Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp nâng cao hứng thú học môn tin học 11 tại trường THPT đinh chương dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.05 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
I.

MỞ ĐẦU

2

1.

Lí do chọn đề tài ..............................................................................

2

2.

Mục đích nghiên cứu ......................................................................

3

3.

Đối tượng nghiên cứu ......................................................................

3

4.

Phương pháp nghiên cứu ...............................................................

3


II.

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ...................................

3

1.

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm .........................................

3

2.

Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ........................

4

3.

Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề ..............................

7

4.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ...............................................

16


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .........................................................

17

1.

Kết luận .........................................................................................

17

2.

Kiến nghị ............................................................................................

17

Tài liệu tham khảo ...........................................................................

19

1


ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN TIN
HỌC 11 TẠI TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG”
I.

MỞ ĐẦU:


1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay công nghệ thông tin được xem là một trong những ngành mũi nhọn,
chiếm vị trí hàng đầu trong chính sách kinh tế và khoa học kỹ thuật của các
nước phát triển.
Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy học: trong Hội nghị TW 8
khóa XI đã thông qua Nghị quyết “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Thực hiện nhiệm vụ những năm học qua đặc biệt là năm học 2015 - 2016 là
tiếp tục giảng dạy môn tin học các lớp khối 11 và giảng dạy cho học sinh giỏi
môn Tin học tôi không ít trăn trở làm sao để có chất lượng đại trà tốt, hoàn thành
nhiệm vụ trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi mà nhà trường giao cho. Sau 1
năm giảng dạy lớp 10C1 và 10C5 mà hiện nay là 11C1 và 11C5 tôi nhận thấy
nếu các em khối 11 năm nay không có sự chuyển biến mạnh về thái độ học tập
thì sẽ không có kết quả cả về chất lượng đại trà cũng như chất lượng mũi nhọn.
Bên cạnh những học sinh vui thích, đam mê với việc học tập tin học thì cũng có một bộ
phận không nhỏ các em không thích học, chán học, nguyên nhân là do mất hứng thú học
tập. Nhận thấy đây là một công việc đầy gian nan và thách thức nên ngay từ đầu
năm học mới tôi đã có quyết tâm đổi mới trong cách làm từ đó tạo ra sự hứng
thú trong việc học cho các em.
Đứng trước những thách thức đó, dựa trên thực tiễn giảng dạy và nghiên cứu
tôi đã rút ra một số kinh nghiệm, vì vậy xin chia sẻ với bạn đọc và các đồng
nghiệp một vài kinh nghiệm ít ỏi này thông qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP TIN
HỌC 11 TẠI TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG – HẬU LỘC”
Rất mong các đồng nghiệp góp ý để đề tài tiếp tục được hoàn thiện và làm tài
liệu tham khảo đồng thời có thể áp dụng một cách có hiệu quả.
2



2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra những giải pháp thiết thực nhất tác động đến sự hứng thú học tập tin
học của các em lớp 11.
3.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp tạo hứng thú học tập tin học 11 cho học sinh
lớp 11C1 trường THPT Đinh Chương Dương
Phạm vi nghiên cứu: 40 học sinh thuộc lớp 11C1 trường THPT Đinh Chương
Dương.
Từ đó các đồng nghiệp có thể áp dụng cho học sinh khối 11 trường THPT
Đinh Chương Dương và làm tài liệu tham khảo cho các đồng nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Trực tiếp dạy thực nghiệm trên lớp, khảo sát lớp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu, sách báo, …
- Kiểm tra trước và sau khi tác động
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
1.1 Khái quát chương trình Tin học 11:
+ Tầm quan trọng của Tin học 11: xin trích dẫn lời của Dennis Ritchie tác giả
ngôn ngữ C: “Pascal là ngôn ngữ thanh lịch. Nó vẫn tiếp tục tồn tại. Nó đã khởi
nguồn cho không ít ngôn ngữ đàn em và có ảnh hưởng sâu sắc đến việc thiết kế
các ngôn ngữ lập trình nói chung” – Trích SGK Tin 11. Vì vậy nó sẽ rất hữu ích
cho việc học lập trình ở cấp cao hơn. Và một điểm mà ở thời điểm hiện tại bất
kỳ giáo viên giảng dạy tin học 11 luôn luôn khắc sâu trong đầu đó là nội dung
kiến thức thi chọn Học sinh giỏi cấp Tỉnh và cấp Quốc gia.
+ Trên thực tế nội dung chương trình Sách giáo khoa tin học 11 không có quá
nhiều kiến thức như các môn khác. Trong phân phối chương trình có tổng 52 tiết
cả năm trong đó có 31 tiết là các tiết bài tập thực hành, ôn tập và kiểm tra, nội

dung kiến thức nằm trong 6 chương thì hai chương đầu bao gồm các khái niệm
cơ bản về ngôn ngữ lập trình Pascal, ba chương tiếp theo là: Cấu trúc rẽ nhánh
và lặp; Kiểu dữ liệu có cấu trúc (Mảng và Xâu; còn kiểu bản ghi thuộc phần
3


giảm tải SGK); Tệp và thao tác với tệp thì không có gì phức tạp đến nỗi học sinh
học không hiểu. Vấn đề SGK Tin 11 chỉ nằm ở chương VI là “Chương trình con
và lập trình có cấu trúc” nhưng kiến thức đáng chú ý nhất nó nằm ở phần cách
truyền tham số trong chương trình con (tham số trị và tham số biến), còn về các
thuật toán thì chủ yếu lại nằm ở chương 3 và 4 và các thuật toán cơ bản lớp 10
đã trình bày. Kiến thức Sách giáo khoa là vậy nhưng qua một số năm tôi thấy
càng dạy tôi lại càng cảm thấy tinh thần và kiến thức các em lĩnh hội được thì
không ổn chút nào.
1.2 Sự hứng thú trong học tập của học sinh:
Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của
học sinh với môn học, với bài giảng của giáo viên và với nhiệm vụ mà giáo viên
giao cho các em. Kết quả học tập là lớp học nghiêm túc, học sinh hiểu bài, tỷ lệ
khá giỏi qua hoạt động kiểm tra đánh giá ngày càng nâng lên. Ngược lại nếu
không có hứng thú dù thì hoạt động gì cũng sẽ không đem lại kết quả cao, nhất
là trong hoạt động học của học sinh giống như ông cha ta thường nói “nước đổ
lá khoai” hay “nước đổ đầu vịt”
Vì vậy để có hứng thú trong học tập tin học 11 thì:
- Làm cho các em thấy được ý nghĩa thiết thực của việc học tin học đối với
bản thân
- Làm cho các em cảm thấy thích hay thỏa mãn với kiến thức mà các em có
được của môn học đặc biệt là lập trình.
- Làm cho các em thấy việc học tin học còn là trách nhiệm cũng là nhu cầu
của một công dân đặc biệt là một đoàn viên thanh niên trong thời đại mới trước
sự phát triển và hội nhập của đất nước.

Việc giáo viên nhận thức càng sâu sắc điều kiện tạo hứng thú cho học sinh
học tin càng có nhiều giải pháp phù hợp.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Theo tôi muốn tác động đến các em phải hiểu được các em, vì vậy ngay từ
đầu năm học, bằng nhiều hình thức khác nhau tôi cố hiểu về các em xem các em
đang nghĩ gì, đang làm gì và cần cái gì:
4


- Một số đặc điểm lớp 11C1: Lớp có đầu vào cao của cả khối nhưng chỉ có
một số học sinh là học tốt (lí do là trường bán công chuyển đổi nên việc thu hút
học sinh mũi nhọn là tương đối khó khăn), đa số các em học theo các môn tự
nhiên, lớp có 17 nam, 23 nữ. Trong lớp sự chênh lệch trong học lực của các em
rất rõ ràng, mặc dù lớp đầu của khối nhưng lớp 10 vẫn có học sinh phải thi lại và
rèn luyện trong hè, giáo viên chủ nhiệm lớp có nhiều kinh nghiệm trong công
tác chủ nhiệm.
- Thông qua các khảo sát đầu năm: Tôi đưa ra một số câu hỏi để các em tích
vào như hình thức trắc nghiệm:
+ Để điều tra thái độ của các em với bộ môn tin học 11 tôi đưa ra câu hỏi “
Em có thích học tin học không?” thu được 40 câu trả lời:
Mức độ

Số HS
điều tra

Rất
thích

Thích


Bình
thường

Không thích

Số lượng

40

3

29

3

5

Phần trăm

100 %

7,5

72,5

7,5

12,5

+ Với câu hỏi “Theo em mức độ quan trọng của môn Tin học với bản thân

em” thu được kết quả như sau:

Mức độ

Số học
sinh
điều tra

Rất quan
trọng

Quan
trọng

Bình
thường

Không
quan trọng

Số lượng

40

24

5

6


3

Phần trăm

100%

60

12,5

15

7,5

Thông qua kết quả khảo sát tôi thấy đa số các em nhận định tin học là môn
học quan trọng, nhiều em thích, đam mê nhưng thực tế giảng dạy trên lớp tôi
thấy:
- Trong giờ học có các biểu hiện: Không tập trung nghe giảng, nói chuyện,
ngủ gật
- Ở nhà: gần như không học bài cũ, không đọc kiến thức mới

5


- Thái độ: nói là rất thích nhưng rất thờ ơ với môn tin, thích học trên phòng
máy
Như vậy tôi có thể nhận định đa số các em không có hứng thú với việc học tin
học.
Nguyên nhân của thực trạng đó:
Để tìm hiểu nguyên nhân tôi đưa ra một số câu hỏi khảo sát:

1. “Mục đích học tin học của em là gì?”, tôi thu được kết quả:

Mức độ

Số học sinh Vì sự đam
khảo sát


Để tiếp thu
kiến thức

Vì tương lai

Vì lí do
khác

Số lượng

40

4

8

15

13

Phần trăm


100 %

10

20

37,5

32,5

2. “Phương pháp giảng dạy của giáo viên môn Tin học hiện nay như thế nào”
Mức độ

Số học sinh
khảo sát

Rất lôi
cuốn

Tốt

Bình
thường

Tồi tệ

Số lượng

40


20

7

13

0

Phần trăm

100 %

50

17,5

32,5

0

Nhận xét
Qua đó chứng tỏ số các em nhận thức được mục đích học tập chủ yếu của
học sinh THPT hiện nay là để chuẩn bị cho tương lai nhưng chưa nhiều. Phương
pháp giảng dạy của giáo viên tốt nhưng chỉ nằm ở nửa học sinh còn một bộ phận
không nhỏ vẫn chưa lôi cuốn các em vào hoạt động học được.
Như vậy tôi kết luận nguyên nhân của việc học sinh không có hứng thú học:
- Nhiều em thích học nhưng xuất phát từ tâm lý coi môn tin học là môn phụ,
không là môn thi chính thức trong kỳ thi THPT Quốc gia nên học sinh không
chú ý học
- Chưa định hướng được tương lai do nhiều sinh viên học xong mà không có

việc làm và khá nhiều em vẫn có quan điểm là “học nấy chứ học nửa rồi cũng đi
làm công ty”
6


- Khó tập trung học tập do nhiều yếu tố bên ngoài tác động từ thời buổi kinh
tế thị trường, không giữ được ý chí quyết tâm học tập.
- Giáo viên giảng dạy thực chất vẫn chưa cuốn hút học sinh thật sự vào bài
giảng
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Đây là tổ hợp các giải pháp được áp dụng thường xuyên trong quá trình
mà tôi đã giảng dạy:
3.1 Giải pháp 1:
Tác động vào tư duy của các em về lập trình rằng mọi bài toán trong thực tế
đều được giải quyết bằng lập trình khi các em có thuật toán nhằm nâng cao sự
tò mò, muốn tìm hiểu tri thức và thấy được sự cần thiết của việc học
Để khẳng định điều đó tôi lấy một số ví dụ từ một số bài toán lập trình thường
gặp trong khi học nâng dần đến các bài toán sát thực tế cuộc sống cho các em:
Ví dụ 1:

Giải phương trình:

ax2 + bx + c = 0 Với các hệ số a, b, c thay đổi (a ≠ 0)
Ví dụ 2:

Liệt kê ra các số nguyên tố nhỏ hơn 100
Liệt kê các số nguyên tố từ 1000 đến 10000

Ví dụ 3: Cho tệp văn bản:
“Pascal

là ngôn ngữ thanh lịch .Nó vẫn tiếp tục tồn tại. Nó đã khởi
nguồn cho
không ít ngôn ngữ đàn em và có ảnh hưởng sâu sắc đến việc thiết
kế các ngôn ngữ lập trình nói chung” – (Trích SGK Tin 11)
Yêu cầu: Em hãy chuẩn hóa văn bản như trong yêu cầu soạn thảo một văn bản
đúng quy định đã học trong bài 16 SGK Tin học 10.
Ví dụ 4: Em hãy tìm hiểu hoạt động của một thư viện (thư viện trường). Xây
dựng phần mềm quản lý thư viện cho nhà trường.
Giáo viên phân tích một số ý để các em hình dung yêu cầu bài toán để thấy
được ý nghĩa của cần phải viết phần mềm. Không phân tích theo hướng sử dụng
một Cơ sở dữ liệu thông qua các bảng để lưu trữ thông tin của lớp 12.

7


Ví dụ 5: Phần mềm Unikey gõ tiếng Việt, Phần mềm tra từ điển tiếng anh Lạc
Việt, phần mềm diệt Virut Bkav, ...
Bằng một số ví dụ có thể đi đến kết luận rằng “Tin học nói chung và lập trình
nói riêng có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc sống hiện đại”. Có rất nhiều em
thích và đam mê nghành công nghệ, nếu làm tốt điều này ta sẽ nuôi được sự đam
mê cho các em để các em có thể có điều kiện để tiếp tục phát triển.
3.2 Giải pháp 2:
Dạy học dựa trên sự phân loại học sinh nhằm làm cho mọi học sinh luôn
trong trạng thái phải làm việc theo đúng năng lực của các em.
Theo tôi đây cũng là một cái vô cùng quan trọng đối với giáo viên bởi chúng
ta cần phải hiểu năng lực học sinh để dạy chứ không “cào bằng” tất cả đi để dạy
vì mỗi em có một trình độ khác nhau, khả năng tiếp thu kiến thức là khác nhau.
Do đặc thù tuyển sinh ở trường Đinh Chương Dương là trường bán công
chuyển sang, có cơ sở vật chất được đánh giá là một trong những trường phổ
thông kém nhất tỉnh nên việc thu hút học sinh là rất khó khó khăn đặc biệt là

cạnh tranh chất lượng. Mặc dù vậy cũng có một số học sinh khá giỏi ở trong lớp,
nên trong một lớp sự phân loại học sinh là khá rõ nét đặc biệt như lớp 11C1.
Các lớp khác nhau phải có các giáo án khác nhau nhưng ở đây ngay trong một
lớp giáo án giảng dạy cũng phải hướng vào các đối tượng khác nhau theo các
mức độ yêu cầu khác nhau.
+ Với học sinh học lực giỏi: Kích thích các em phát triển các ý tưởng của
thuật toán, thậm chí tự đặt ra các tình huống của bài toán so với bài toán gốc mà
thầy nêu. Cùng trao đổi với học sinh để giải quyết vấn đề đó, với đối tượng này
tuy ít nhưng cần trao truốt để các em không bị mất hứng đặc biệt luôn phải đưa
các em vào tình huống “Có vấn đề” để các em tư duy tránh nhàm chán hay học
sinh ngồi chơi không. Cần tranh thủ các giờ thực hành hoặc tiết bài tập giáo viên
cần chuẩn bị các bài tập cùng dạng về lập trình trong Sách bài tập Tin học 11 và
các đề thi học sinh giỏi các năm theo mức độ tăng dần để học sinh tiếp cận.
Nhưng cũng không được sa đà vào đối tượng này để số còn lại ngồi theo kiểu
“vịt nghe sấm”.
Ví dụ về bài toán gốc:
8


Khi dạy bài Bài tập và thực hành 5 tiết 28, 29 có bài tập số 2 như sau:
“Viết chương trình nhập vào từ bàn phím một xâu kí tự S và thông báo ra màn
hình số lần xuất hiện của mỗi chữ cái tiếng Anh trong S (không phân biệt chữ
hoa hay chữ thường)”
Với bài toán này giáo viên có thể hướng dẫn cả lớp theo định hướng của sách
giáo viên tin học 11 (gọi là phương pháp đếm phân phối).
Sau khi các em hiểu và thực hành được bài này thì có thể tiếp tục để các em
áp dụng vào các bài toán tương tự như:
1. Đếm và in ra màn hình số số kí tự khác nhau có trong xâu S (Bài 4.39 sách
bài tập tin 11)
2. Tìm bảng chữ cái tối thiểu tạo nên xâu S.

+ Với học sinh trung bình khá: Đây là số học sinh chủ yếu của lớp nên bài
giảng tập trung vào đối tượng này, yêu cầu các em nắm chắc kiến thức cơ bản,
học đến đâu chắc đến đó, sau đó đưa ra các bài tập củng cố kiến thức đó. Khích
lệ các em tiếp cận và nghiên cứu các bài tập ở trong sách Bài tập tin học 11.
Ví dụ: Cũng trong bài tập và thực hành 5, bài 1 có yêu cầu “Kiểm tra xâu có
phải là xâu đối xứng không. Xâu đối xứng có tính chất: đọc nó từ phải sang trái
cũng thu được kết quả giống như đọc từ trái qua phải”
- Thuận lợi: kiến thức về đối xứng đã có trong toán học: cơ bản các em đã
nắm được
- Xâu đối xứng là gì?
- Cần tạo xâu đảo ngược P (xâu đọc từ phải sang) để so sánh với xâu ban đầu
và đi đến kết luận.
- Viết lại chương trình trên trong đó không dùng biến xâu P.
+ Với các học sinh học lực yếu: Trong các giờ lý thuyết tranh thủ nhắc nhở
thêm cho các em, chỉ ra một số điểm cần lưu ý trong bài giảng để các em ghi
nhớ. Trong giờ bài tập cũng bài tập đó nhưng giảm mức độ yêu cầu cho một số
em này, tuyệt đối không để các em chán nản hay học mà không hiểu gì. Kiên trì,
nhẫn nại với các em, tìm ra cái các em biết, hiểu, làm được để khích lệ, biểu
dương dù là nhỏ.
9


Ví dụ: Tiết 21 bài tập phần mảng một chiều yêu cầu làm bài tập sau theo các
mức độ tăng:
Cho dãy a1,a2,… ,aN số tự nhiên ( 0< N <=10000; 0<= ai <= 60000 với
i=1,2, … ,N). Yêu cầu:
a) Nhập vào từ bàn phím mảng số nguyên trên và in ra màn hình mảng vừa
nhập
b) Hãy tính tổng các số của dãy
c) Cho biết số hạng lớn nhất trong dãy và vị trí cuối cùng của số hạng này

trong dãy
Về kiến thức thì sau khi học xong 2 tiết về mảng một chiều thi đa số các em
đã hiểu và có thể thực hiện. Lưu ý thêm:
Câu b) Với học sinh trung bình và yếu theo dõi và có thể gợi ý để các em phát
hiện ra công thức tính tổng của dãy:
S:=S+a[i];

với i thay đổi và thay đổi như thế nào

Câu c) Để tiếp tục gợi ra bài toán mức độ khó hơn cho các em học lực giỏi
trong lớp làm nhanh và xong sớm thì tiếp tục đặt vấn đề như sau:
“Yêu cầu tìm số hạng nhỏ nhất và chỉ được vị trí đầu tiên đạt giá trị nhỏ
nhất, vị trí cuối cùng đạt giá trị nhỏ nhất đó”
Cuối giờ học giáo viên tiếp tục giao bài tập với bài toán trên các em về nhà
làm cho thầy một số yêu cầu sau:
1. Đếm số lượng các số chẵn, các số lẻ có trong dãy (mục đích để tiết sau học
bài tập và thực hành 3)
2. Đưa ra màn hình các số là bội của k (k nguyên dương nhập vào từ bàn
phím)
3. Đưa ra màn hình các số là số nguyên tố có trong dãy số trên (nhằm tăng
tính tò mò của học sinh giỏi – như một hướng cho các tự tìm hiểu và nhu cầu
tiếp tục học để giải quyết nhanh gọn yêu cầu này: chương trình con)
3.3 Giải pháp 3: Hướng dẫn cho các em hiểu thuật toán
Đây là vấn đề của việc học lập trình, nếu các em làm được mới ham, hiểu
được mới thích. Thực tế về mặt thuật toán thì bắt đầu từ tiết 11 – Cấu trúc rẽ
10


nhánh mới viết các chương trình cụ thể yêu cầu về tư duy thuật toán và toàn bộ
các chương trình trong chương 3 và 4 SGK Tin học 11 các em chỉ triển khai

bằng ngôn ngữ lập trình cho các thuật toán đã biết và được nghiên cứu trong bài
4 – SGK Tin học 10. Vì vậy từ trước khi các em viết chương trình giáo viên cần
cho các em viết lại các thuật toán này như các bài tập ở nhà trước đó:
1. Thuật toán giải phương trình bậc nhất, bậc hai
2. Tính tổng các số trong một dãy số
3. Thuật toán tìm số lớn nhất của dãy số nguyên
4. Thuật toán kiểm tra tính nguyên tố của một số nguyên dương
5. Thuật toán sắp xếp bằng tráo đổi
6. Thuật toán tìm kiếm tuần tự
Làm thế nào để các em hiểu thuật toán thì cần minh họa bằng các ví dụ rất cụ
thể và dần dần từng bước một, cần cái gì thì đi tìm, tính toán cái đó dựa vào sự
khéo léo trong phương pháp truyền đạt của giáo viên ở từng bài toán.
Khi hiểu được thuật toán thì cần kỹ năng diễn đạt thuật toán bằng ngôn ngữ
lập trình. Nên chú ý các tránh một số lỗi thường gặp khi soạn thảo chương trình
trên máy ngay từ những chương trình đầu tiên.
Trong quá trình các em xây dựng thuật toán cần lưu ý với các em 2 điểm đối
với những học sinh học lực giỏi và khá của lớp 11C1:
Một là: với mỗi bài toán cần xác định đúng yêu cầu của bài toán (input và
ouput), chú ý đến giới hạn của dữ liệu vào (ví dụ N là integer hay word, longint
thậm chí vượt qua cả dữ liệu longint) để khai báo dữ liệu, lựa chọn thuật toán tối
ưu.
Hai là: Với mỗi bài toán khi tiếp cận có thể đưa về các bài toán quen thuộc đã
gặp gọi là “quy lạ về quen” hoặc chia nhỏ bài toán thành các bài toán nhỏ hơn
để giải quyết gọi là “chia để trị”.
3.4 Giải pháp 4: Tăng cường đổi mới phương pháp giảng dạy
Đây là vấn đề thường xuyên của giáo viên nếu muốn duy trì hứng thú của các
em đối với bài giảng. Bởi nó thường xuyên nên theo tôi đánh giá nó là “khó”,
vậy nên tôi có một số kinh nghiệm và muốn đề xuất như sau:
11



- Luôn tích lũy, trao dồi liên tục kinh nghiệm giảng dạy: với mỗi tiết dạy ta
đều phải rút ra được kinh nghiệm giữa cái được và cái chưa được. Không ai dám
khẳng định rằng tôi dạy tiết này thành công, cũng tiết này sang lớp khác cũng
thành công.
- Tăng cường giảng dạy trên phòng máy và máy chiếu, sử dụng giáo án điện
tử: Phần đa học sinh thích học trên phòng máy, nhưng hiện nay nhà trường có 02
phòng máy, mỗi phòng máy có 27 đến 28 máy gồm 04 giáo viên giảng dạy. Như
vậy tất cả các giáo viên cần đăng ký lịch dạy phòng máy theo tuần, tránh trường
hợp trùng tiết hoặc có lớp được học nhiều, lớp được học ít. Khi dạy trên phòng
máy cần phải:
+ Quản lí lớp tốt, phát huy lớp tự quản và ban cán sự của lớp
+ Nên dùng cả máy chiếu để hướng dẫn các em
+ Yêu cầu các em phải làm bài tập ở nhà
+ Thường xuyên theo sát tiến trình các em làm trên máy, chấm điểm và nêu
gương những học sinh ý thức tốt, làm việc hiệu quả, hoàn thành chương trình
nhanh nhất, xử lý bài toán tốt nhất (tốc độ, dữ liệu vào).
- Tăng cường dự giờ để học hỏi chuyên môn, rút kinh nghiệm: Những lớp học
có giáo viên đến dự giờ cũng sẽ sôi nổi, ý thức học tập của các em được nâng
cao. Đây là điều kiện thuận lợi để phát huy được sự sáng tạo trong quá trình
giảng dạy và cũng là một biện pháp quan trọng giúp giáo viên chuẩn bị đầy đủ
kiến thức và hồ sơ, sổ sách trước khi đến lớp, tránh được tình trạng dạy chay,
thiếu sự chuẩn bị.
- Trong mỗi bài giảng, xác định rõ kiến thức cơ bản, trọng tâm, kiến thức khó,
hay sai lầm mà các em thường gặp phải.
Ví dụ 1:
Dạy chương VI chương trình con và lập trình có cấu trúc phải làm được:
+ Giúp ra cho học sinh thấy sự khác biệt của hàm và thủ tục;
+ Bài toán như thế nào thì chọn hàm, như thế nào chọn thủ tục, cụ thể bài toán
+ Phần các biến và tham số trong chương trình con: có 2 loại biến (biến toàn

cục, biến cục bộ) và 4 loại tham số (tham số hình thức, tham số thực sự, tham trị
12


và tham biến). Vậy để phân biệt nó lấy ví dụ một chương trình chứa cả 2 loại
biến và 4 loại tham số này đề chỉ ra nó giúp các em thấy được sự khác nhau giữa
chúng.
+ Truyền tham số trong chương trình con: phần này chỉ nói không thì các em
sẽ mơ hồ, vậy nên khai thác tốt chương trình Hoan_doi trong SGK trang 99, 100
làm ví dụ và hướng dẫn ngay trên máy chiếu để các em thấy được sự thay đổi
giá trị của giá trị a,b khi in ra khi thay đổi hai biến x, y là các tham số biến hay
tham số trị.
Ví dụ 2: Khi học sinh mới tiếp cận với cấu trúc câu lệnh thì luôn nhắc nhở các
em cấu trúc câu lệnh như một công thức toán lý hóa, vì vậy phải đảm bảo đúng
không thừa cũng không thiếu dù chỉ là dấu câu.
Ví dụ 3: Khi học sinh bắt đầu viết chương trình yêu cầu các em viết các câu
lệnh con thụt vào vài kí tự (1 tab) để dễ quản lí chương trình.
- Không tham kiến thức: trước khi soạn giáo án xem lại chuẩn kiến thức kỹ
năng và kiến thức giảm tải, luôn đảm bảo kiến thức “vừa sức” với học sinh. Với
tổng số 26 tiết bài tập và thực hành, ôn tập (chiếm 50% tổng số tiết) nên căn cứ
vào khả năng tiếp thu của học sinh để ôn tập tránh trường hợp thầy nói thầy
nghe hoặc trong lớp có vài học sinh hiểu.
- Kết hợp trong giảng dạy là các bài học về giáo dục: điều này không bắt
buộc nhưng trong giảng dạy công nghệ thông tin nên kết hợp giáo dục sử
dụng công nghệ thông tin trong cuộc sống sao cho có văn hóa và đúng quy
định của pháp luật. Đồng thời có thể nêu gương một số học sinh xuất sắc
của trường như anh Lê Văn Minh đạt giải ba môn Tin học cấp tỉnh lớp
11C1 năm học 2012-2013 hiện nay học trường Lục quân, anh Hoàng Ngọc
Dũng giải ba Quốc gia môn Vật lý lớp 12C1 năm học 2013-2014 đang học
Bách khoa,... Một số người Việt nam thành đạt trong nghành công nghệ

như Nguyễn Hà Đông với trò chơi Flappy Bird, Nguyễn Tử Quảng với
phần mềm diệt virut Bkav, người Việt Nam làm việc cho các tập đoàn
Microsoft, Google ... để các em thấy đó là những người gẫn gũi, bình
thường mà họ vẫn thành công.
3.5 Giải pháp 5:
13


Đa dạng hình thức kiểm tra đánh giá nhằm thúc đẩy hoạt động dạy và học.
Các bài kiểm tra định kỳ theo quy định: kiểm tra cuối kỳ và kiểm tra 45 phút
thì một số bài kiểm tra thường xuyên (kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút) giáo
viên cần kết hợp nhiều hình thức kiểm tra và đánh giá học sinh như:
- Giáo viên đánh giá học sinh
- Học sinh đánh giá lẫn nhau
- Học sinh tự đánh giá
Đánh giá có vai trò quan trọng trọng việc tạo động lực để các em học tập, để
các em học tốt chứng minh cho mọi người thấy kết quả học tập của mình, để
những bạn học yếu soi lại kết quả học tập, do đó kiểm tra đánh giá phải đảm
bảo:
- Xác định rõ mục đích của việc kiểm tra đánh giá
- Phải chính xác, công bằng, khách quan
- Có độ tin cậy cao
- Dựa vào đặc thù môn tin học
Khi kiểm tra đánh giá lưu ý một số điểm như sau:
- Các bài kiểm tra định kỳ cần nằm trong kế hoạch kiểm tra, có ma trận đề, có
nhắc nhở các em chuẩn bị trước. Luôn đảm bảo 100% các bài kiểm tra định kỳ
có nhắc các em chuẩn bị, có hệ thống câu hỏi bài tập để các em ôn tập bởi mỗi
lần như thế lại thêm một lần các em cố gắng. Không tạo cảm giác nặng nề hay
áp lực cho các em trước bài kiểm tra mà tạo cảm giác cho các em muốn kiểm tra
kiến thức của bản thân, chứng tỏ sự tiến bộ của mình với mọi người.

- Hệ thống câu hỏi bài tập chính xác, khoa học, có phân loại học sinh.
- Với kiểm tra viết (tự luận hoặc tự luận kết hợp trắc nghiệm): trong khi chấm
phải sửa bài, có lời phê. Lời phê của giáo viên hết sức quan trọng bởi đó là tâm
tư, niềm tin, sự hy vọng của giáo viên, đó cũng là sự ghi nhận tiến bộ, khả năng
tiếp thu kiến thức của các em nhưng đồng thời phải chỉ ra được cái thiếu, sai hay
hạn chế của các em để các em khắc phục
- Với các hình thức kiểm tra miệng: Không hỏi dồn học sinh, hỏi rõ ràng ý.
Nếu học sinh trả lời tốt nên hỏi thêm câu hỏi bổ sung để tăng điểm cho học sinh,
14


nếu học sinh không trả lời tốt nên hạ thấp yêu cầu. Trường hợp các em không
thuộc bài nếu có thời gian nên cho các em cơ hội lần sau để các em tiếp tục cố
gắng đồng thời cương quyết với những em cố tình chây lỳ, không học bài, ý
thức học trên lớp kém.
- Với hình thức kiểm tra để các em đánh giá lẫn nhau hoặc tự đánh giá sẽ mất
khá nhiều thời gian nên thường chúng ta ít quan tâm nhưng trong một số thời
điểm, một số trường hợp cũng cho kết quả khá khả quan. Nhưng lưu ý giáo viên
cần chọn học sinh biết để tự đánh giá và biết đánh giá bạn khác, không được để
các em đánh giá nhận xét tràn lan, không đảm bảo yêu cầu của kiểm tra đánh
giá.
3.6 Giải pháp 6:
Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của học sinh trong các giờ học
Việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ học không chỉ một lần mà phải rèn
luyện thường xuyên từ phút đầu đến phút cuối giờ học. Hơn nữa phải làm cho
mức độ hứng thú ngày càng tăng đến nỗi các em không để ý thời gian trôi đi
nhanh chóng và khi giờ học kết thúc học sinh vẫn còn cảm thấy luyến tiếc. Để
làm được điều này tôi có một số kinh nghiệm như sau:
- Áp dụng các giải pháp đã nêu và thay đổi liên tục ở các thời điểm khác
nhau.

-

Luôn dành thời gian đê hiểu, nắm được sự phát triển của em.

- Mọi vấn đưa ra phải nằm trong “tầm nhận thức” của các em, nghĩa là các
em có tư duy được về vấn đề đó.
- Trong mỗi tiết dạy hay mỗi chương, mỗi bài toán đều đưa các em vào “tình
huống có vấn đề” để các em suy nghĩ.
- Sau mỗi bài học lại tiếp tục đưa ra một vấn đề và chỉ bài học sau học mới
giải quyết được hoặc hôm sau ta sẽ tiếp tục làm rõ vấn đề này.
- Luôn tạo động lực để các em tiếp tục học và phấn đấu
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:

15


Kết quả đạt được của học sinh: Kể từ khi áp dụng SKKN tôi kiên trì áp dụng
triệt để các giải pháp đã nêu, đan xen giữa các hình thức để tạo sự hứng thú đó
và qua theo dõi học sinh theo các mốc thời gian bắt đầu từ 3 tuần đầu (khi áp
dụng SKKN) đến giữa học kỳ 1, kết thúc học kỳ 1, giữa học kỳ 2, kết thúc năm
học tôi nhận thấy qua mỗi lần các em đều cho thấy sự tiến bộ, nhiều em cho thấy
sự tiến bộ đều một cách ổn định:
Giữa học kỳ 1 không có học sinh nằm gục xuống bàn, đa số chăm chú nghe
giảng, ít nói chuyện, ít làm việc riêng trong các giờ học lý thuyết. Qua kiểm tra
bài cũ các em đã có ý thức học và làm ở nhà nhưng chất lượng chưa cao, đã có
sự hỏi han bài lẫn nhau trong cách học với tâm thế học vì thầy yêu cầu. Tồn tại:
lớp 11C1 còn em Ngô Văn Thuyên và Nguyễn Văn Thanh hay ngồi mạc lại nét
chữ trong SGK, vẫn còn một số vở ghi nhưng chưa đầy đủ, cấu trúc câu lệnh
thiếu.

Cuối học kỳ 1: Các em đều chăm chú nghe giảng, 100% ghi bài đầy đủ, phát
biểu bài tích cực, học và làm bài ở nhà khá tự giác, có làm các bài tập mà thầy
giao trên lớp tùy theo năng lực của từng học sinh, một số em có đọc các bài tập
trong sách bài tập tin, không có học sinh vi phạm nề nếp trong các tiết dạy.
Giữa học kỳ 2: Với các bài toán đã làm trên lớp đa số các em viết lại tốt, có áp
dụng với các bài toán cùng dạng, chuyển các bài toán từ việc nhập dữ liệu vào từ
bàn phímvà ghi dữ liệu ra ngoài màn hình thành các bài dọc dữ liệu từ tệp và ghi
dữ liệu vào tệp. Có nhiều em tìm và giải các bài toán mà các em tìm được ở các
nguồn tài liệu và trên mạng. Trong các tiết học khá sôi nổi, có sự tranh luận về
bài toán, khả năng phán đoán các bài toán gốc, tìm các thuật toán tối ưu đều
được các em giải quyết. Nhiều học sinh hỏi các bài toán trong sách bài tập hơn,
đặc biệt có một số em được thầy giúp đỡ đã tiếp cận sâu với các đề thi học sinh
giỏi của các tỉnh như em Hoàng Vân Anh, Phạm Hải Đường, Phạm Văn Huy,
Nguyễn Văn Tú, Nguyễn Thanh Quân.
Cuối năm học:
+ Trên lớp: 100 % học sinh trong lớp làm được các yêu cầu trong SGK, 100
% chăm chú nghe giảng và xây dựng bài, không có học sinh vi phạm nề nếp.
+ Học và làm bài theo đúng yêu cầu của giáo viên, số lượng học sinh tìm
thêm các nguồn tài liệu ngoài SGK để làm có tăng thêm
16


+ Chất lượng đại trà: một số học sinh thực hiện được sự nâng bậc từ Trung
bình lên khá, từ khá lên giỏi.
+ Chất lượng mũi nhọn: số học sinh đạt học sinh giỏi cấp Tỉnh tăng lên so với
các năm học trước.
Năm học 2015 – 2016: có 02 giải (01 giải nhì và 01 giải ba) lớp 11C1
Năm học 2014 – 2015: có 01 giải ba lớp 11B1
Năm học 2013 - 2014: có 02 giải khuyến khích lớp 11A1
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ:

1. Kết luận:
Hứng thú học tập là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc học, tạo được
hứng thú trong học tập cho học sinh là giáo viên đã thành công được hơn nửa
vấn đề. Một giáo viên dạy giỏi không những giỏi về chuyên môn mà còn phải
biết truyền lửa cho các em để các em định hướng được việc học, là một nhà tâm
lý để hiểu và uốn nắn các em đi đúng hướng, là một tấm gương và học tập và lao
động để các noi theo. Với mục đích tạo hứng thú học tập cho các em, giáo viên
có thể có nhiều giải pháp khác nhau sao cho phù hợp với đối tượng học sinh đó
và sự tiến bộ của học sinh là thước đo cho giải pháp đó. Mặc dù chủ quan nhưng
qua các tiết học tôi thấy nhiều học sinh cũng hào hứng với phương pháp giảng
dạy của mình nên cũng là nguồn động viên để bản thân tôi tiếp tục công việc.
Với kinh nghiệm ít ỏi những năm trong nghề mà tôi tích cóp được, tôi mạnh
dạn trình bày thông qua bài viết này, trong bài viết cũng còn nhiều thiếu xót rất
mong được đồng nghiệp, bạn đọc góp ý để cùng với các thầy cô dạy dỗ được
những học trò đủ đức, đủ tài, có ước mơ hoài bão để các em tiếp bước lịch sự
dân tộc, góp phần vào xây dựng quê hương, đất nước chúng ta.
2. Kiến nghị:
Với hội đồng khoa học nhà trường:
Tiếp tục chỉ đạo sát sao công tác làm đồ dùng dạy học và viết sáng kiến kinh
nghiệm, không sao chép hay làm hình thức.

17


Mỗi năm, những sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao, có tính thực tiễn,
khoa học được tổ chức xemina trong các hội thảo cấp trường hoặc các buổi sinh
hoạt chuyên môn cấp tổ.
Với Sở giáo dục:
Tiếp tục đưa các sáng kiến kinh nghiệm, đồ dùng dùng dạy học của cán bộ
giáo viên trong tỉnh lên các diễn đàn làm tài liệu tham khảo.

Tiếp tục tổ chức hội thảo và triển khai công tác chuyên môn như đợt tập huấn
tháng 10/2015 ở thị xã Sầm Sơn.
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm2016

HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Phạm Thế Dũng

Nguyễn Văn Nhiên

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hồ Sĩ Đàm, Sách giáo khoa Tin học 10,11, 12 NXB GD
[2] Hồ Sĩ Đàm, Sách giáo viên Tin học 10,11, 12 NXB GD
[3] Hồ Sĩ Đàm, Bài tập Tin học 10, 11 NXB GD
[4] Quách Tất Kiên, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kỹ năng môn
Tin học THPT NXB GD
[5] Tan, C., Tài liệu tập huấn Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. Dự
án Việt Bỉ - Bộ GD&ĐT, 2008.
[6] Website mục Sáng kiến kinh nghiệm

19




×