Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hiệu quả của phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy tin học ở trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.9 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG PT NGUYỄN MỘNG TUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
TRONG GIẢNG DẠY TIN HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

Người thực hiện: Lê Thị Thanh Huyền
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Tin học

THANH HÓA NĂM 2016


MỤC LỤC
Thứ tự
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14


15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25

Nội dung
1. Mở đầu
- Lí do chọn đề tài
- Mục đích nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp cụ thể
2.3.1.1. Giải pháp 1: Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
2.3.1.2. Giải pháp 2: Lựa chọn vấn đề thảo luận và giao
nhiệm vụ
2.3.1.3. Giải pháp 3: Chia nhóm, bố trí chỗ ngồi
2.3.1.4. Giải pháp 4: Thảo luận nhóm
2.3.1.5. Giải pháp 5: Tiếp nhận thông tin phản hồi từ phía học

sinh
2.3.1.6. Giải pháp 6: Tổng kết, rút kinh nghiệm thảo luận
nhóm
2.3.2. Rèn luyện kỹ năng qua một số bài học
2.3.2.1. Bài học 1
2.3.2.2. Bài học 2
2.3.2.3. Bài học 3
2.3.2.4. Bài học 4
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
3
3
3
4
5
5
5
6
7
7

7
7
8
9
11
13
14
16
16
16


DANH MỤC VIẾT TẮT
1. SGK: Sách giáo khoa
2. HS: Học sinh
3. PT: Phổ thông
4. UCLN: Ước chung lớn nhất
5. BCNN: Bội chung nhỏ nhất


1. MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
Giáo dục là nhiệm vụ mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều coi là quốc
sách hàng đầu. Sự nghiệp giáo dục của nước ta được đề cao và không ngừng
phát triển, điều đó được thể hiện ở sự đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học.
Để giúp học sinh tham gia một cách tích cực, tránh tính thụ động, ỷ lại thì
phương pháp dạy học trong nhà trường có một vai trò rất to lớn. Nhận thức được
việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập là một trong những vấn đề bức
thiết hiện nay ở nước ta, Đảng và Nhà nước cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã đưa ra nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy

học ở tất cả các cấp học, bậc học. Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư
duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực
nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay.
Mục tiêu giáo dục hiện nay rất chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh ở tất cả các khối lớp mà không có biện pháp nào đem lại kết quả
khả quan bằng phương pháp thảo luận nhóm. Qua phương pháp này giúp các em
rèn luyện kĩ năng sống như: tư duy, tự nhận thức, giao tiếp và làm chủ bản thân.
Trong giáo dục phương pháp thảo luận nhóm đang được nhiều người quan tâm
thì việc dạy và học môn Tin học cũng vậy, cần phải đưa ra được phương pháp
thích hợp hơn. Theo tôi quan trọng nhất là phải phát huy được sự chủ động tích
cực của học sinh khi tiếp nhận kiến thức. Việc cải tiến phương pháp giảng dạy
cần được chú trọng hơn nữa, nhưng cải tiến theo phương pháp nào? Với cương
vị là một giáo viên cũng đã nhiều năm giảng dạy tại trường PT Nguyễn Mộng
Tuân, tôi nhận thấy môn Tin học có nhiều vấn đề khó, trừu tượng mà hầu hết các
em còn bỡ ngỡ, không dám trình bày suy nghĩ, ý kiến của mình. Đặc biệt trong
chương trình có nhiều bài thực hành rèn luyện kĩ năng, các thao tác, các bài toán
lập trình, nếu chỉ để giáo viên giảng, hướng dẫn thì các em sẽ bị động, hiệu quả
của việc tiếp thu bài sẽ không cao. Cho dù các thầy cô giáo có chuẩn bị nội dung
phong phú và chu đáo đến đâu đi nữa mà sử dụng không đúng phương pháp,
chắc chắn sẽ làm cho khả năng tiếp thu kiến thức của trò bị hạn chế và sẽ không
thu được kết quả cao. Là một giáo viên Tin học tôi luôn trăn trở làm thế nào để
học sinh hiểu và yêu thích môn học, tích cực và hứng thú trong từng tiết học. Và
tôi cho rằng, điều trăn trở đó chỉ được giải tỏa khi người giáo viên tự giác đổi
mới cách thức tổ chức hoạt động học tập của học sinh. Việc tổ chức hoạt động
dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh là một trong những nhiệm vụ
của năm học. Trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã rút ra kinh nghiệm nhỏ
trong việc tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm. Đây không phải là một cách
thức mới, tuy nhiên vấn đề là làm thế nào để nó đạt được hiệu quả tốt nhất. Dưới
đây, tôi xin trình bày những kinh nghiệm mà mình đã rút ra được khi tổ chức
hoạt động nhóm trên lớp để quý đồng nghiệp cùng tham khảo và có ý kiến xây

dựng thông qua đề tài: “Hiệu quả của phương pháp thảo luận nhóm trong giảng
dạy tin học ở trường phổ thông” và có thể coi đó là một vài kinh nghiệm trong
1


dạy học nhằm nâng cao nhận thức và chất lượng giáo dục của bộ môn Tin học
hiện nay.
- Mục đích nghiên cứu
Làm việc theo nhóm cần động viên tất cả các thành viên cùng tham gia và
kích thích tính tự suy nghĩ của học sinh. Các thành viên tham dự trong nhóm cần
bám vào chủ đề và tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề đó. Phương pháp thảo luận
nhóm tạo được sự hứng thú, thoải mái, vui nhộn cho học sinh trong khi thảo
luận. giúp học sinh có cơ hội diễn đạt ý nghĩ của mình, phát triển các kĩ năng
giải quyết vấn đề.
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết, vận dụng
phương pháp tổ chức thảo luận nhóm trên lớp, tìm ra những hình thức thích hợp,
những giải pháp cho việc thảo luận đồng thời cũng đề xuất những ví dụ cụ thể
về quy trình thảo luận nhóm trên lớp trong môn Tin học sao cho đạt hiệu quả tốt
nhất.
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương pháp thảo luận nhóm để tạo sự
hứng thú, tích cực cho học sinh phổ thông ở các lớp 10,11,12. Học môn Tin học
giúp cho việc lĩnh hội tri thức một cách tốt nhất để đem lại hiệu quả (đặc biệt là
khối 11 với lượng kiến thức khó hơn).
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp điều tra hứng thú học tập bộ môn Tin học
+ Phương pháp phân tích phát hiện (đọc tài liệu, SGK phân tích nội dung
từng phần, từng bài để phát hiện ở nội dung nào có thể tổ chức thảo luận nhóm)
+ Phương pháp xây dựng tình huống phán đoán (trước mỗi nội dung bài
học giáo viên tìm những điểm nút để xây dựng tình huống có vấn đề. Yêu cầu

học sinh theo nhóm học tập giải quyết vấn đề, dự kiến các đáp án và phán đoán
kết quả học tập của học sinh của học sinh, kịp thời điều chỉnh để bài học đưa ra
không quá khó hoặc quá dễ).
+ Phương pháp hướng dẫn các thao tác thực hiện
+ Phương pháp thực nghiệm đối chiếu so sánh
+ Phương pháp kiểm tra việc học tập của học sinh: giao một số bài tập
yêu cầu học sinh làm để lấy kết quả
+ Phương pháp thiết kế bài giảng: Chuẩn bị hệ thống câu hỏi nhằm
khuyến khích học sinh tích cực, hào hứng suy nghĩ ở mức độ cao và sâu hơn.
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, bản thân giáo viên cần phải phối hợp
tốt các phương pháp dạy học, đồng thời phải phối hợp tốt với học sinh để tiến
hành các hoạt động dạy và học đem lại hiệu quả cao và có chất lượng.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tạo hứng thú cho người học luôn là một vấn đề quan trọng trong hoạt
động dạy - học. Bởi vì, như chúng ta biết, dạy - học là một hoạt động phức tạp,
trong đó chất lượng, hiệu quả cơ bản phụ thuộc vào người học. Và điều này lại
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như năng lực nhận thức, động cơ học tập, sự quyết
tâm, phụ thuộc vào môi trường học tập, người tổ chức quá trình dạy học, sự
hứng thú trong học tập. Sự hứng thú biểu hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao
độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm con
người. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc, con người sẽ có
cảm giác dễ chịu với hoạt động, làm nẩy sinh khát vọng hành động một cách có
sáng tạo. Ngược lại, nếu không có hứng thú, dù là hoạt động gì cũng sẽ không
đem lại hiệu quả cao.Vì thế để học sinh thực sự tích cực trong học tập thì giáo
viên phải giúp họ yêu thích cái mà mình đang học hay nói cách khác là tạo hứng

thú cho học sinh.
Việc học có tính chất đối phó, miễn cưỡng, người học may lắm chỉ tiếp
thu được một lượng kiến thức rất ít, không sâu, không bản chất và vì thế dễ
quên. Để tạo được hứng thú cho người học thì hãy cho họ được làm chủ vấn đề,
cho họ được tự mình suy nghĩ tìm tòi giải quyết và trình bày kết quả của mình.
Khi đó người học sẽ không còn bị thụ động, không cảm thấy nhàm chán mà luôn
hào hứng. Một trong những cách thức giúp đạt được điều đó khi giảng dạy trên
lớp là giáo viên tìm cách tổ chức lớp học thành các nhóm và đưa ra yêu cầu cho
các nhóm suy nghĩ rồi trình bày kết quả, đó là phương pháp thảo luận nhóm.
Khi có hứng thú, say mê trong nghiên cứu, học tập thì việc lĩnh hội tri
thức trở nên dễ dàng hơn. Ngược lại, khi nắm bắt được vấn đề, tức là hiểu được
bài thì người học lại có thêm hứng thú. Trên thực tế, những người không thích,
không hứng thú khi học môn học nào đó thường là những người không học tốt
môn học đó. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú cho người học được xem là yêu cầu
bắt buộc đối với bất cứ ai làm công tác giảng dạy, đối với bất cứ bộ môn khoa
học nào.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Tin học là một môn học mới so với các môn học khác tại trường Phổ
thông. Hơn nữa đây là một môn học không thi tốt nghiệp và thi đại học nên
không ít người còn xem nhẹ việc học Tin học. Đa số học sinh cho rằng Tin học
chỉ là một môn học giải trí, để lên mạng, chơi game, xem phim, nghe nhạc. Do
vậy, khó khăn khi đưa Tin học vào trường Phổ thông xuất phát từ chính bản thân
người học. Những năm trở lại đây, mặc dù máy tính đã trở nên quen thuộc đối
với người học, tuy nhiên việc lĩnh hội kiến thức môn Tin học trên lớp cũng
không phải là một việc dễ dàng đối với học sinh bởi chương trình học ở ba khối
lớp 10, 11 và 12 bao quát nhiều nội dung. Người học không phải chỉ được học
3


cách sử dụng máy tính đơn thuần mà được tìm hiểu về nhiều khía cạnh khác

nhau để biết về bản chất, những ứng dụng thực tế của máy vi tính, học cách viết
lập trình… Do đó, nếu chỉ dạy suôn theo sách giáo khoa học sinh sẽ cảm thấy rất
nhàm chán, đòi hỏi người thầy phải linh hoạt vận dụng phương pháp dạy học
sao cho làm sáng tỏ vấn đề, khám phá những tri thức mới liên quan, tạo sự tích
cực trong học sinh thì tiết học sẽ trở nên hứng thú hơn.
Khi giảng dạy, bất kì giáo viên nào đều mong muốn kết quả đạt được là
tốt nhất và đã áp dụng rất nhiều phương pháp khác nhau trong đó có phương
pháp thảo luận nhóm. Điều đó có nghĩa là phương pháp này đã rất quen thuộc
với chúng ta, tuy nhiên hiệu quả của việc thực hiện thì chưa cao.
Trong quá trình giảng dạy tại trường PT Nguyễn Mộng Tuân, tôi đã quan
sát dự giờ nhiều thầy cô và cũng áp dụng phương pháp này trong việc dạy môn
Tin học. Tuy nhiên tôi nhận thấy hiệu quả chưa tốt bởi nhiều nguyên nhân như:
- Dự kiến thời gian chưa phù hợp, nếu quá ít các em sẽ không có đủ thời
gian để thảo luận. Nếu quá nhiều sẽ lãng phí thời gian cho các hoạt động khác,
lớp học sẽ lộn xộn.
- Vấn đề được đưa ra thảo luận quá dễ hoặc kết quả đã có trong SGK
khiến học sinh không có gì để thảo luận hay tranh cãi để giải quyết vấn đề.
- Câu hỏi quá dài, chứa đựng nhiều nội dung khó hiểu nên khi thảo luận
học sinh vẫn còn chưa rõ vấn đề cần thảo luận.
- Học sinh vẫn còn chưa quen với việc thảo luận nhóm, vẫn chưa tự giác
học tập, làm việc theo kiểu đối phó, thiếu nhiệt tình
- Việc phân nhóm và điều hành học sinh thảo luận còn gặp khó khăn .
- Trong quá trình thảo luận, giáo viên chưa bao quát được lớp, chưa phát
hiện học sinh nào còn thụ động.
Tôi đã tìm tòi nghiên cứu về phương pháp này nhằm nâng cao hiệu quả
của nó trong quá trình giảng dạy môn Tin học. Tuy nhiên hiện nay, không nên
cho rằng bất cứ bài nào cũng cần phải dạy theo phương pháp thảo luận nhóm để
chứng tỏ là bài giảng có liên quan đến đổi mới phương pháp giảng dạy. Nếu
chúng ta biết cách sử dụng đúng phương pháp dạy học, phù hợp với bài học, với
đặc trưng của bộ môn thì tiết học sẽ đem lại hiệu quả cao.

2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Làm thế nào để đạt được hiệu quả dạy học tức là giúp học sinh lĩnh hội
kiến thức nhanh nhất và nhiều nhất có thể? Đây là một vấn đề khó, không có
một cách thức, con đường chung cho mọi người. Qua quá trình giảng dạy trên
lớp tôi luôn kết hợp các phương pháp khác nhau tùy từng nội dung bài dạy. Và
tôi nhận thấy rằng để kích thích tư duy và tính tích cực của người học thì tốt
nhất là cho các em tự suy nghĩ và trình bày kết quả của mình trước bạn bè và
thầy cô. Do đó tôi thường cho các em thảo luận nhóm ngay trên lớp, từ đó giúp
các em tự tin, tích cực và yêu thích môn học hơn.

4


2.3.1. Giải pháp cụ thể:
2.3.1.1. Giải pháp 1: Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
Giáo viên:
- Lập kế hoạch bài dạy:
Đọc kỹ bài dạy nắm mục tiêu cần đạt.
Những vấn đề cần thảo luận trong nhóm là những vấn đề gì?
Dự kiến các tình huống xảy ra trong khi thảo luận nhóm.
- Dự kiến:
Cách chia nhóm, số lượng nhóm.
Nhiệm vụ của các nhóm.
Thời gian thảo luận, trình bày.
- Thiết kế bài giảng:
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi nhằm khuyến khích học sinh tích cực, hào
hứng suy nghĩ ở mức độ cao và sâu hơn.
- Chuẩn bị: chuẩn bị chu đáo đồ dùng và thiết bị dạy học.
- Thực hiện kế hoạch dạy học.
Học sinh:

- Chuẩn bị những thứ cần thiết mà giáo viên đã dặn dò.
- Thuộc bài cũ và chuẩn bị bài mới (xem SGK).
- Làm những bài tập của giờ học lần trước
- Chuẩn bị bài thuyết trình về vấn đề mà giáo viên đã dặn trước (đối với
trưởng nhóm), học sinh làm việc này chỉ khi nội dung thảo luận xoay quanh vấn
đề lớn cần nhiều thời gian.
2.3.1.2. Giải pháp 2: Lựa chọn vấn đề thảo luận và giao nhiệm vụ
- Đây là bước đầu tiên trong việc tổ chức học theo phương pháp thảo luận
nhóm. Chủ đề thảo luận nên tập trung vào vấn đề chính của bài học. Chủ đề thảo
luận cũng có thể bắt đầu từ các luận điểm, các tình huống, thường được cụ thể
hóa qua các câu hỏi chủ chốt. Việc lựa chọn và diễn đạt câu hỏi phải phù hợp
không được quá khó hoặc quá dễ đối với học sinh, nên là câu hỏi mở. Tốt nhất
nên lựa chọn vấn đề thảo luận hấp dẫn, dễ huy động được nhiều ý kiến khác
nhau, kích thích tính làm việc tích cực, chủ động của học sinh.
- Giao nhiệm vụ một cách rõ ràng cho từng nhóm làm việc để mỗi thành
viên trong nhóm hiểu được công việc cần phải làm và mô tả một cách cụ thể
cách thực hiện các nhiệm vụ đó. Cần lưu ý là nếu không đề ra nhiệm vụ rõ ràng
thì không có được kết quả thuyết phục. Những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung làm
việc theo nhóm có thể được viết ra giấy và phát cho mỗi nhóm.
- Định thời gian làm việc của mỗi nhóm kể cả giờ giải lao và thời gian họp
lại sau khi thảo luận nhóm (để báo cáo kết quả làm việc ở nhóm). Đưa ra cách
thức làm việc của nhóm, cung cấp các thông tin liên quan với vấn đề được thảo
luận. Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thảo luận.
5


2.3.1.3. Giải pháp 3: Chia nhóm, bố trí chỗ ngồi
Có rất nhiều cách chia nhóm khác nhau, như chia nhóm theo bàn, chia
nhóm theo tổ, chia theo dãy, chia theo danh sách, chia theo năng lực. Khi chia
nhóm cần chú ý đến số lượng và trình độ, không chia nhóm này quá đông, nhóm

kia quá ít. Mỗi nhóm phải có cơ cấu chặt chẽ để phân công trách nhiệm cho từng
người. Và việc bố trí chỗ ngồi cũng ảnh hưởng tới chất lượng khi thảo luận
nhóm. Nên bố trí các thành viên trong nhóm quay mặt lại với nhau, vị trí chỗ đủ
gần để có thể trao đổi. (Minh họa hình ảnh sau)

(Hình ảnh 1: Tiết học nghiên cứu các thành phần của máy tính theo phương
pháp thảo luận nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên)

(Hình ảnh 2: Các nhóm thực hành theo từng dãy bàn thông qua phiếu học tập)
6


2.3.1.4. Giải pháp 4: Thảo luận nhóm
- Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm.
- Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho từng nhóm, có hướng dẫn
và định hướng cách thức trình bày thảo luận.
- Giáo viên tổ chức hướng dẫn các hoạt động, gợi mở, khuyến khích học
sinh tích cực hoạt động.
- Khi học sinh tiến hành thảo luận nhóm, giáo viên chuyển từ vị trí người
hướng dẫn sang vị trí người người giám sát, theo dõi, quan sát và bổ sung khi
cần. Phát hiện các nhóm hoạt động không có hiệu quả, uốn nắn điều chỉnh.
- Nắm chắc đặc điểm tâm lý của từng học sinh để kịp thời động viên
khuyến khích nhằm tạo không khí phấn khởi tự tin trong học tập.
- Luôn có ý thức trách nhiệm trợ giúp tránh can thiệp sâu làm hạn chế khả
năng độc lập, sáng tạo của học sinh.
- Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò với trò.
2.3.1.5. Giải pháp 5: Tiếp nhận thông tin phản hồi từ phía học sinh
- Khi kết thúc thời gian thảo luận, giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày
kết quả thảo luận với nhiều hình thức phong phú. Nhóm có thể cử đại diện hoặc
giáo viên có thể yêu cầu ngẫu nhiên bất cứ một học sinh nào đó trong nhóm lên

thuyết trình.
- Nhóm khác đặt câu hỏi với sự gợi mở của giáo viên để các nhóm có cơ
hội trao đổi, tranh cãi, cải chính kiến thức của mình, đồng tình kiến thức đúng,
sửa chữa kiến thức sai, bổ sung kiến thức còn thiếu. Từ đó làm nảy sinh ý thức
vươn lên trước bạn bè của mỗi thành viên trong nhóm nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động trong học tập của học sinh.
- Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng nội dung thảo luận.
2.3.1.6. Giải pháp 6: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm
Đây là khâu cuối cùng nhưng khá quan trọng của hoạt động thảo luận
nhóm. Giáo viên là người nắm vững tri thức, công tâm, linh hoạt thì việc đánh
giá mới đảm bảo khách quan, công bằng và chính xác. Có thể yêu cầu các em tự
đánh giá kết quả làm việc của nhóm và các nhóm đánh giá kết quả làm việc của
nhau.
Khen thưởng các nhóm, các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc
nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm.
2.3.2. Rèn kỹ năng qua một số bài học
Qua quá trình giảng dạy trên lớp tôi đã áp dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong nhiều trường hợp nhằm phát huy tính tích cực của người học. Tuy
nhiên hiện nay, không nên cho rằng bất cứ bài nào cũng cần phải có thảo luận
nhóm để chứng tỏ là có quan tâm đến đổi mới phương pháp giảng dạy. Trên thực

7


tế, chỉ những bài mà có phần có tình huống cần thảo luận thì mới nên chia nhóm
thảo luận.
Sau đây tôi xin trình bày một số trường hợp cụ thể:
2.3.2.1. Bài học 1:
Thảo luận nhóm khi dạy bài “Cấu trúc lặp” (Bài 10: Cấu trúc lặp_Tin
11), phần 3: “Lặp với số lần chưa biết trước và câu lệnh while-do” để giải quyết

vấn đề: Có thể dùng câu lệnh while-do để thay cho câu lệnh for-do được
không?
Bước 1:
- Giáo viên thông báo rằng cả lớp sẽ tiến hành thảo luận nhóm để trả lời
câu hỏi “Có thể dùng câu lệnh while-do để thay cho câu lệnh for-do được
không?”.
- Thời gian thảo luận là 15 phút.
- Trong thời gian thảo luận, tất cả các thành viên đều phải tham gia tìm
hiểu vấn đề, giáo viên đóng vai trò giám sát, định hướng.
- Sau khi thảo luận xong đại diện các nhóm sẽ báo cáo kết quả
Bước 2:
Chia lớp thành hai nhóm tương ứng với hai dãy bàn, để các nhóm tự bầu
ra nhóm trưởng hoặc trong trường hợp này giáo viên có thể chỉ định nhóm
trưởng. Yêu cầu các nhóm thảo luận để trả lời các câu hỏi:
- Câu hỏi 1: So sánh sự giống nhau và khác nhau của câu lệnh for-do và
câu lệnh while-do?
- Câu hỏi 2: Trong câu lệnh for-do, đại lượng nào có giá trị thay đổi sau
mỗi lần lặp? Trong câu lệnh while-do, đại lượng nào có giá trị thay đổi sau mỗi
lần lặp?
- Câu hỏi 3: Trong câu lệnh for-do, khi nào việc lặp kết thúc? Trong câu
lệnh while-do, khi nào việc lặp kết thúc?
Bước 3:
Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm: Các nhóm nhỏ thảo luận theo
từng bàn. Thư ký của nhóm lớn ghi ý kiến thảo luận của các nhóm nhỏ. Nhóm
trưởng và thư ký nhóm lớn tổng hợp, chọn lọc ý kiến. Giáo viên tham gia quản
lý và định hướng làm việc cùng các nhóm, hỗ trợ cho các nhóm khi cần thiết.
Bước 4:
Học sinh đại diện nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác có thể đặt câu
hỏi.
Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng nội dung thảo luận. Nhận xét câu

trả lời và thống nhất câu trả lời chính xác.
- Trả lời câu 1: So sánh sự giống nhau và khác nhau của câu lệnh for-do
và câu lệnh while-do.
Giống nhau: Cùng là câu lệnh để mô tả cấu trúc lặp

8


Khác nhau:

Câu lệnh for-do
Câu lệnh while-do
Ý nghĩa Thể hiện cấu trúc lặp với số lần biết Thể hiện cấu trúc lặp với số
trước
lần chưa biết trước
Câu
for <biến đếm>:= <giá trị đầu>
while <điều kiện> do
lệnh
to <giá trị cuối> do <câu lệnh>;
< câu lệnh>;
Hoạt
Câu lệnh viết sau từ khóa do được thực Khi điều kiện còn đúng thì
động
hiện tuần tự, với biến đếm lần lượt còn thực hiện câu lệnh sau
nhận các giá trị liên tiếp tăng từ giá trị do sau đó quay lại kiểm tra
đầu đến giá trị cuối
điều kiện
- Trả lời câu 2: Trong câu lệnh for-do, đại lượng <biến đếm> có giá trị
thay đổi sau mỗi lần lặp

Trong câu lệnh while-do, biểu thức <điều kiện> có thể có giá trị thay đổi
sau mỗi lần lặp?
- Trả lời câu 3: Trong câu lệnh for-do, việc lặp kết thúc khi biến đếm lớn
hơn giá trị cuối. Trong câu lệnh while-do, việc lặp kết thúc khi điều kiện cho giá
trị sai (false).
Sau khi đưa ra các câu trả lời hoàn chỉnh, giáo viên đưa ra vấn đề chính.
Vậy có thể dùng câu lệnh while-do để thay cho câu lệnh for-do được không?
Chúng ta muốn làm được việc này thì phải tìm ra biểu thức điều kiện. Kết quả là
có thể, với cấu trúc như sau:
<biến đếm>:=<giá trị đầu>;
while <biến đếm> <= <giá trị cuối> do
Begin
<câu lệnh>;
<biến đếm> := <biến đếm> + 1;
End;
Bước 5:
Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, các
thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác
trong việc thảo luận nhóm.
2.3.2.2. Bài học 2: Lập trình giải bài toán cổ:
(Câu hỏi và bài tập Trang 51_SGK Tin 11)
“Vừa gà vừa chó,
bó lại cho tròn,
ba mươi sáu con,
một trăm chân chẵn”
Bước 1:
Với Bài học 2, bằng kiến thức toán học, học sinh dễ dàng tìm ra đáp án
tuy nhiên để giải bài toán trên bằng phương pháp lập trình thì không ít học sinh
9



gặp khó khăn. Để giúp học sinh giải quyết được bài toán, trước hết phải yêu cầu
học sinh xác định chính xác bài toán.
Xác định bài toán:
Input: số gà+số chó=36 con
chân gà+ chân chó = 100 chân
Output: số gà, số chó
Từ kết quả xác định bài toán của học sinh, giáo viên đặt ra hệ thống các câu hỏi
giúp học sinh xác định đúng cách giải của bài toán:
Bước 2:
Chia lớp ra làm hai nhóm theo hai dãy bàn và tìm hiểu theo các câu hỏi
mở sau:
Câu hỏi 1: Mối quan hệ giữa số gà và số chó ở đây là gì?
Câu hỏi 2: Việc giảm số gà từng đơn vị và tăng số chó từng đơn vị được
thực hiện bao nhiêu lần? thực hiện đến khi nào thì kết thúc?
Câu hỏi 3: Hãy mô tả việc giảm n và tăng m bằng cấu trúc các câu lệnh
trong pascal? (Coi sô gà là n, số chó là m).
Bước 3:
Trước hết học sinh thảo luận theo các nhóm nhỏ (từng bàn một), sau đó
các nhóm nhỏ sẽ tổng hợp kết quả lại thành kết quả của nhóm lớn.
Bước 4:
Các nhóm lớn trình bày kết quả, các em trả lời các câu hỏi gợi ý từ đó nêu
lên câu trả lời cho vấn đề cần thảo luận. Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng
nội dung thảo luận. Nhận xét câu trả lời và thống nhất câu trả lời chính xác:
- Trả lời câu 1: Mối quan hệ giữa số gà và số chó ở đây là gì?
Học sinh trả lời: nếu ta coi số gà là n, số chó là m và giả sử rằng ban đầu
số gà n=36, khi đó số chó m=0; ta lần lượt giảm số gà từng đơn vị (n:=n -1) và
tăng số chó lần lượt từng đơn vị (m:=m+1) cho đến khi điều kiện 2n +4m = 100
thỏa mãn thì kết thúc.
- Trả lời câu 2: Việc giảm số gà từng đơn vị và tăng số chó từng đơn vị

được thực hiện bao nhiêu lần, thực hiện đến khi nào thì kết thúc?
Học sinh trả lời: Việc giảm số gà và tăng số chó chưa xác định rõ là cần
thực hiện bao nhiêu lần, tuy nhiên việc tăng và giảm đó chỉ kết thúc khi thỏa
mãn điều kiện: 2n+ 4m=100 hay nói cách khác khi 2n + 4m còn khác 100 thì
còn thực hiện việc tăng m và giảm n.
- Trả lời câu 3: Mô tả việc giảm n và tăng m bằng cấu trúc các câu lệnh
trong pascal. Từ kết quả phân tích học sinh vận dụng cấu trúc while… do để
biểu diễn công việc trên:
n:= 36; m:=0;
while ((2*n + 4*m)<>100)do
begin
n:=n-1;
m:=m+1;
end;
10


Từ kết quả trên giáo viên cho học sinh hoàn thiện chương trình và chạy
thử trực tiếp trên máy để kiểm chứng kết quả. Đồng thời kết luận thứ nhất: cấu
trúc While .. do được sử dụng trong các bài toán có dạng một thao tác nào đó
được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần nhưng chưa xác định số lần lặp.
Bước 5:
Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, các
thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ công tác
trong việc thảo luân nhóm
2.3.2.3. Bài học 3: Đổi mới phương pháp giảng dạy bài 19- Tin 10: Tạo và
làm việc với bảng.
Bước 1:
- Giáo viên thông báo rằng cả lớp sẽ tiến hành thảo luận nhóm bài: Tạo và
làm việc với bảng.

- Thời gian thảo luận là 15 phút
- Trong thời gian thảo luận, tất cả các thành viên phải tham gia tìm hiểu
vấn đề, giáo viên định hướng và giám sát.
Bước 2:
Chia lớp thành 4 nhóm theo 4 tổ và bầu nhóm trưởng là tổ trưởng, yêu cầu
các nhóm thảo luận theo các nội dung sau: (Trình chiếu cho các nhóm quan sát).
Nhóm 1:
- Sưu tầm các mẫu bảng biểu thường gặp và cho biết bảng gồm những
thành phần nào? Khi nào ta cần lập bảng biểu?
- Trình bày các cách để tạo bảng?
Nhóm 2:
- Trình bày cách lựa chọn ô, hàng, cột, bảng (SGK đã nêu). Nếu muốn lựa
chọn nhiều ô, hàng, cột liền nhau hoặc không liền nhau của một bảng thì làm thế
nào?
- Trình bày các cách để thay đổi kích thước của cột, hàng, ô (Gợi ý: có 3
cách, 2 cách SGK đã nêu)?
- Hãy cho biết tác dụng của các phím sau trong việc di chuyển con trỏ
soạn thảo trong bảng: ←,↑,→,↓, tab, shift_tab ?
Nhóm 3
- Trình bày cách chèn thêm hay xoá bớt cột, hàng, ô, bảng ?
- Trình bày cách để định dạng dữ liệu trong ô, cách trang trí đường viền và
tô màu nền cho bảng ? (Gợi ý: chọn đối tượng/Format/ Borders and shading…)
Nhóm 4 :
Làm thế nào để tính toán đơn giản trong bảng: Tính tổng, tính trung bình
Bước 3:
Các nhóm tiến hành thảo luận. Giáo viên đóng vai trò giám sát và hướng
dẫn.

11



Bước 4:
Đại diện một số nhóm trình bày ý tưởng. Các thành viên nhóm khác góp
ý. Giáo viên nhận xét và đưa ra cách làm đúng.
Nhóm 1:
- Các bảng thường gặp như: Thời khoá biểu, phiếu điểm, sổ đầu bài….
- Bảng gồm hai thành phần là các hàng và các cột
- Tạo bảng bằng một trong các cách sau:
Cách 1: Table Insert Table…chọn số cột (Number of columns) và số
hàng (Number of rows) cho bảng.
Cách 2: Nháy nút lệnh Insert table
trên thanh công cụ chuẩn rồi kéo
thả chuột xuống dưới và sang phải để chọn số hàng và số cột mong muốn.
Cách 3: Dùng nút lệnh Draw table trên thanh công cụ Tables and Borders
Nhóm 2:
Cách chọn ô, hàng, cột, bảng
- Chọn 1 ô: nháy chuột tại cạnh trái của ô đó.
- Chọn 1 hàng: Nháy chuột bên trái hàng đó.
- Chọn 1 cột: Nháy chuột ở đường viền trên của ô trên cùng trong cột đó.
- Chọn toàn bảng: Nháy chuột tại đỉnh góc trên bên trái của bảng ( ).
Thay đổi kích thước của cột, hàng, ô
Cách 1: Đưa con trỏ chuột vào đường viền của cột (hay hàng) cần thay
đổi. Kéo thả chuột, hoặc kích đúp vào đường biên
Cách 2: Dùng chuột kéo thả các nút trên thước ngang và dọc
Cách 3: Dùng table/table properties
Tác dụng của các phím ←,↑,→,↓ dùng di chuyển con trỏ soạn thảo sang
trái một kí tự, lên trên một dòng, sang phải một kí tự và xuống một dòng.
Phím Tab dùng để chỉ khoảng cách hay tạo điểm dừng.
Phím Shift + Tab: di chuyển đến mục chọn, nhóm chọn phía trước.
Nhóm 3:

Chèn thêm hoặc xoá ô, hàng và cột:
- Chọn ô, hàng hay cột sẽ xoá
- Chọn lệnh tương ứng: table  delete / table Insert.
Định dạng dữ liệu trong ô
Việc định dạng dữ liệu trong ô giống như ngoài ô. Muốn căn chỉnh theo
đường biên cả ngang, dọc thì chọn các ô cần căn chỉnh rồi chuột phải chọn Cell
Alignment hoặc dùng các nút tương ứng trên thanh công cụ bảng.
Nhóm 4:
Đặt con trỏ soạn thảo tại ô cần tính và thực hiện như sau:
- Chọn lệnh: Table Formula
- Chọn hàm Sum (tính tổng)
- Chọn hàm Average (tính trung bình)
Bước 5:
Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, các
thành viên hoạt động tích cực, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm.
12


2.3.2.4. Bài học 4:
Thảo luận nhóm khi dạy bài: “Ví dụ về cách viết và sử dụng chương trình
con” (Bài 17_ SGK Tin 11) với vấn đề thảo luận là: Trường hợp nào nên khai
báo tham số hình thức dưới dạng tham biến và trường hợp nào nên khai báo
tham số hình thức dưới dạng tham trị?
Bước 1:
Vấn đề thảo luận đưa ra ở đây khá khó hiểu, để tìm hiểu ví dụ về thủ tục,
trước hết giáo viên nêu lên một số khái niệm mới là tham biến, tham trị và ý
nghĩa của chúng. Vậy vấn đề cần thảo luận là trong trường hợp nào nên khai báo
tham số hình thức dưới dạng tham biến và trường hợp nào nên khai báo tham số
hình thức dưới dạng tham trị?
- Trong lệnh gọi thủ tục, các tham số hình thức được thay bằng các tham

số thực sự tương ứng là các giá trị cụ thể được gọi là tham trị.
- Trong lệnh gọi thủ tục, các tham số hình thức được thay bằng các tham
số thực sự tương ứng là tên các biến chứa dữ liệu ra được gọi là tham biến.
- Để phân biệt tham biến hay tham trị, Pascal sử dụng từ khóa var để khai
báo những tham số biến
Bước 2:
Chia lớp thành 2 nhóm:
Nêu một số câu hỏi gợi ý thảo luận để học sinh dễ tìm ra câu trả lời:
Câu hỏi 1: Dựa vào đặc điểm nào mà em nhận biết được tham số hình
thức được khai báo dưới dạng tham biến hay tham trị ?
Câu hỏi 2: Hãy quan sát một ví dụ cụ thể (trang 99_SGK Tin 11) và cho
biết kết quả sẽ thay đổi thế nào khi thay đổi cách khai báo tham số hình thức từ
dạng tham biến sang tham trị?
Bước 3:
Trước hết học sinh thảo luận theo các nhóm nhỏ (từng bàn một) sau đó
các nhóm nhỏ sẽ tổng hợp kết quả lại thành kết quả của nhóm lớn.
Giáo viên quan sát và chỉ dẫn khi cần thiết.
Bước 4:
Các nhóm lớn trình bày kết quả, các em trả lời các câu hỏi gợi ý từ đó nêu
lên câu trả lời cho vấn đề cần thảo luận. Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng
nội dung thảo luận. Nhận xét câu trả lời và thống nhất câu trả lời chính xác:
- Trả lời câu 1: Tham biến được khai báo kèm từ khóa var, tham trị được
khai báo không kèm từ khóa nào cả.
- Trả lời câu 2: Cho các em theo dõi ví dụ trong SGK và đưa ra các tình
huống: Khi x và y được khai báo kèm từ khóa var thì kết quả thế nào, nếu
không có từ khóa var thì kết quả thế nào.
Từ đó kết luận lại vấn đề:
13



- Khai báo tham số hình thức dạng tham biến khi chúng tương ứng với các
biến chứa dữ liệu ra.
- Khai báo tham số hình thức dạng tham trị khi chúng chỉ được đưa vào để
lấy giá trị tính toán mà không cần lưu dữ liệu ra.
Ví dụ:
* Khai báo dạng tham biến cho các chương trình con sau:
- Hoán đổi vị trí hai số nguyên:
Procedure HoanDoi(var a,b:integer);.
{Vì cả hai biến đều chứa dữ liệu ra nên cần sử dụng từ khóa var để khai
báo cho cả hai biến}
- Chèn thêm vào mảng A một số nguyên x:
Procedure Chen(x: integer; var A: MangSoNguyen);
- Xóa các kí tự ‘X’ trong một xâu:
Procedure Xoa(var S: string);
- Xóa các dấu cách thừa trong một xâu:
Procedure XoaDauCach(var S: string);
* Khai báo dạng tham trị cho các chương trình con:
- Tính tổng hai số:
Function Tong(a,b:integer);
- Tính lũy thừa:
Function LuyThua(a:real; x: integer);
- Tìm kiếm xem một phần tử x có xuất hiện trong mảng A không:
Function TimKiem(x:integer; A: MangSoNguyen)
- Tìm ước chung lớn nhất của hai số a và b:
Function
UCLN(a,b: integer);
- Tìm bội chung nhỏ nhất của hai số a và b:
Function
BCNN(a,b: integer);
Ngoài những bài học cụ thể được trình bày ở trên, khi dạy học Tin học

chúng ta còn có thể áp dụng phương pháp thảo luận nhóm cho rất nhiều bài học
khác nữa, việc này sẽ đem lại rất nhiều hiệu quả trong giảng dạy.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sau một năm vận dụng quá trình tổ chức thảo luận nhóm, tuy chưa được
hoàn toàn như mong muốn, nhưng tôi nhận thấy lớp học vui vẻ, sôi nổi hẳn lên.
Phần đông học sinh thấy hứng thú, tích cực tham gia ý kiến, thoải mái, vui vẻ
mỗi khi đến tiết, thao tác hoạt động của học sinh nhanh nhẹn hơn, ý thức tập
trung hơn. Qua thảo luận nhóm, học sinh thật sự mạnh dạn hơn, kỹ năng diễn đạt
tốt hơn, phá tan được bầu không khí yên lặng của các học sinh mệt mỏi, nhút
nhát. Các em đã tự khám phá được nội dung bài học, thông hiểu nhớ lâu nhờ
chính hoạt động của các em. Đặc biệt các em biết trao đổi học hỏi lẫn nhau tạo

14


tính đoàn kết và vươn lên trong học tập. Điều đó cũng làm cho quan hệ thầy trò
thân tình, gần gũi và cởi mở.
Cùng một đối tượng học sinh nhưng khi được giáo viên quan tâm tổ chức
thảo luận có sự chuẩn bị chu đáo, nhiệt tình thì chất lượng bộ môn nâng lên rõ
rệt, phần đông học sinh hứng thú trong học tập, thoải mái mỗi lúc đến tiết học.
Khi tôi tìm hiểu tâm lí học sinh, đã có đến hơn 85% học sinh không ngần ngại
thổ lộ: Hiện nay các em đã biết được tin học có nhiều lợi ích như thế nào, học
tin học không chỉ là học cách sử dụng máy tính mà các em còn say sưa với các
bài toán lập trình, say sưa tìm hiểu các bộ phận của máy tính, học cách trình bày
văn bản, các lợi ích do mạng máy tính đem lại… Điều đặc biệt quan trọng là học
sinh yêu thích và hứng thú tìm hiểu sâu sắc hơn môn học này. Điều đó một lần
nữa khẳng định vai trò của việc tổ chức thảo luận theo nhóm là cần thiết đối với
môn tin học nói riêng và môn học khác nói chung trong nhà trường.
Sau đây là kết quả thực hiện được qua quá trình nghiên cứu và khảo sát.

Sau khi dạy tại hai lớp 11A2 và 11A4 trong năm học 2015-2016 (học sinh tại hai
lớp này có khả năng tiếp thu và ý thức học tập tương đương nhau) với hai
phương pháp khác nhau: lớp 11A2 dùng phương pháp thuyết trình, lớp 11A4
dùng phương pháp thảo luận nhóm. Tôi cho hai lớp làm một bài kiểm tra và kết
quả thu được qua quá trình thực hiện đề tài như sau:
Kết quả
Phương pháp thuyết trình
Xếp loại
Lớp
Sỉ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém

Lớp 11A2
45 HS (100%)
Số lượng (HS) Tỉ lệ (%)
1
2.2%
12
26.7%
22
48.9%
8
17.8%
2
4.4%


Phương pháp thảo luận nhóm
Lớp 11A4
45 HS (100%)
Số lượng (HS) Tỉ lệ (%)
8
17.8%
21
46.7%
16
35.5%
0
0%
0
0%

Từ kết quả trên chúng ta nhận thấy nếu chỉ dùng phương pháp thuyết trình
để giảng dạy thì kết quả là khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh thấp hơn so
với việc kết hợp sử dụng hoạt động thảo luận nhóm rất nhiều.
Đây chỉ là một ví dụ về hiệu quả của việc sử dụng hoạt động nhóm trên lớp.
Tôi chắc chắn rằng khi chúng ta biết sử dụng và kết hợp linh hoạt phương pháp
này với các phương pháp khác thì chúng ta sẽ thu được kết quả tốt trong việc
dạy học tin học nói riêng và các môn học khác nói chung.

15


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ lí luận vận dụng vào thực tiễn cho thấy việc tổ chức một hoạt động
thảo luận nhóm có hiệu quả sẽ đem lại thành quả rất to lớn cho một tiết dạy,

nhưng điều đó không phải ai cũng làm được vì đây là một phương pháp khó. Để
vận dụng thành công phương pháp này đòi hỏi người dạy cần nắm vững kiến
thức, dành nhiều thời gian đầu tư để chuẩn bị bài học một cách chu đáo, tự bồi
dưỡng nghiên cứu các chuyên đề. Phải thường xuyên nắm bắt thông tin qua việc
học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp, tự bồi dưỡng những kiến thức cho mình,
có quy trình thảo luận khoa học cùng với nghệ thuật sư phạm. , cần phải có điều
kiện cơ sở vật chất thuận lợi và sự kết hợp linh hoạt thảo luận nhóm với các
phương pháp dạy học khác. Khi thầy tổ chức hoạt động tốt, trò học tốt thì chắc
chắn sẽ đem lại hiệu quả cao.
Đề tài này đã đưa ra một cách chi tiết về công tác chuẩn bị, các giải pháp
đưa ra để thảo luận nhóm trong dạy học. Từ kết quả thu được của việc áp dụng
giải pháp sáng kiến cho thấy, so với các phương pháp khác thì thảo luận nhóm là
phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, năng lực diễn
đạt, hợp tác, làm việc theo nhóm của học sinh, một phẩm chất quan trọng của
người công dân trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá ngày nay. Nếu áp dụng
phương pháp một cách nghiêm túc theo những nội dung trình bày ở trên, chắc
chắn người dạy sẽ thu được những kết quả rất hữu ích, đó cũng chính là những
hiệu quả bước đầu mà đề tài này cũng đã thu được.
3.2. Kiến nghị
Tôi mong rằng nhà trường cần tạo điều kiện hơn nữa về mặt tài liệu để
trang bị thêm cho giáo viên và học sinh, để có thể tự bồi dưỡng thêm kiến thức
của mình. Đặc biệt đối với bộ môn đặc thù này, thì việc trang bị cơ sở vật chất
và cần có phòng học chức năng riêng biệt, phòng máy thực hành, máy chiếu là
hết sức quan trọng. Ngoài ra nếu có điều kiện nên tố chức được các buổi thảo
luận, giới thiệu được các sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng cao, ứng dụng
lớn trong thực tiễn để đồng nghiệp cùng học hỏi.
Mặc dù phương pháp này vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi thực hiện
nhưng nó cũng tạo ra những chuyển biến tích cực trong việc dạy và học. Tôi
mong rằng trong năm học tới, phương pháp này vẫn được Ban Giám hiệu quan
tâm chỉ đạo, tổ chức để cho giáo viên có điều kiện trao đổi và học hỏi kinh

nghiệm lẫn nhau trong giảng dạy, nâng cao tay nghề phục vụ giảng dạy tốt hơn.
Phạm vi đề tài này nhằm nghiên cứu giải pháp để nâng cao hiệu quả của phương
pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy Tin học ở trường Phổ thông. Đề tài hoàn
thành trong tháng 4 năm 2016. Trong tương lai tôi sẽ cố gắng thực hiện phương
pháp này tốt hơn, đồng thời cũng tập trung nghiên cứu sâu về các phương pháp

16


dạy học khác với mong muốn đạt được mục tiêu theo yêu cầu của Nhà nước về
giáo dục.
Đặc biệt đối với môn Tin học, hy vọng hình thức đổi mới phương pháp
giảng dạy “thảo luận nhóm” sẽ ngày càng được áp dụng phổ biến và càng nhiều
người hưởng ứng hơn. Và trong quá trình sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
tôi đã rút ra một số bài học để làm kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình
giảng dạy. Tuy nhiên chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp, của Ban giám hiệu, đặc
biệt là của hội đồng sáng kiến kinh nghiệm để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
Người viết

Nguyễn Thế Anh
Lê Thị Thanh Huyền


17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Tin 10 và 11_SGK
do Hồ Sĩ Đàm (chủ biên)
- Chuẩn kiến thức, kỹ năng môn tin học 11 Quách Tất Kiệt (chủ biên)
Nguyễn Hải châu
- Sách giáo khoa tin học 10,11 do Hồ Sĩ Đàm (chủ biên)
- Sách giáo viên tin học 10,11 do Hồ Sĩ Đàm ( chủ biên)
- Lý thuyết và Bài tập lập trình Pascal 5.5 & 6.0 Nguyễn Thị Kiều Duyên
- Một số sáng kiến kinh nghiệm và ý kiến của đồng nghiệp .

18



×