dụng
kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả,
biểu cảm, thuyết minh nhất định
phải hay hơn bài văn NL không
sử dụng các phương thức đó?
Đúng hay sai? Vì sao?
? Bài văn nghị luận chỉ vận dụng
kết hợp một PTBĐ sẽ không hay
bằng bài văn vận dụng đồng thời
cả bốn PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu
cảm, thuyết minh. Đúng hay sai?

Vì sao?
HOẠT ĐỘNG 4: Vận dụng kết
hợp các phương thức biểu đật
tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh đề viết bài văn nghị luận
về một trong các chủ đề sau:
- Ô nhiễm môi trường
- An toàn vệ sinh thực phẩm
- Tai nạn giao thông
- Bạo lực gia đình,…
 GV hướng dẫn HS cách làm
bài văn ở nhà.

hy sinh sẽ đem lại cho chúng ta một
cuộc sống ý nghĩa, góp phần làm cho xã
hội tốt đẹp hơn.
Bài tập 3: Bài tập ở nhà
(1) Bài văn nghị luận nếu vận dụng kết
hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm,
thuyết minh phù hợp với yêu cầu và mục
đích nghị luận thì đó là bài văn hay có
sức thuyết phục mạnh mẽ.
(2) Nếu sử dụng không phù hợp sẽ khiến
cho bài văn nghị luận bị lan man, lạc chủ
đề, không đạt yêu cầu nghị luận.
(3) Việc vận dụng kết hợp một hay nhiều
PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh trong đoạn văn/bài văn NL phải
xuất phát từ yêu cầu và mục đích nghị
luận. Do vậy, nếu vận dụng không đúng

yêu cầu và mục đích sẽ làm hỏng bài văn
nghị luận.
Bài tập 4: HS viết bài văn nghị luận về
một hiện tượng đời sống theo chủ đề
tự chọn.
- Hướng dẫn: cách làm vẫn tiến hành
theo các bước:
+ Tìm hiểu đề
+ Tìm ý/xác định luận điểm chính và các
PTBĐ kết hợp
+ Lập dàn ý
+ Viết bài văn hoàn chỉnh theo dàn ý.
+ Đọc và sửa lỗi bài văn

IV. Củng cố dặn dò:
1. HS về nhà hoàn thành các bài tập 1 và 2, sách Ngữ văn tập một,
trang 161.
2. Đọc thêm “Môi trường và phát triển” (sách Ngữ văn 12, tập một,
trang 162) để nắm vững cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận về một hiện tượng
đời sống.
3. Sau khi dạy học thực nghiệm, tôi tổ chức cho học sinh viết một bài
nghị luận ngắn về một tư tưởng đạo lí, thu thập thông tin về tiết dạy học thực

14


nghiệm, tiết dạy đối chứng, thông tin về bài kiểm tra của học sinh, thống kê, xử
lí kết quả dạy học thực nghiệm trên các phương diện định tính và định lượng.
- Đề bài kiểm tra

Trong ca khúc “Để gió cuốn đi”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết: “Sống
trong đời sống cần có một tấm lòng”. Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 400
từ) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trên.
- Thời gian làm bài kiểm tra: 45 phút
-. Đối tượng và địa bàn kiểm tra dạy học thực nghiệm và dạy học đối
chứng: Lớp 12A5 và lớp 12A1 trường PT Nguyễn Mộng Tuân (Đông Sơn,
Thanh Hóa)
2.4. Hiệu quả Rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt
tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội
2.4.1. Kết quả dạy học thực nghiệm - đối chứng: Kết quả bài kiểm tra
Bảng 2: Kết quả bài làm văn của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Sĩ Điểm
Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm 3,4 Điểm 1,2
Tên
9,10
Lớp
số
trường
HS SL % SL % SL % SL % SL %
PT
Lớp thực
30,
Nguyễn nghiệm
40 0 0
12
25 62,5 3 7,5 0
0
0
Mộng
12A5

Tuân
Lớp đối
10,
37,
(Đông
chứng
40 0 0
4
21 52,5 15
1 2,5
0
5
Sơn)
12A1
2.4.2. Nhận xét chung
Căn cứ vào những thông tin thu thập được từ kết quả bài kiểm tra của
lớp dạy học thực nghiệm và lớp dạy học đối chứng tại trường PT Nguyễn
Mộng Tuân (Đông Sơn) chúng tôi rút ra một số nhận xét đánh giá sau:
- Ở giờ học thực nghiệm, học sinh phải thực hành nhiều hơn, học sinh
chủ động, tích cực giải quyết các yêu cầu thực hành luyện tập theo các mức
độ từ đơn giản đến phức tạp: từ bài tập yêu cầu nhận biết –> đến bài tập thông
hiểu, lí giải –> đến bài tập vận dụng theo mẫu –> và cuối cùng là học sinh làm
bài văn sáng tạo. Các kiến thức và kĩ năng tìm hiểu để, tìm ý, lập dàn ý, xác
định phương thức biểu đạt kết hợp đều do học sinh chủ động khám phá,
chiếm lĩnh thông qua hoạt động thực hành, nêu câu hỏi, tìm kiếm thông tin trả
lời câu hỏi, vận dụng sáng tạo để giải quyết vấn đề. Học sinh không bị gò bó
áp đặt bởi suy nghĩ và cách giải quyết vấn đề của giáo viên. Chính vì vậy,
không khí giờ học sôi nổi hơn bởi sự trao đổi, đối thoại giữa giáo viên với học
sinh, giữa học sinh với nhau. Các hình thức tổ chức luyện tập thực hành rèn kĩ
năng vận dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh

trong bài văn nghị luận cụ thể, phong phú, có sức lôi cuốn hơn so với các hoạt
động học tập trong giờ dạy đối chứng.

15


- Nếu để đánh giá chung thì ở tiết dạy thực nghiệm và bài kiểm tra thực
nghiệm, đa số học sinh hiểu được sự cần thiết phải vận dụng kết hợp các
PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, biết viết bài văn nghị luận về
một tư tưởng đạo lí có vận dụng kết hợp các PTBĐ.
- Ở bài làm văn của lớp học thực nghiệm đã đạt được một điều quan
trọng mà ở lớp học đối chứng chưa có đó là nhiều học sinh đã biết nêu ra ý
kiến, luận điểm cho bài văn nghị luận, biết tìm ý, biết vận dụng kết hợp các
phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh để làm sáng rõ luận điểm,
giúp cho việc trình bày các luận cứ trong bài văn trở nên sinh động, cụ thể, có
sức thuyết phục. So với lớp dạy học đối chứng, lớp thực nghiệm có kết quả có
kết quả cao hơn. Tỷ lệ học sinh ở lớp thực nghiệm đạt kết quả khá giỏi (điểm
từ 7 - 10) nhiều hơn: HS thực hiện tốt các yêu cầu của đề bài, biết cách vận
dụng kết hợp các phương thức biểu đạt một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp
với yêu cầu, mục đich nghị luận. Tỷ lệ học sinh đạt điểm dưới trung bình
giảm hẳn so với lớp đối chứng.
Qua các hoạt động thực nghiệm: thiết kế giáo án; tổ chức dạy học thực
nghiệm và dạy học đối chứng, xây dựng đề, đáp án kiểm tra đánh giá; học
sinh làm bài kiểm tra; giáo viên chấm bài thực nghiệm - bài đối chứng; họp
tổng kết rút kinh nghiệm dạy thực nghiệm…v.v giúp cho chúng tôi kịp thời bổ
sung, điều chỉnh nâng cao tính hiệu quả, tính khả thi của các nguyên tắc, biện
pháp tổ chức rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả,
biểu cảm, thuyết minh trong bài văn NLXH cho học sinh lớp 12. Từ đó, nâng
cao năng lực viết văn nghị luận cho học sinh lớp 12. Giúp phát triển kĩ
năng, năng lực làm văn của học sinh, đem lại niểm vui hứng thú học tập

cho các em, trang bị cho học sinh phương pháp tự học, tự rèn luyện để phát
triển năng lực đáp ứng nhu cầu xã hội.

16


3. Kết luận và kiến nghị
* Kết luận
- Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm,
thuyết minh trong bài văn nghị luận xã hội là một kĩ năng cần thiết làm cho
vấn đề nghị luận được trình bày một cách sinh động, cụ thể, giàu sức thuyết
phục.
- Qua khảo sát 12 tiết dạy học làm văn nghị luận tại 6 trường THPT
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa cho thấy giáo viên và học sinh còn gặp nhiều khó
khăn lúng túng ở các tiết rèn luyện kĩ năng sử dụng kết hợp các PTBĐ tự sự,
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong bài văn nghị luận do thời lượng ít, lí
thuyết làm văn còn chung chung, thiếu các chỉ dẫn cụ thể; học sinh kém hứng
thú với công việc làm văn; giáo viên ít đầu tư cho các tiết dạy làm văn. Đây
chính là căn nguyên của vấn đề học sinh được học tất cả các kiểu văn bản, các
dạng bài làm văn nhưng khi thực hành, viết bài thì lại không thể viết đúng,
viết đạt yêu cầu theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
- Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm,
thuyết minh trong văn bản nghị luận và các dạng bài nghị luận xã hội là một
kĩ năng mới và khó đối với học sinh lớp 12. Việc vận dụng kết hợp hai hay
nhiều phương thức biểu đạt phải xuất phát từ yêu cầu và mục đích của bài
nghị luận. Các nguyên tắc, biện pháp tổ chức rèn luyện kĩ năng cho học sinh
mà chúng tôi đề xuất ở chương 2 góp phần hóa giải những khó khăn lúng túng
trong thực tế dạy học làm văn nghị luận ở lớp 12 hiện hành nâng cao năng lực
tạo lập văn bản và đọc hiểu văn bản nghị luận cho học sinh THPT.
* Kiến nghị

Chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn cần tiếp tục dạy cho học sinh kĩ
năng vận dụng kết hợp các PTBĐ tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong
bài văn nghị luận; tăng thêm thời lượng thực hành rèn luyện các kĩ năng làm
văn nghị luận cho học sinh lớp 12 để đảm bảo sau mỗi tiết học, kiến thức và
kĩ năng làm văn của học sinh đạt so với Chuẩn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 2 tháng 6 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Vũ Thị Hoàng Yến

17


18



×