Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số giải pháp nâng cao năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn bản chí phèo ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.16 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, các nước tiến bộ trên thế giới đều chú trọng xây dựng một nền giáo dục
thực sự dân chủ, đào tạo những con người toàn diện, năng động, sáng tạo, chủ động,
tự tin, có khả năng nhạy bén, linh hoạt ứng biến và thuyết phục người khác bằng khả
năng tư duy và lập luận của mình. Vậy nên việc rèn luyện và phát huy khả năng tư
duy phản biện của học sinh cần thiết hơn bao giờ hết. Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy
phản biện cũng có nghĩa là trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành
công hơn trong cuộc sống . [4]
Để đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt Nam những năm gần đây
cũng đã chú trọng tới vấn đề này. Tại Thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày
06/4/2012, chương II, điều 7, mục 2c có viết: “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực,
chủ động, sáng tạo và biết phản biện”. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá theo dạng đề
mở cũng đã minh chứng rằng, giáo dục của chúng ta đang hướng tới phát triển kĩ năng
phản biện cho học sinh.
Môn Văn là môn học đặc thù, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Việc cảm nhận và
đánh giá một vấn đề văn học cũng thay đổi theo thời gian và thị hiếu của mỗi người,
mỗi thời đại. Có những vấn đề hôm nay là đúng nhưng ngày sau chưa hẳn thế. Có
những vấn đề ngày trước bị phê phán kịch liệt nhưng ngày nay người ta lại đồng tình,
đồng cảm. Một vấn đề có thể có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà không
tìm ra chân lí [4]. Hơn thế, văn học cũng tuân thủ theo quy tắc riêng của nó. Không
phải những tác phẩm ra đời sau có thể phủ nhận hoặc đem lại nhiều giá trị mới mẻ
hơn những tác phẩm ra đời trước. Thực tế, người đọc sẽ luôn tìm thấy những giá trị
mới mẻ của một tác phẩm văn học (dù là cũ hay mới) nếu họ có một cách nhìn mới,
một điểm nhìn mới. Đó cũng là nguyên tắc giúp một tác phẩm văn học hấp dẫn và bất
tử trong lòng bạn đọc muôn đời. Vì vậy, trong học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách
cảm mới để tìm ra những giá trị mới. HS như những bạn đọc sáng tạo, bằng tư duy và
khả năng lập luận của mình, sẽ đưa ra được chân lí mới mẻ cho vấn đề. Đây chính là
lợi thế để rèn luyện năng lực phản biện của học sinh trong các giờ đọc hiểu văn bản
văn học ở trường THPT.
Nhưng lâu nay, chúng ta vẫn đang dạy học Văn một chiều. Nghĩa là vẫn “bắt” học


sinh cảm nhận theo cách chúng ta đã hiểu. Trước những lí lẽ mới lạ, chúng ta vội vàng
phủ nhận hoặc nặng nề hơn là “kết tội” học sinh. Chính điều đó khiến cho môn Ngữ
Văn ngày càng trở nên nhạt nhẽo trong tâm hồn các em. Và quan trọng hơn là chúng
ta không kích thích được nhu cầu tự bộc lộ mình, không phát triển được năng lực tư
duy phản biện cần có của học sinh hiện nay.
Vì những lí do trên nên chúng tôi lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao năng
lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn bản Chí Phèo – Ngữ văn 11”. Phát huy
1


năng lực phản biện cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản văn học không phải là vấn
đề bây giờ mới được bàn đến song hi vọng với cái nhìn và phạm vi ứng dụng cụ thể
cho bài học về văn bản “Chí Phèo”, chúng tôi sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng
những đòi hỏi thiết thực của giáo dục hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nhằm tìm cách phát huy tối đa năng lực phản biện của người dạy và người
học trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học. Đồng thời tạo ra được một không khí dạy
học dân chủ, thoải mái, góp phần làm nên sức hấp dẫn cho việc chiếm lĩnh tri thức văn
học trong trường phổ thông.
3. Đối tượng nghiên cứu
Để nâng cao năng lực cho học sinh qua dạy học văn, chúng tôi chỉ tập trung vào
các tiết dạy học văn bản “Chí Phèo” - của Nam Cao trong chương trình Ngữ văn 11.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu chính
- Phương pháp thể nghiệm.
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành khảo sát năng lực phản biện và hứng thú học tập môn Ngữ Văn
của học sinh THPT ở một số trường.

Bước 2: Dạy thể nghiệm theo hướng phát triển tư duy phản biện ở một số lớp.
Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học.
Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.

2


NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Phản biện và năng lực phản biện
1.1.1. Phản biện
Phản biện (Opponency) là dùng lí lẽ và dẫn chứng để lập luận chống lại một ý
kiến, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá, hành động, việc làm… nhằm thuyết phục
người nghe nhìn nhận, đánh giá vấn đề theo cách khác có sức thuyết phục hơn, đúng
hơn. [5]
Phản biện được xây dựng trên tinh thần đối thoại, do đó, có tính tích cực và xây
dựng. Mục tiêu đầu tiên của phản biện không phải là bác bỏ (như biện bác) hay đả
kích (như chỉ trích) hay tìm khuyết điểm (như trong phê phán) hoặc cả khuyết điểm
lẫn ưu điểm (như trong phê bình). Mục tiêu chính của phản biện là đề xuất một cách
nhìn hay một góc nhìn khác để người bị phản biện phải cố gắng chứng minh quan
điểm của mình là đúng đắn nhất và để mọi người có thể cân nhắc lựa chọn cái tối ưu.
Đồng thời buộc đối tượng bị phản biện phải tăng cường sự thuyết phục cho các quan
điểm của họ. Họ phải chứng minh là họ đúng hơn.[2]
1.1.2. Tư duy phản biện
Tư duy phản biện hay là tư duy phân tích là một quá trình tư duy biện chứng gồm
phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra
nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề.
Muốn có phản biện trước hết phải có tư duy phản biện. Tư duy phản biện thể hiện
tính tích cực của chủ thể.
Tư duy phản biện không đơn thuần chỉ là những ý kiến “phản biện” như tên gọi.

Những hoạt động trong quá trình tư duy phản biện thường bao gồm: nêu quan điểm và
bảo vệ quan điểm, sử dụng những bằng chứng phù hợp, tạo mối liên hệ giữa các ý,
đánh giá, phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh, chỉ ra khó khăn và cách khắc phục.
Một quá trình tư duy phản biện được coi là tốt khi đạt được những tiêu chí: rõ ràng,
mạch lạc, chính xác, thống nhất, ngắn gọn, phù hợp, có những giải thích và lý do phù
hợp, khách quan, toàn diện và có chiều sâu. [5]
1.1.3. Năng lực phản biện
Năng lực phản biện là năng lực nắm bắt, khai minh chân lý; chỉ ra các ngụy
biện/ ngụy tạo, cảnh báo các ngộ nhận, các nguy cơ (nếu có). Nó làm xuất hiện nhu
cầu phản tỉnh, thôi thúc nhận thức lại các đối tượng/ vấn đề trong chuyên môn hoặc
trong sách lược, chiến lược liên quan đến quốc kế, dân sinh, liên quan đến toàn xã hội.
Suy cho cùng, năng lực phản biện, chủ yếu là năng lực phát hiện những điểm bất cập/
bất hợp lý, bất khả thi, bất khả dụng và cất lên tiếng nói cảnh báo có ý nghĩa trên cơ sở
lật trở vấn đề, quan sát đối tượng từ nhiều phía (nhất là phía nghịch, mặt trái) để có thể
3


nhận thức lại một cách đúng đắn hơn. Phản biện là hành động thúc đẩy tái nhận thức,
điều chỉnh thái độ, tái kiến tạo giải pháp cho thích đáng, hiệu quả. [1]
Từ năng lực phản biện sẽ giúp học sinh hình thành tư duy phản biện. Tư duy phản
biện có tính chủ động, do đó khi một người có tư duy phản biện họ sẽ tự nảy ra câu
hỏi, tự tìm các thông tin liên quan, quan sát nhìn nhận, đánh giá vấn đề hơn là học hỏi
thụ động từ người khác. Như vậy việc rèn luyện tư duy phản biện sẽ kích thích tính
chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo hứng thú mới cho họ trong quá trình tìm kiếm,
chiếm lĩnh tri thức.
1.2. Ý nghĩa của rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh
Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh là giúp học sinh vượt ra khỏi cách suy
nghĩ theo khuôn mẫu, thói quen, truyền thống có sẵn đã định hình từ bậc THCS, cố
gắng tìm tòi những cái mới trong khoa học, thoát ra những rào cản của lối mòn tư
duy, kích thích hứng thú học tập của học sinh các em.

Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh cũng chính là rèn luyện cho các em khả
năng tư duy độc lập, tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tìm hiểu kiến thức.
Nó giúp các em tránh được tình trạng đồng thuận dễ dãi, hời hợt xuôi chiều trong
khoa học, ngăn chặn tình trạng học vẹt, đọc vẹt.
Rèn luyện năng lực phản biện giúp học sinh có ý thức rõ ràng hơn trong việc lắng
nghe và tôn trọng ý kiến người khác trong lúc tranh luận. Đồng thời đây cũng là cơ
hội học sinh cập nhật, chắt lọc được thông tin cần thiết, có giá trị, bổ ích để bù đắp
những lỗ hổng kiến thức cho bản thân hoặc xác lập mục tiêu học tập mới.
Rèn luyện năng lực phản biện còn giúp học sinh hoàn thiện thêm kĩ năng nói trước
đám đông, kĩ năng thu hút người nghe, kĩ năng trình bày vấn đề khoa học... Đồng thời
góp phần đào tạo những con người năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống hiện đại.
Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh còn giúp các giáo viên thu được những
thông tin phản hồi hữu ích để điều chỉnh phương pháp dạy học của mình. Thông qua
việc phản biện của trò, người dạy sẽ phân loại được đối tượng. Qua đó có sự điều
chỉnh dạy học phù hợp cho mỗi đối tượng khác nhau.
Phản biện trong dạy học giúp cho cả thầy và trò có cái nhìn khách quan, công tâm
về chân lí của mọi vấn đề. Phản biện trong dạy học khẳng định tính dân chủ, tích cực,
tiến bộ của một nền giáo dục. Đặt trong bối cảnh hiện nay, phản biện trong dạy học
còn góp phần quan trọng vào phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thuận lợi
2.1.1 Về phía học sinh
Học sinh THPT ngày nay đã có sự phát triển khá toàn diện về trí tuệ. Các em có
cách nhìn nhận vấn đề khá mới mẻ, dù nhiều khi “hồn nhiên”, nhưng rất thú vị. Trong
4


quá trình giảng dạy Ngữ văn tại trường THPT Đặng Thai Mai, tôi phát hiện học sinh

của mình cũng có khả năng tư duy độc lập, có nhu cầu bộc lộ mình và có ý thức bảo
vệ quan điểm của mình.
Chẳng hạn, trong giờ đọc – hiểu truyện cổ tích “Tấm Cám”, khi được hỏi về cái
kết của truyện, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến khác nhau:
Có học sinh khẳng định: “Hành động trả thù của Tấm là độc ác, dã man, không
phù hợp với truyền thống đạo lí của dân tộc. Cần lên án và phê phán”. Em HS còn
mạnh dạn đề xuất “Không nên đưa tác phẩm vào chương trình. Vì như vậy, vô tình đã
cổ súy cho những hành động độc ác và hướng dẫn các em thực hiện hành vi tội ác”.
Nhưng có học sinh lại phản biện lại: “Hành động của Tấm là thỏa đáng, đúng quy
luật cuộc sống “có áp bức có đấu tranh” và nó thể hiện được tinh thần đấu tranh
quyết liệt của nhân dân ta trước thế lực tàn bạo. Nếu như hành vi tội ác của mẹ con
nhà Cám chỉ dừng lại ở chặng thứ nhất thì có thể xem cách trả thù của Tấm là độc ác.
Nhưng rõ ràng, mẹ con Cám đã tìm mọi cách hòng tiêu diệt Tấm đến cùng, ngay cả
khi Tấm không trong hình hài của con người. Không đấu tranh loại trừ cái Ác, Tấm sẽ
tiếp tục bị cái Ác tiêu diệt”.
Thậm chí có HS còn có những liên hệ với thực tế khá rành rọt, rõ ràng: Hành
động trả thù của Tấm là hợp lí. Bởi nếu không trả thù, không chống trả lại hành vi tội
ác của kẻ thù, Tấm tiếp tục mẹ con nhà Cám hãm hại. Cũng như dân tộc ta, không thể
nhân nhượng hết lần này đến lần khác trước tội ác của bọn bán nước và cướp nước
được. Vì càng nhân nhượng chúng càng lấn tới. Càng nhân nhượng nguy cơ mất
nước càng cao.
Hay trong giờ đọc hiểu văn bản truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị
Châu – Trọng Thủy”, khi cho học sinh cảm nhận đánh giá về các nhân vật, tôi nhận
được những luồng thông tin khác nhau.
Với nhân vật An Dương Vương, có học sinh thì cho rằng “An Dương Vương là một
vị vua có công lớn đối với đất nước, đáng ngợi ca”; có học sinh lại khẳng định: “Vua
An Dương Vương có công lớn đối với đất nước nhưng ông cũng đáng lên án phê phán
vì chính ông là người đã gây ra cảnh ngộ lầm than, loạn li của đất nước, của nhân
dân. Ông là vua nhưng không bảo vệ được đất nước, không bảo vệ được nhân dân.
Cũng như làm cha mà không bảo vệ được gia đình và vợ con của mình vậy.”.

Với nhân vật Mị Châu, có học sinh nói “Mị Châu đáng thương vì nàng quá ngây
thơ, trong sáng, nàng chỉ là nạn nhân trong âm mưu thâm sâu của cha con Triệu Đà”;
học sinh khác lại cho rằng: “Mị Châu đáng trách vì nàng là công chúa – con vua –
nhưng lại không có tinh thần cảnh giác trước kẻ thù dẫn đến bi kịch nước mất nhà
tan”, v,v…
Rõ ràng những ý kiến đó của học sinh cho thấy, các em luôn có nhu cầu và khả
năng thể hiện quan điểm, cách nhìn nhận của mình về một vấn đề.
2.1.2. Về chương trình
5


Chương trình môn Ngữ văn THPT được xây dựng trên tinh thần mở: phong phú về
nội dung, thể loại và kiểu bài học. Đặc biệt là sự bổ sung của kiểu bài Nghị luận xã
hội, kiểu bài không chỉ yêu cầu học sinh có kiến thức về xã hội mà còn phải có quan
điểm, cách nhìn nhận đánh giá về vấn đề xã hội.
Tinh thần mở của chương trình còn thể hiện ở việc đổi mới kiểm tra, đánh giá của
môn Ngữ văn. Học sinh được thoải mái bộc lộ quan điểm riêng của mình mà không sợ
“lệch” ý thầy cô. Tiêu chí đúng, sai được thay thế bằng lập luận có thuyết phục hay
không. Đây chính là cơ hội để học sinh được phát huy khả năng học tập, năng lực hiểu
biết và lập luận của chính mình.
Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con người toàn
diện, năng động, sáng tạo trong công việc thì việc phát huy khả năng phản biện của
HS cần thiết hơn bao giờ hết. Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa
là trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công trong cuộc sống.
2.2 Khó khăn
2.2.1. Về phía học sinh
Tuy nhiên, thực tế, việc học sinh chủ động và thường xuyên trình bày quan điểm,
suy nghĩ và nhận thức của mình cũng như bảo vệ quan điểm ý kiến của mình là rất hạn
chế và không phổ biến.
Qua quan sát trong các tiết dạy của bản thân và trao đổi với các đồng nghiệp,

chúng tôi nhận thấy các em học sinh luôn luôn học tập theo cách chỉ tiếp thu những gì
mà giáo viên truyền thụ theo kiểu một chiều. Học sinh ít khi thắc mắc hoặc trình bày
chính kiến của mình trước những vấn đề mà giáo viên truyền thụ hay đặt ra.
Những nguyên nhân của tình trạng này có thể là do giáo viên ít có những câu hỏi
kích thích tư duy của học sinh, học sinh lười suy nghĩ, không động não vì không có
động cơ học tập rõ ràng, học sinh có thắc mắc, nêu ý kiến nhưng giáo viên không giải
đáp hoặc giải đáp không thỏa đáng, bài giảng của giáo viên chưa phong phú hấp dẫn
khiến cho học sinh không có hứng thú học tập...
2.2.2. Về phía giáo viên
Một bộ phận giáo viên Ngữ văn trường chúng tôi hiện nay chưa sẵn sàng chấp
nhận học sinh phản biện. Một phần vì uy tín, danh dự, một phần vì năng lực chuyên
môn hạn chế,…Thậm chí đã có giáo viên coi việc phản biện của học sinh là hành vi
vô lễ (cãi lại).
Hơn thế, lối dạy truyền thụ vẫn đang ăn sâu trong tâm lí của một bộ phận không
nhỏ giáo viên Ngữ văn trường tôi. Phần lớn thời gian của tiết học, giáo viên thao thao
thuyết giảng. Rất hay. Nghe rất hấp dẫn. Nhưng kết quả học sinh thu lại chẳng đáng là
bao so với những gì giáo viên nói.
3. Các giải pháp thực hiện
3.1. Tạo tâm thế nhập cuộc bằng tình huống phản biện
6


Tạo được tâm thế nhập cuộc là tạo được những tình huống sư phạm đặc thù mà
giáo viên thiết kế để khơi dậy trong học sinh hứng thú tiềm tàng và động cơ học tập
tích cực, khơi dậy khát khao giao cảm với thế giới nghệ thuật, khơi dậy nhu cầu giao
tiếp và đối thoại với nhà văn một cách tự nhiên, nhu cầu tự bộc lộ của bản thân, và
năng lực sáng tạo trong quá trình tiếp nhận.
Thông thường các giáo viên sẽ dùng lời dẫn để kéo học sinh nhập cuộc. Lời dẫn
của giáo viên càng hấp dẫn, mới mẻ, sáng tạo càng có khả năng nhanh chóng xác định
tâm thế sư phạm cho học sinh tập trung chú ý và có ý thức huy động hứng thú cá nhân

vào các bài học. Nếu trong lời dẫn tạo nên tình huống phản biện cho học sinh thì nó
sẽ vừa kích thích được sự tò mò vừa khơi dậy tính hiếu thắng trong tâm lí học sinh.
Vì vậy các em sẽ thoát nhanh ra khỏi ức chế ban đầu và tiếp nhận yêu cầu mới.
Với tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), chúng tôi đã đặt ra tình huống:
Cùng phải đối diện với những đau khổ bất hạnh của cuộc đời nhưng mỗi nhân vật
lại có cách ứng xử khác nhau: Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) quyết định hi
sinh chữ tình bảo vệ chữ hiếu, nàng bán mình để chuộc cha và em. Chị Dậu (Tắt đèn
– Ngô Tất Tố) phải bán con để có tiền nộp sưu cho chồng và em chồng (đã chết). Lão
Hạc (Lão Hạc – Nam Cao) phải bán cậu Vàng – đứa con tinh thần của lão – để có
tiền dành dụm cho con. Făng – tin (Những người khốn khổ - V.Huy gô) phải bán cả
răng và tóc để nuôi con. Và giờ đây, Chí Phèo (Nam Cao) để tồn tại được trong xã
hội thực dân nửa phong kiến tàn bạo phải bán cả nhân hình lẫn nhân tính. Theo em
nhân vật nào khổ nhất?
Trước tình huống đặt ra, chúng tôi luôn khuyến khích HS thể hiện quan điểm suy
nghĩ của mình. Từ đó để đi đến kết luận: Để có được những kết luận đầy đủ và chính
xác, chúng ta đi vào khám phá tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
Với cách mở bài này, mặc dù mỗi em một ý kiến, một quan điểm, dù cách giải
thích chưa thực sự thấu đáo, song điều quan trọng là chúng tôi đã tạo được cho các em
một không khí thoải mái để bắt đầu vào tiết học.
3.2. Sử dụng câu hỏi kích thích tư duy phản biện để tiếp cận văn bản
Tư duy phản biện có tính chủ động, do đó khi một người có tư duy phản biện họ sẽ
tự nảy ra câu hỏi, tự đi tìm các thông tin liên quan, quan sát, nhìn nhận, đánh giá vấn
đề hơn là học hỏi thụ động từ người khác. Cách đặt câu hỏi để kích hoạt tư duy phản
biện cũng chính là khả năng kích hoạt, mở rộng tư duy, từ đó có thể vận dụng các kiến
thức vào việc giải thích, phân tích, đánh giá, tổng hợp và cuối cùng là áp dụng. [5]
Đối với học sinh phổ thông, việc chủ động đặt ra câu hỏi phản biện là rất hạn chế,
vì vậy, trong quá trình thiết kế bài dạy của giáo viên phải thiết kế được những câu hỏi
tình huống, những câu hỏi có vấn đề để thúc đẩy học sinh suy nghĩ theo lối phản biện,
khêu gợi trong học sinh sự mong muốn tìm hiểu sự thật và trình bày quan điểm của
mình.

7


Để có thể sử dụng câu hỏi kích hoạt tư duy phản biện, chúng tôi đã tiến hành qua
các bước sau:
3.2.1. Bước 1. Xác định vấn đề phản biện
Để phát huy được năng lực phản biện của học sinh thì vấn đề đưa ra phản biện phải
thực sự hấp dẫn, mới mẻ, có tính phát hiện. Cụ thể:
- Những vấn đề đưa ra phản biện phải là những vấn đề gây tranh cãi, có những ý
kiến trái chiều, hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau.
- Những vấn đề đưa ra phản biện phải phát huy được khả năng huy động kiến thức
cũng như khả năng lập luận, lí giải, biện minh của học sinh.
Chẳng hạn, hình ảnh Lá trúc che ngang mặt chữ điền trong thi phẩm Đây thôn Vĩ
Dạ của Hàn Mặc Tử đã có rất nhiều tranh luận, là hình ảnh khuôn mặt của người con
trai hay người con gái. Hay hình ảnh Anh bạn dãi dầu không bước nữa (Tây Tiến –
Quang Dũng) gợi sự hi sinh hay miêu tả giấc ngủ của người lính trên con đường hành
quân gian nan, vất vả,…
Đối với văn bản “Chí Phèo” của Nam Cao, có rất nhiều vấn đề có thể sử dụng kĩ
năng phản biện, song chúng tôi chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau: Nhan đề của
truyện ngắn; Tiếng chửi của Chí Phèo (Chí Phèo say hay tỉnh); Bát cháo hành của thị
Nở; Cái chết của Chí Phèo,…
3.2.2. Bước 2. Thiết kế câu hỏi kích hoạt phản biện
Trong quá trình tư duy, câu hỏi kích hoạt phản biện rất quan trọng, có vai trò thúc
đẩy, kích thích suy nghĩ, khám phá theo những hướng rất riêng và cũng nhờ đó thôi
thúc chúng ta tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu, khám phá và mở rộng tri thức. Vì
vậy câu hỏi kích hoạt phản biện phải là những câu hỏi có vấn đề, kích thích được khả
năng tư duy, khơi gợi được hứng thú, sự mong muốn được tìm hiểu của học sinh.
Trong quá trình thiết kế câu hỏi phản biện cho bài dạy “Chí Phèo” (Nam Cao), chúng
tôi đã chú ý sử dụng những dạng câu hỏi sau:
3.2.2.1. Câu hỏi phản biện mang tính phân tích

Những câu hỏi dạng này yêu cầu học sinh phải đọc kĩ văn bản, tìm tòi các thông tin
có liên quan đến vấn đề và tiến hành phân tích từng khía cạnh của vấn đề. Khi đó, học
sinh sẽ có thể nhìn nhận một cách khách quan về bản chất và hiện trạng của thông tin
có được.
Trong dạng câu hỏi này chúng tôi đã đưa vào các từ khóa như: phân tích, so sánh,
kiểm tra, phân loại, nguyên nhân chính, mối quan hệ, phân biệt, đặc trưng, …
Dạng câu hỏi này tôi đã áp dụng khi phân tích ý nghĩa nhan đề và ý nghĩa tiếng
chửi của Chí Phèo.
* Nhan đề là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, là yếu tố đầu tiên của tác phẩm
mà người đọc được tiếp xúc, là một trong những yếu tố thể hiện tập trung cô đọng
nhất dụng ý nghệ thuật của tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.
8


Để giúp học sinh nhìn nhận rõ được ý nghĩa nhan đề của truyện ngắn Chí Phèo, tôi
đã đặt vấn đề để kích thích tư duy phản biện của các em như sau:
“Như chúng ta đã biết, trước khi có cái tên “Chí Phèo”, truyện ngắn đã mang hai
cái tên khác. Ban đầu, tác giả Nam Cao đặt là “Cái lò gạch cũ”. Khi xuất bản lần
đầu, nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên là “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi xuất bản lần 2
trong tập “Luống cày”, tác giả đã quyết định chọn “Chí Phèo”. Em hãy so sánh để
làm rõ ý nghĩa của từng nhan đề. Nếu là em, em sẽ lựa chọn nhan đề nào?
Với dạng câu hỏi này, HS biết cách trình bày quan điểm của mình theo tư duy phân
tích kết hợp với so sánh. Từ chỗ phân tích được ý nghĩa của nhan đề thì HS cũng sẽ
lựa chọn được một nhan đề phù hợp cho tác phẩm.
Và chúng tôi đã tổng hợp được ý kiến của học sinh như sau:
- Nhan đề “Cái lò gạch cũ”:
+ Phù hợp với bối cảnh không gian của truyện – làng Vũ Đại – xã hội nông thôn
Việt Nam xưa.
+ Là chi tiết nghệ thuật xuất hiện đầu và cuối tác phẩm. Ở đầu tác phẩm là nơi
Chí Phèo được sinh ra. Cuối là nơi con Chí Phèo sẽ chào đời. “Cái lò gạch cũ” gợi

ám ảnh về số phận bế tắc, cùng quẫn, không lối thoát của người dân cùng, phản ánh
quy luật nghiệt ngã trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám 1945 – “tre già măng mọc”.
- Nhan đề 2: “Đôi lứa xứng đôi”:
+ Gợi về câu chuyện tình yêu của Chí Phèo và thị Nở - con quỷ dữ của làng Vũ
Đại và người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn. Câu chuyện mang màu sắc lãng mạn, hấp
dẫn độc giả.
+ Nó gợi trí tò mò, hấp dẫn nhưng nó không bao quát được chủ đề tư tưởng của
tác phẩm.
- Nhan đề 3: “Chí Phèo”
+ Chí Phèo là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Mọi tình tiết, sự kiện đều xoay
quanh số phận bi kịch của nhân vật này: bi kịch của người nông dân lương thiện bị
tha hóa, lưu manh hóa, bị biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bi kịch của con
người sinh ra là người nhưng bị cự tuyệt quyền làm người, bi kịch của một sự thức
tỉnh quá muộn và phải trả giá bằng cái chết,…
+ Đặt nhan đề “Chí Phèo”, mọi sự chú ý sẽ tập trung vào nhân vật hơn. Vì vậy
chủ đề của truyện sẽ sáng rõ hơn.
Từ đó, chúng tôi kết luận: Nhan đề của một tác phẩm bao giờ cũng phải chở được
nội dung cơ bản nhất của tác phẩm, thể hiện được dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Và
“Chí Phèo” là một lựa chọn đúng đắn của nhà văn chân tài Nam Cao.
* Chi tiết nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất của tác phẩm
tự sự. Chi tiết trong tác phẩm tự sự có sức nặng như “nhãn tự” trong một bài thơ tứ
tuyệt. Vì vậy, khi phân tích tác phẩm tự sự theo đặc trưng thể loại, tìm được những chi
9


tiết đắt giá chúng ta đã có trong tay chìa khóa để mở ra thế giới nghệ thuật của tác
phẩm. Tuy nhiên, cảm nhận được ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật đòi hỏi HS không chỉ
phát hiện ra chi tiết mà còn phải có hứng thú với chi tiết đó, có năng lực tìm hiểu,
khám phá nó và cảm nhận được nó.
Khi hướng dẫn HS khám phá truyện ngắn “Chí Phèo”, trong đoạn văn mở đầu giới

thiệu về sự xuất hiện của nhân vật, để phát huy năng lực phản biện của HS, thay vì câu
hỏi “Chí Phèo chửi ai?”, “Chí Phèo chửi như thế nào?” “Tiếng chửi ấy có ý nghĩa
gì?”, tôi đã hỏi HS như sau:
- Về tiếng chửi của Chí Phèo, có ý kiến cho rằng: Đó là tiếng chửi vu vơ, vô thức
của những thằng say rượu. Có ý kiến lại khẳng định: Đây là tiếng lòng của một con
người đang đau đớn, bất mãn. Em hãy phân tích để làm rõ quan điểm của mình.
Và chúng tôi đã nhận được phản hồi từ phía học sinh:
HS 1: Đúng, tiếng chửi của Chí Phèo là tiếng chửi của một thằng say. Vì chính tác
giả viết “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Ngay khi hắn ở tù về, hắn đã
lao vào rượu. Hắn say. Những cơn say tràn từ ngày này sang ngày khác. Hắn ăn
trong say, ngủ trong lúc say và tỉnh dậy hãy còn say. Khi hắn đến nhà Bá Kiến, gọi
tận tên tục ra để chửi, hắn cũng say. Hắn trở thành tay sai cho lão Bá, cũng vì say. Và
hắn yêu thị Nở cũng trong lúc say.
HS 2: Chí Phèo say nhưng hắn không rơi vào trạng thái vô thức. Vì trong tiếng
chửi của Chí Phèo, đối tượng mà Chí Phèo chửi được sắp đặt một cách có hệ thống
(từ cao xuống thấp, từ xa đến gần, từ trừu tượng đến cụ thể: “Bắt đầu hắn chửi trời…
Rồi hắn chửi đời… Chửi ngay tất cả làng Vũ Đại… chửi cha đứa nào không chửi
nhau với hắn…”. Thoạt đầu Chí chửi vu vơ, sau đó thu hẹp dần đối tượng và cuối
cùng bất ngờ chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn...”. Hắn chửi người đẻ ra mình,
tức là chửi chính mình, chửi số kiếp mình…). Với Chí Phèo, chửi là một cách để giao
tiếp (kiểu giao tiếp của con quỷ dữ làng Vũ Đại). Hắn chửi liên tục, chửi với hi vọng
có ai đó chửi lại mình. Nhưng tín hiệu giao tiếp phát đi liên tục, lại chỉ gặp sự im lặng
đến đáng sợ. Chí Phèo đã rơi vào tình trạng hoàn toàn cô độc, không ai giao tiếp với
hắn dù là bằng hình thức thấp kém nhất: chửi nhau: “chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba
con chó dữ với một thằng say rượu”. Tiếng chửi đã thể hiện tâm trạng bi phẫn, bất
mãn, một trái tim đau đớn, vật vã, giằng xé, một tâm hồn tuyệt vọng khi bị xã hội khai
trừ, bị cự tuyệt quyền làm người.
HS 3: Chí Phèo không say, Chí Phèo rất tỉnh táo. Có tỉnh, Chí Phèo mới nhận thức
rõ được nỗi đau cuộc đời mình, nhận rõ kẻ thù của đời mình. Trong cái xã hội “quần
ngư tranh thực” ấy, có rất nhiều cường hào ác bá, sao Chí Phèo lại chỉ tìm đến Bá

Kiến.
HS 4: Tiếng chửi không chỉ hé mở tình trạng bi đát của thân phận Chí Phèo mà
còn góp phần thể hiện được tài và tâm của tác giả. Tài trong ngôn ngữ kể chuyện - đa
giọng điệu: ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, ngôn ngữ của người kể chuyện
10


hòa lẫn vào ngôn ngữ của nhân vật, tạo ra ngôn ngữ nửa trực tiếp. Tâm trong cảm
xúc: nhà văn như đã hóa thân vào nhân vật, đồng cảm và nói hộ nỗi đau của thân
phận Chí Phèo. Đằng sau giọng điệu lạnh lùng kia là cả một trái tim trĩu nặng yêu
thương của Nam Cao dành cho nhân vật.
3.2.2.2. Câu hỏi phản biện mang tính đánh giá
Những câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải xây dựng các lập luận để bảo vệ cho
những quan điểm của mình trước những phê phán, chỉ trích. Các lập luận này phải dựa
trên các tiêu chí đánh giá rõ ràng, phù hợp với góc nhìn khách quan nhất. Trong dạng
câu hỏi này, có thể đưa vào các từ khóa như: đánh giá, kết luận, quan điểm, quyết
định, nhận thấy, …
Khi phân tích nhân vật Chí Phèo, chúng tôi định hướng cho HS tìm hiểu về
nguyên nhân tha hóa của nhân vật Chí Phèo. Về cơ bản, các em đề xuất mấy nguyên
nhân: do cái ghen của Bá Kiến khiến Chí đi tù; do nhà tù thực dân phong kiến; do sự
lợi dụng của Bá Kiến đã biến Chí thành tay sai cho hắn; do sự lạnh lùng, vô cảm
(phân biệt đối xử) của người dân làng Vũ Đại. Các em đã tập trung phân tích khá kĩ
những nguyên nhân trên.
Tuy nhiên, một HS xin phép có ý kiến thêm rằng: “Theo em, Chí Phèo tha hóa là
do hắn”.
Và HS đã thuyết phục về quan điểm của mình như sau:
Quá trình tha hóa của Chí Phèo diễn ra ở hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: từ anh nông dân lương thiện thành thằng du côn liều lĩnh - vì
cơn ghen của Bá Kiến - nhà tù phong kiến thực dân.
Giai đoạn thứ hai: từ thằng du côn liều lĩnh thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại –

do chính hắn. Trước những lời ngọt nhạt, những thủ đoạn thâm hiểm của cụ Bá –
không trị được thì dùng – Chí Phèo như đứng trước một sự lựa chọn: vào hoặc không
vào nhà Bá Kiến. Nếu không vào, Chí Phèo có thể sẽ khác. Chí Phèo đã chọn vào,
đồng nghĩa Chí Phèo đã thỏa hiệp với Bá Kiến. Mục đích ăn vạ cụ Bá của Chí Phèo
đã không những không đạt được mà từ đây Chí Phèo còn dần dần trở thành tay sai
của cụ Bá, trở thành kẻ thù của người dân lương thiện”.
Đây thực sự là một phát hiện mới theo điểm nhìn của học sinh. Đúng là Chí Phèo
tha hóa một phần do chính hắn. Hay nói cách khác, Chí Phèo đã phải lựa chọn con
đường tha hóa cho mình (chọn cách còn lại thì Chí Phèo vẫn tha hóa nhưng có thể
theo mức độ, hình thức khác thôi). Đến bị tha hóa mà cũng phải lựa chọn thì ôi thôi,
người nông dân còn gì đau đớn, xót xa hơn nữa, cùng cực hơn nữa? Những trăn trở
của Nam Cao quả là sâu sắc, giàu chất nhân văn. Cách cảm nhận này cũng phù hợp
với tư tưởng của Nam Cao, một nhà văn luôn “trăn trở, đau đớn trước tình trạng con
người không giữ nổi nhân tính, nhân phẩm vì miếng cơm manh áo và cái chất hèn,
chất nô lệ đã thấm vào trong máu không biết từ kiếp nào”.
11


Khi tìm hiểu về hình ảnh “bát cháo hành” của thị Nở, học sinh cũng đã có những
cảm nhận khá thú vị khi chúng tôi đặt ra vấn đề:
Có bạn đã cho rằng: Bát cháo hành của thị Nở - chỉ là một bát cháo xoàng có gì
ngon đâu. Nó chỉ giúp Chí Phèo tạm thời đỡ đói sau trận thổ mà thôi. Quan điểm của
em thế nào?
Đã có khá nhiều em bày tỏ suy nghĩ của mình, song chúng tôi đặc biệt ấn tượng
với câu trả lời của HS Dương Thị Linh (HS 11A4):
Trước hết, em đồng ý với bạn. Cháo hành xoàng xĩnh, không ngon và giúp Chí
Phèo lót bụng khi đói. Nhưng em không đồng ý với cách bạn khẳng định “chỉ là”.
Một bát cháo loãng cùng vài lát hành ai cũng có thể nấu được. Nhưng với Chí Phèo
nó ý nghĩa lắm. Bởi lâu nay, đâu có ai quan tâm hắn ăn gì, cần gì, muốn gì. Để có cái
ăn, để tồn tại, hắn phải cướp bóc, dọa nạt, ăn vạ, phải hủy hoại cả nhân hình lẫn

nhân tính của mình. Kể cả trước kia, khi hắn thường xuyên được bà ba gọi lên để hầu
hạ, một thằng canh điền được hầu hạ bà chủ, vinh dự lắm thay nhưng với hắn “nhục
chứ thích thú gì”, đó là lúc hắn bị bóc lột, bị tước đoạt danh dự, nhân cách. Lúc ấy,
hắn là một anh canh điền “hiền như cục đất”. Giờ đây, khi hắn ốm, thị Nở nấu cháo
mang sang cho hắn. Dù xoàng xĩnh nhưng đây là lần đầu tiên hắn được một người
đàn bà cho. Hắn ngạc nhiên “hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt”.
Trong lòng Chí trào dâng bao cảm xúc của con người: “bâng khuâng”, “vừa vui vừa
buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Hắn sám hối vì những việc mình đã
làm trong hai mươi năm qua. Lần đầu tiên trong đời hắn thấy cháo hành ăn rất ngon.
Hình như cũng là lần đầu tiên trong đời hắn ăn cháo hành. Cái cảm giác ngon ấy,
theo em, không phải là bởi cháo ngon mà là ngon trong cảm giác, ngon trong cảm
nhận. Thị Nở đã giúp anh cảm nhận được hương vị của tình yêu, tình bạn, tình mẹ.
Chí thấy “lòng thành trẻ con…muốn làm nũng với thị như với mẹ”, cũng khao khát
được yêu thương, chăm sóc. Và một câu hỏi rất hệ trọng đã day dứt lương tâm anh:
“Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây kẻ thù”. Thị Nở bằng một bát cháo hành đã
đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn
muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Đó chính là
khát vọng được hoàn lương. Làm sao có thể là xoãng xĩnh khi bát cháo ấy không chỉ
là liều thuốc giải cảm, mà còn là liều thuốc giải độc tâm hồn cho Chí Phèo.
Cũng liên quan đến nhân vật thị Nở, để giúp cho HS có cái nhìn chân thực và toàn
diện về nhân vật cũng như nghệ thuật của Nam Cao khi xây dựng chân dung nhân vật
này, chúng tôi đã đặt vấn đề:
- Nhiều người phê phán Nam Cao là tự nhiên chủ nghĩa, là quá trớn khi mô tả Thị
Nở xấu đến ma chê quỷ hờn. Quan điểm của em như thế nào ?
Điều thú vị, trong tiết học ấy, thay vì trả lời câu hỏi của GV, đã có HS phản biện lại
ngay tức khắc (Phạm Tô Đan Trường): Đẹp là cái quyền của con người. Và nhà văn
cũng có quyền tạo cho nhân vật của mình đẹp. Sao lại cứ nhất thiết phải xấu đến
12



nhường ấy? Em nghĩ nhà văn nên để thị Nở được có quyền đẹp. Em thích những cô
gái đẹp.
Với câu hỏi này, qua hoạt động tranh luận của học sinh để giáo viên định hướng về
thành công nghệ thuật của Nam Cao: Với truyện ngắn Chí Phèo, thị Nở càng xấu,
truyện càng hay. Hay không phải vì xấu, mà thị Nở xấu đến tột bậc, thế mà Chí Phèo
cũng không lấy được, thì bi kịch mới càng sâu sắc. Cũng không phải vô cớ tác giả trút
vào thi tất cả những nét mỉa mai nhất của hóa công dành cho người đàn bà. Thị xấu,
nghèo, lại dở hơi, có mả hủi ! Tất cả những thứ ấy đã biến thị thành một thứ phế thải,
vô giá trị. Nhưng ở cái con người vô giá trị ấy lại có một thứ tài sản vô giá: tình
người. Đây là dụng công nghệ thuật của Nam Cao, thể hiện rõ phong cách văn Nam
Cao – bề ngoài lạnh lùng, tỉnh táo nhưng bên trong ấm áp tình yêu thương. Và đó
cũng là yếu tố tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
3.2.2.3. Câu hỏi mang tính ứng dụng
Đây là dạng câu hỏi yêu cầu học sinh nắm chắc kiến thức đã biết và có thể ứng
dụng, sử dụng kiến thức đã có vào những tình huống cụ thể, đặc biệt là trong một ngữ
cảnh mới. Trong dạng câu hỏi này, có thể đưa vào các từ khóa như: áp dụng, ứng
dụng, giả sử, đề xuất, dự đoán,…
Chẳng hạn, khi phân tích sự hồi sinh của Chí Phèo, để giúp học sinh hiểu được giá
trị nhân đạo sâu sắc trong ngòi bút của nhà văn Nam Cao, giáo viên có thể đặt ra một
tình huống để kích hoạt năng lực phản biện của học sinh để có thể áp dụng vào thực
tế. Cụ thể:
- Giả sử, Chí Phèo không gặp Thị Nở, theo em điều gì sẽ xảy ra?
Hoặc khi phân tích nỗi đau tuyệt vọng của Chí Phèo trong bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người, để giúp học sinh nhận thức đúng bản chất của hành động giết người tự sát
và bản chất của bi kịch, giáo viên có thể đặt ra câu hỏi:
- Về hành động đâm chết Bá Kiến rồi tự sát của Chí Phèo, có nhiều ý kiến đánh
giá khác nhau:
+ Chí Phèo hành động như vậy là vì say, không làm chủ được hành động của bản
thân.
+ Chí Phèo hành động như vậy là vì mối hận thù trong lòng bùng cháy.

+ Chí Phèo buộc phải chết vì hắn đã cùng đường, bế tắc, không có lối thoát.
Ý kiến của em như thế nào. Hãy thử đề xuất một kết thúc khác cho nhân vật.
Trong trường hợp này, học sinh được tự do trình bày suy nghĩ của mình và tranh
luận.
Cứ tương tự như vậy, chúng tôi đã tạo cho lớp học một không khí dân chủ thoải
mái, và học sinh cũng thấy được quan điểm, suy nghĩ của mình được tôn trọng, được
lắng nghe.
3.2.2.4 Câu hỏi phản biện mang tính củng cố, nâng cao
13


Sau khi học xong văn bản Chí Phèo (Nam Cao), chúng tôi có hỏi: trong ba nhân
vật lão Hạc, chị Dậu và Chí Phèo, theo em nhân vật nào đáng thương nhất.
Thật bất ngờ khi nhận được rất nhiều câu trả lời khác nhau:
Ý kiến 1: Lão Hạc đáng thương nhất
Ý kiến 2: Chị Dậu đáng thương nhất.
Ý kiến 3: Chí Phèo đáng thương nhất
Ý kiến 4: Ai cũng đáng thương
Trước những luồng ý kiến khác nhau đó, chúng tôi đã tổ chức phản biện theo hình
thức hợp tác nhóm.
3.2.3. Bước 3. Tổ chức cho học sinh tranh luận, phản biện
Đây là khâu quan trọng nhất của giờ học theo hướng phát triển năng lực phản biện.
Lúc này học sinh sẽ trình bày quan điểm của mình trước tập thể và quan trọng hơn là
các em trực tiếp đối thoại với các bạn học sinh khác để bảo vệ quan điểm của mình.
Học sinh sẽ đưa ra hàng loạt những lí lẽ, dẫn chứng và sắp xếp chúng theo một trật tự
hợp lí để thuyết phục những người khác tán đồng quan điểm với mình. Cũng trong
hoạt động này, học sinh có thể sẽ phải trả lời những câu hỏi do các bạn khác đặt ra.
Điều này đòi hỏi các em phải có một thói quen tư duy biện chứng rõ ràng, khả năng
ứng biến mau lẹ trước các tình huống phát sinh, và tất nhiên là phải hiểu về tác phẩm
văn học một cách tường tận. Hơn thế học sinh còn cần phải biết cách quan sát, đánh

giá thái độ của những người nghe xung quanh mình để điều chỉnh ngữ điệu, thái độ,
lời văn... cho phù hợp. Thiết nghĩ con đường này sẽ cho học sinh nhiều bài học để
trưởng thành hơn cả về trong tri thức lẫn cuộc sống.
Trong quá trình tổ chức học sinh phản biện, giáo viên phải làm tốt vai trò là người
tham dự - chia sẻ hoặc có khi phải làm trọng tài nếu cuộc “khẩu chiến” vượt ra khỏi
khuôn khổ quy định. Trên thực tế đây là lúc giáo viên thu nhận được nhiều thông tin
phản hồi nhất. Giáo viên vừa có thể nắm bắt được mức độ hiểu bài của học sinh để
xem xét các biểu hiện lệch lạc nhằm kịp thời uốn nắn, vừa quan sát được thái độ, hứng
thú học tập của các em.
Việc tổ chức tranh luận này không nhất thiết là hình thức tranh luận theo nhóm. Có
thể sử dụng cách tranh luận giữa các cá nhân học sinh với nhau, hoặc tranh luận giữa
giáo viên và học sinh. Chẳng hạn trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức của bài học,
ở một trường hợp nào đó, giáo viên khéo léo, cố ý nói sai vấn đề, hoặc dẫn một ý kiến
nào đó chưa thỏa đáng để học sinh phát hiện ra và tranh luận. Nếu một lần học sinh
chưa phát hiện ra thì có thể cố tình nhấn mạnh điểm sai thêm lần nữa. Nếu vài ba lần
học sinh vẫn chưa phát hiện được thì giáo viên gợi khéo: hình như có vấn đề gì đó
chưa ổn ở đây, các em có thấy thế không? Như thế sẽ lôi kéo học sinh phát hiện vấn
đề. Khi học sinh phản biện đúng, có sức thuyết phục thì công nhận, bổ sung vào bài
học, coi đó như là công lao, phát hiện mới mẻ, sáng tạo của học sinh.
14


Trong quá trình tổ chức phản biện sẽ có nhiều tình huống nảy sinh, vì vậy trong
quá trình thiết kế bài dạy, giáo viên nên có sự dự kiến tình huống và cách xử lí, tránh
để rơi vào tình trạng bị động. Giáo viên cũng cần phải có kiến thức vững vàng để lí
giải những khúc mắc cho học sinh một cách thấu đáo. Nhất là phải có quan điểm rõ
ràng: đồng tình hay phản đối, đúng hay sai...
Và điều quan trọng là sau mỗi lần phản biện GV nên chốt lại ý trọng tâm để học
sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến thức.
3.3. Phát huy vai trò nhóm trong phản biện

Đây là biện pháp chúng tôi sử dụng kết hợp với hình thức câu hỏi mang tính
củng cố, khái quát, nâng cao vấn để đã được nhắc đến ở mục 3.2.2.4. Cụ thể:
3.4.1. Bước 1: Hình thành nhóm. Nhóm này bao gồm những em có cùng quan điểm.
Giáo viên tuyệt đối không lựa chọn mà để các em tự quyết định mình.
3.4.2. Bước 2: Làm việc theo nhóm: các em thảo luận, làm việc cùng nhau để tìm ra
các ý phản biện và sắp xếp chúng theo một trật tự lôgic. Ở bước này các em không chỉ
học tập kiến thức, ghi nhớ bài học mà còn học tập được phương pháp làm việc theo
nhóm sao cho hiệu quả nhất. Tất nhiên, giáo viên sẽ phải quan sát tổng thể quá trình
làm việc của từng em, nếu không sẽ xảy ra tình trạng chỉ có một vài học sinh khá
trong nhóm làm việc, số còn lại thì “ngồi chơi xơi nước”.
3.4.3. Bước 3: Trình bày phản biện: Các nhóm cử đại diện trình bày vấn đề mà mình
đã chọn. Sau khi trình bày, các bạn trong nhóm khác có thể nêu câu hỏi yêu cầu được
giải đáp.
3.4.4. Bước 4: Giáo viên và học sinh cùng chốt lại vấn đề trọng tâm.
Và đây là kết quả chúng tôi đã nhận được sau khi cho HS thảo luận và tranh luận:
Nhóm 1: - Lão Hạc đáng thương nhất, bởi theo bạn: "Chị Dậu khổ nhưng bên
cạnh chị vẫn còn con, còn chồng để lo để thương, để chăm sóc.
Chí Phèo ít ra còn có Thị Nở là niềm vui, là mong ước. Còn lão Hạc, lão chẳng có
gì ngoài nỗi cô đơn bủa vây và đói nghèo cay đắng. Đến cả cậu Vàng, là người bạn
tâm tình duy nhất cũng phải rời xa lão. Lão sống trong cực khổ, chết trong đớn đau.
Cuộc đời chưa từng một giây phút yên bình. Như vậy chẳng phải khổ nhất hay sao?"
Nhóm 2: - Chị Dậu là người khổ nhất, đáng thương nhất, Vì lão Hạc chết rồi sẽ
được giải thoát, nếu con lão về thì vẫn được tiền lão để lại. Chí Phèo cũng đã được
hưởng cảm giác yêu thương nên khi chết sẽ chẳng còn gì lưu luyến. Còn chị Dậu chết
sẽ không có ai nuôi chồng con, vì thế mà không thể chết được.
Nhóm 3: - Chí Phèo khổ nhất. Chị Dậu tuy bị xã hội bóc lột tàn nhẫn, nhưng chị
vẫn còn được làm người, còn gia đình, còn cái làng yêu thương chị. Lão Hạc tuy
nghèo nhưng lương thiện, ông còn đạo đức, còn lối sống nhiều người ngưỡng mộ, cái
chết của ông trong sạch. Còn Chí Phèo là mất nhân hình lẫn nhân tính, sống và chết
đau đớn, không ai quan tâm, cả Thị Nở cũng bỏ. Không được coi là người mới là đau

đớn nhất.
15


Nhóm 4: - Ai cũng đáng thương, họ đều là những người nông dân phải sống trong
xã hội phong kiến đầy bất công, đau khổ. Mỗi người đều có một hoàn cảnh khác
nhau, một nỗi khổ khác nhau.
Từ những ý kiến của học sinh, chúng tôi đã định hướng cho các em: Khó có thể
khẳng định được rằng ai là người khổ nhất trong 3 nhân vật. Mỗi người có một nỗi
khổ riêng, gộp 3 hoàn cảnh lại chúng ta có thể nhìn thấy được thực trạng xã hội thực
dân nửa phong kiến của nước ta giai đoạn 1930 - 1945. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh
của từng nhân vật để thấu hiểu nỗi khổ, suy nghĩ và tâm trạng của từng nhân vật để
tìm ra câu trả lời cho riêng mình.
3.4. Xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát triển năng lực phản biện.
Năng lực phản biện không thể có ngay lập tức mà cần đến một quá trình. Vì vậy
cần cho học sinh thường xuyên luyện tập. Với hệ thống bài tập về nhà hoặc đổi mới
hình thức kiểm tra, việc rèn luyện và phát triển năng lực phản biện cho học sinh sẽ có
kết quả cao hơn. Việc chuẩn bị bài của học sinh hiện nay còn mang tính đối phó. Các
em thường chép theo các sách hướng dẫn học bài, thậm chí không cần đọc văn bản mà
vẫn có thể soạn bài. Vì vậy giáo viên nên có một số bài tập cho cả 2 giai đoạn, trước
và sau khi đọc hiểu văn bản. Giáo viên cũng có thể dựa vào những câu trả lời của học
sinh để so sánh mức độ hiểu bài của các em ở những giai đoạn khác nhau. Hệ thống
bài tập không cần nhiều, có khi chỉ cần một vài bài với các dạng thức khác nhau như:
bài tập trình bày một vấn đề, giải thích một vấn đề, tìm dẫn chứng cho luận điểm, sắp
xếp các ý... Hoặc cao hơn có thể yêu cầu các em hoàn thiện một đề tài khoa học nhỏ.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá là yêu cầu bức thiết hiện nay. Mấy năm gần đây luôn
có những dạng đề mới khích thích hứng thú sáng tạo và khả năng phản biện của học
sinh. Vì vậy, sau khi tổ chức HS tiếp nhận kiến thức trên lớp, chúng tôi luôn chú trọng
thiết kế các dạng bài tập nhằm củng cố, nâng cao năng lực cũng như kĩ năng phản biện
cho HS.

Đối với văn bản “Chí Phèo”, chúng tôi đã thiết kế một số dạng bài tập sau:
3.3.1 Bài tập phản biện ở cấp độ chi tiết
Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu cảm nhận và đánh giá về một hoặc hoặc vài chi tiết
hay, đặc sắc trong tác phẩm văn học, thường là tác phẩm văn xuôi. Trong đó, có trình
bày ý kiến riêng, có tham gia tranh luận với những ý kiến khác, phản biện vấn đề
nhằm đưa ra giá trị thực sự của chi tiết nghệ thuật.
Ví dụ:
Nhận xét về chi tiết giọt nước mắt của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của
Nam Cao, có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nước mắt Chí Phèo giống như tấm bản lề
khép mở 2 tâm trạng, 2 giai đoạn của cuộc đời nhân vật”. Ý kiến khác lại khẳng
định:“Hình ảnh nước mắt Chí Phèo là sự cộng hưởng của những trái tim yêu
thương”
Từ truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao), anh/ chị hãy bình luận về hai ý kiến trên.
16


3.3.2 Bài tập phản biện ở cấp độ hình tượng
Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu cảm nhận và đánh giá về một hoặc hoặc vài hình
tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Trong đó, có trình bày ý kiến riêng, có tham
gia tranh luận với những ý kiến khác, phản biện vấn đề nhằm đưa ra giá trị thực sự của
hình tượng nghệ thuật.
Ví dụ 1:
Đánh giá về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, có
ý kiến cho rằng: “Chí Phèo vừa là một gã mất trí, vừa là đầu óc sáng sủa nhất của
làng Vũ Đại”.
Bằng những hiểu biết về tác phẩm Chí Phèo, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Ví dụ 2:
Đọc Chí Phèo của Nam Cao, có ý kiến cho rằng: “Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch
bị cự tuyệt quyền làm người”, lại có ý kiến khẳng định: “Bi kịch của Chí Phèo, hơn
thế, còn là bi kịch con người tự từ chối quyền làm người.”

Qua truyện ngắn Chí Phèo anh chị hãy bình luận hai ý kiến trên.
Để giúp HS thể hiện được quan điểm, chính kiến của mình, hay nói cách khác là
phát huy được năng lực phản biện trong bài tập làm văn, khâu đầu tiên là HS phải
định hướng được trọng tâm của đề và xây dựng được dàn ý cho bài viết.
3.4. Kết hợp sử dụng sơ đồ tư duy
Một trong những yêu cầu quan trọng của dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn
nói riêng là cần phải biết phối hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy học, các kĩ thuật
dạy học hiện đại. Hơn thế, để học sinh trình bày được quan điểm của mình một cách
thấu đáo, khoa học, logic, chúng tôi đã vận dụng tích hợp với phương pháp sử dụng sơ
đồ tư duy để hướng dẫn HS lập dàn ý. Đây cũng là kết quả SKKN “Sử dụng sơ đồ tư
duy trong dạy học lập dàn ý bài văn nghị luận” của cá nhân tôi.
Sau đây là một ví dụ về việc sử dụng sơ đồ tư duy để lập dàn ý cho bài tập vận
dụng nhằm phát triển năng lực phản biện của HS.
Nhận xét về chi tiết giọt nước mắt của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của
Nam Cao, có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nước mắt Chí Phèo giống như tấm bản lề
khép mở 2 tâm trạng, 2 giai đoạn của cuộc đời nhân vật”. Ý kiến khác lại khẳng định:
“Hình ảnh nước mắt Chí Phèo là sự cộng hưởng của những trái tim yêu thương.”
Bằng hiểu biết về tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), anh/ chị hãy bình luận về hai ý
kiến trên.
Để phát huy vai trò của giải pháp, tôi hướng dẫn học sinh theo từng bước sau đây:
3.4.1. Bước 1: HS phân tích yêu cầu của đề
- Nội dung nghị luận: Chi tiết nghệ thuật “giọt nước mắt”
- Hình thức: + nghị luận về ý kiến bàn về văn học.
+ Thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, bình luận
17


- Phạm vi nghị luận: Truyện ngắn “Chí Phèo” – chi tiết giọt nước mắt của nhân vật
Chí Phèo khi được nhận bát cháo hành của thị Nở.
3.4.2. Bước 2: Lập dàn ý

- Tấm bản lề: Hình ảnh ẩn dụ để nói đến điểm chuyển tiếp quan trọng của một
cuộc đời, một số phận, hoặc một sự kiện nào đó
- Sự cộng hưởng của trái tim giàu yêu thương: sự tích hợp, gặp gỡ của những
tâm hồn giàu cảm xúc.
Con quỷ dữ
U mê, tăm tối
Hai giai
đoạn

Tấm bản lề

Cô độc, vật vã trong
đớn đau
Hai tâm
trạng

Giọt
nước
mắt
Chí
Phèo

Con người: Thức tỉnh,
khao khát hoàn lương

Hạnh phúc, xúc động
trong yêu thương

Trái tim đầy trắc ẩn của Nam Cao
(phát hiện, nâng niu, ngợi ca)

Sự cộng
hưởng của
trái tim giàu
yêu thương

Trái tim tin yêu không toan tính của
Thị Nở (khơi dậy và thắp sáng)
Trái tim khát khao hoàn lương, muốn
làm hòa với mọi người của Chí Phèo

- Hai ý kiến không đối lập mà thống nhất, khẳng định giá trị lớn của một chi tiết
nhỏ.
- Giọt nước mắt là hiện thân của tình người, những giọt tính người trong trẻo nhất.
Từ đó, tác giả muốn khẳng định ngay cả những con người tưởng chừng đã bị huỷ
hoại đến tận cùng nhân hình nhân tính vẫn tồn tại cảm xúc và khát vọng rất
“người”. Tình yêu thương sẽ làm bản chất tốt đẹp ấy toả sáng.
18


3.4.3. Trình bày phản biện
Tóm lại, trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng, thường xuyên đặt
câu hỏi, kích hoạt tư duy phản biện phản biện của HS, sẽ giúp HS không ngừng vận
động, khai phá tri thức để giải quyết một cách thấu đáo, khoa học các vấn đề trong học
tập cũng như trong cuộc sống.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một thời gian tiến hành nhiều phương pháp dạy học khác nhau để phát triển
năng lực phản biện cho học sinh ở đơn vị công tác, bước đầu tôi đã có những kết quả
khả quan. Giáo viên chúng tôi đã không phải làm việc hết công suất. Trong khi các em
HS có cơ hội được bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, cảm nhận của mình đối với tác phẩm.
Khả năng giao tiếp, trình bày của các em có sự tiến bộ rõ rệt. Khả năng lập luận của

các em càng ngày càng chặt chẽ. Các lí lẽ cũng sắc sảo hơn. Kết quả của những bài
kiểm tra ở dạng đề nhằm phát huy năng lực phản biện cho học sinh ngày một nâng
lên. Đặc biệt là không khí các giờ học văn luôn rất hào hứng, sôi nổi. Ngay cả một số
em nhút nhát, ít nói thì nay cũng có phần mạnh dạn hơn. Đây là một tín hiệu vui cho
dạy học văn hiện nay.
Để kiểm nghiệm hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã tiến hành dạy bài Chí
Phèo ở hai lớp, một lớp có sử dụng phương pháp nhằm nâng cao năng lực phản biện
cho HS, một lớp không dùng. Và kết quả tôi nhận được như sau:
Bảng so sánh hứng thú học tập của học sinh:
Lớp 11A2 – Không sử dụng phương pháp nâng cao năng lực phản biện
Mức độ
Không hứng thú
Có hứng thú
Rất hứng thú
Lớp
SL
%
SL
%
SL
%
11A2
20
44
17
38
8
18
Lớp 11A4 – Sử dụng phương pháp nâng cao năng lực phản biện
Mức độ

Không hứng thú
Có hứng thú
Rất hứng thú
Lớp
SL
%
SL
%
SL
%
11A4
05
11
15
33
25
56
Bảng so sánh kết quả học tập trong hai năm học:
Lớp 11A2 – Không sử dụng phương pháp nâng cao năng lực phản biện
M. độ
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Lớp
SL
%
SL
%

SL
%
SL
%
SL
%
11A2
0
10
22
25
56
10
22
Lớp 11A4 – Sử dụng phương pháp nâng cao năng lực phản biện
M. độ
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Lớp
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

SL
%
11A4
2
4
25
56
15
33
3
7
0
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
19


1. Kết luận
Sau khi sử dụng một số giải pháp để nâng cao năng lực phản biện cho học sinh,
chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1.1. Văn học bắt rễ từ cuộc đời thực, được phản ánh qua lăng kính chủ quan của người
cầm bút. Và khi bước ra cuộc đời thực, tác phẩm văn học lại được tiếp nhận qua nhiều
góc độ khác nhau với những thế giới quan, nhân sinh quan khác biệt. Chính vì vậy, đôi
khi giá trị của tác phẩm vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính nhà văn. Mỗi người có
một cách nhìn nhận, đánh giá, bình luận, cảm thụ riêng.
1.2. Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản văn học là
điều cấp thiết và khả thi. Phản biện là năng lực mang lại nhiều lợi ích trong các lĩnh
vực chuyên môn học thuật và ứng dụng cuộc sống. Năng lực phản biện không phải tự
nhiên mà có, mà là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện. Nhà trường thông qua các
môn học, nhất là môn Ngữ Văn, tích cực rèn luyện kĩ năng này cho học sinh để các
em chuẩn bị tốt hành trang cho cấp học cao hơn.

1.3. Rèn luyện năng lực phản biện cho HS qua giờ đọc hiểu văn bản văn học là góp
một phần quan trọng vào việc đổi mới phương pháp dạy học đối với bộ môn Ngữ văn
nói riêng và cải tiến nền giáo dục của nước nhà nói chung. Đồng thời, đào tạo những
con người năng động, sáng tạo, chủ động, tự tin, dám nghĩ, dám làm, dám thể hiện
mình.
2. Đề xuất
Để phát huy tốt những giải pháp nhằm nâng cao năng lực phản biện cho học sinh
qua giờ học Ngữ văn, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
2.1. Đối với nhà trường:
Nên đa dạng hóa các hoạt động học tập: tổ chức các sân chơi, các hoạt động ngoại
khóa,các cuộc thi,… để học sinh có cơ hội được thể hiện năng lực của mình.
2.2. Đối với giáo viên
- Năng lực phản biện cần được rèn luyện có phương pháp, kĩ thuật. Giáo viên nên
áp dụng linh hoạt và kết hợp chúng cùng các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại
khác để đem lại hiệu quả tốt nhất.
- Phải thiết kế được câu hỏi phản biện khoa học, có tính ứng dụng cao, khai thác
được khả năng tư duy của học sinh.
- Cần có suy nghĩ và cách nhìn mới về khả năng phản biện của học sinh (kiên nhẫn
lắng nghe, không cau có, khó chịu, quan trọng là phải tôn trọng sự khác biệt)
- Để phát huy được năng lực phản biện của HS, GV cần phải xem việc rèn luyện kĩ
năng phản biện cho HS là việc làm thường xuyên, không được làm nửa vời.
- GV không chỉ là người thiết kế, cố vấn phản biện mà còn phải đóng vai trò là
trọng tài của các cuộc tranh luận. Tối kị nhất trong phản biện là không đưa ra được
một kết luận nào.
2.3. Đối với học sinh
20


Để có thể phát huy tốt năng lực phản biện, học sinh cần:
- Có tri thức sâu rộng về vấn đề mình đang bàn đến. Muốn vậy, phải phát huy cao

độ tinh thần tự học, tự nghiên cứu bài ở nhà.
- Có niềm tin mạnh mẽ vào tính đúng đắn, sức thuyết phục của lẽ phải trong lập
luận của mình, có đủ dũng khí để không ngại ngùng khi va chạm và nói lên quan điểm
của mình.
- Có nhiệt tình, tâm huyết với môn học, giờ học và đặc biệt là có kĩ năng thuần
thục được tôi luyện qua thử thách cùng văn học trong quá trình dài.
Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra trong quá trình giảng dạy,
tất nhiên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chân thành của
lãnh đạo cấp trên và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được đầy
đủ và hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 5 năm 2017
Người thực hiện
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Bích Thủy

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Thành Thi - Cần rèn luyện năng lực phản biện trong học tập cho học sinh,
sinh viên. Tạp chí khoa học văn hóa và du lịch, số 13, tháng 9 năm 2013.
21


[2]. Đỗ Hữu Quang - Giờ học đối thoại, con đường giải quyết mọi nghịch lí trong dạy
học văn”. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 6/1995
[3]. Hoàng Thế Mĩ - “Thuyết trình và thảo luận, một hình thức học tập tác phẩm văn

chương”. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 8/1987.
[4]. Bùi Thế Nhưng - Khả năng phản biện của học sinh THPT trong học Văn.
https:://hocthenao.vn, 08/5/2013
[5]. Tham khảo một số tài liệu trên Internet
- Nguồn
- Nguồn tailieu.vn
- Nguồn tailieuhoctap.vn

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
22


Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Bích Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: TTCM – Trường THPT Đặng Thai Mai
Kết quả
Cấp đánh
TT
Tên đề tài SKKN
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
1. Sử dụng sơ đồ bảng biểu trong dạy Sở GD&ĐT
C
học phân môn tiếng Việt ở trường Thanh Hóa
THPT Đặng Thai Mai
2. Sử dụng câu hỏi có vấn đề trong giờ Sở GD&ĐT
B

dạy tác phẩm văn chương
Thanh Hóa
3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Sở GD&ĐT
C
lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội Thanh Hóa

Năm học
đánh giá xếp
loại
2002-2003

2004-2005
2014-2015

23



×