Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

“ ảnh hưởng của quốc tế cộng sản đối với cách mạng việt nam ( giai đoạn 1919 – 1943)”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.01 KB, 33 trang )

Mục Lục

LỜI MỞ ĐẦU
Quốc tế Cộng sản là một tổ chức cách mạng quốc tế rộng lớn nhất, là một
Đảng Cộng sản thế giới. Gắn liền với Quốc tế Cộng sản là cả một quá trình lịch sử
hình thành, phát triển và củng cố phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong
trào giải phóng dân tộc. Là trung tâm nghiên cứu một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin, Quốc tế Cộng sản đã đánh bại các khuynh hướng hữu và tả khuynh trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin và gắn chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân trên phạm vi thế
giới. Quốc tế Cộng sản đã chỉ đạo giúp đỡ việc thành lập các đảng cộng sản ở các
nước theo kiểu mới; đã xác định đường lối chiến lược và sách lược cho phong trào
cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc. Những đường lối của Quốc
tế Cộng sản như: Thành lập mặt trận thống nhẩ giữa các lực lượng chống chủ nghĩa
đế quốc, chống chiến tranh; không ngừng mở rộng và củng cố tình đoàn kết giữa
các giai cấp công nhân các nước trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế vô sản; kết hợp lợi
ích dân tộc với giai cấp, gắn lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế một cách chặt chẽ
và đúng đắn, chống mọi khuynh hướng vị kỷ dân tộc và sôvanh; về vai trò lãnh đạo
của những người cộng sản trong phong trào cách mạng và về tính độc lập không
được hòa lẫn của những người cộng sản khi tham gia các phong trào… là những
vấn đề vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.
Quốc tế Cộng sản đặc biệt chú ý đến cách mạng giải phóng dân tộc. Phát
triển những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và


thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã xác định nội dung, tính chất, động lực, phương
hướng và tiền đồ của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại mới phù hợp với
quy luật phát triển khách quan của lịch sử. Quốc tế Cộng sản không chỉ giúp đỡ
phong trào giải phóng dân tộc bằng đường lối cách mạng đúng đắn, mà còn bằng
hành động cách mạng thực sự: đào tạo cán bộ cho các đảng cộng sản ở các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa, hỗ trợ tài chính, tăng cường mối quan hệ quốc tế thúc


đẩy cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước phương Đông phát triển.
Đối với cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có ảnh hưởng và đóng góp
vô cùng quan trọng. Từ năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái
Quốc đã khẳng định: “ An Nam muốn cách mạng thành công, thì tất phải nhờ Đệ
tam Quốc tế”. Cách mạng Việt Nam ngay từ đầu đã vận động trong mối quan hệ
mật thiết với Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước
dưới ánh sáng đường lối của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã trực tiếp giúp
đỡ thành lập Đảng, đào tạo cán bộ, chỉ đạo về đường lối chiến lược, sách lược, ủng
hộ phong trào cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn chặt
với đường lối cách mạng triệt để của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc
địa. Từ những lý do trên Tôi xin chọn đề tài: “ Ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản
đối với cách mạng Việt Nam ( Giai đoạn 1919 – 1943)” để khẳng định sự đóng
góp quan trọng của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam và góp phần
nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời
quan nghiên cứu thấy rõ bản lĩnh cách mạng, sự lãnh đạo đúng đắn, tính chủ động,
sáng tạo của Lãnh tụ Hồ Chí Minh và của Đảng trong cách mạng giải phóng dân
tộc. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong quan hệ hợp tác quốc tế. Điều đó có ý
nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, nhất là
trong quá trình chúng ta đang tiến hành hội nhập Quốc tế.


Chương I. Những vấn đề lý luận về đường lối dân tộc và thuộc địa của
Quốc tế Cộng sản.
1.1.

Thành lập Quốc tế Cộng sản

Sau khi Ănghen mất ( năm 1985), cơ quan lãnh đạo của Quốc tế II dần dần
rơi vào tay các lãnh tụ cơ hội. Họ công khai xét lại chủ nghĩa Mác và thỏa hiệp một
cách vô nguyên tắc với giai cấp tư sản. Vì vậy, ngay sau khi chiến tranh thế giới

lần thứ nhất vừa mới nổ ra, trong tác phẩm Chiến tranh và phong trào dân chủ - xã
hội Nga, viết tháng 11 – 1914, V.I.lênin đã nêu rõ sự cần thiết thành lập một quốc
tế mới, cách mạng. Từ đó, V.I.Lênin đã khẩn trương chuẩn bị cơ sở lý luận và công
tác tổ chức để hoàn thành nhiệm vụ trọng đại này. Sự sụp đổ của Quốc tế II diễn ra
cùng với những loạt sung đầu tiên của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bắt
đầu từ tháng 8 – 1914. Cuộc chiến tranh mang tính chất đế quốc từ cả hai phía đã
được dùng làm sự kiểm nghiệm nghiệt ngã tất cả các khuynh hướng tồn tại lúc bất
giờ trong phong trào công nhân quốc tế, lột trần sự phá sản về tư tưởng – chính trị
của Quốc tế II, đã phơi bày toàn bộ sự biế chất của phần lớn các đảng xã hội – dân
chủ.
Ngày 4-8-1914, tất cả các đại biểu của Đảng Xã hội – dân chủ Đức – đảng
mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất của Quốc tế II, cùng với các đại biểu của giai cấp
tư sản và địa chủ biểu quyết ở nghị viện Đức, ủng hộ ngân sách chiến tranh. Các
đảng xã hội chủ nghĩa ở áo, Hung, Pháp, Anh, Bỉ và hàng loạt nước khác ủng hộ
chính phủ “ mình” trong cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa. Điều đó chứng tỏ
rằng các thủ lĩnh cơ hội đã công khai chuyển sang phía giai cấp tư sản dân tộc “
mình”, phản bội lại quyền lọi của giai cấp công nhân. Trong thời gian chiến tranh,
phong trào công nhân quốc tế và phong trào xã hội chủ nghĩa đã hình thành ba phái


khác nhau: Phái chủ nghĩa xã hội – sôvanh, phái giữa và phái cách mạng – quốc tế
chủ nghĩa.
Sự phản bội nhục nhã của các lãnh tụ các đảng xã hội – dân chủ đối với chủ
nghĩa Mác, đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản và đoàn kết quốc tế vô
sản, sự chia rẽ Quốc tế II thành những đảng thù địch lẫn nhân – những đảng đó đã
tiến hợp với chính phủ đế quốc mình – những điều đó đã chứng minh sự phá sản
hoàn toàn về tư tưởng và tổ chức của Quốc tế II, về sự chấm dứt sự tồn tại của
Quốc tế II, như một tổ chức vô sản quốc tế. Như vậy, khôn phải những người
bônsêvích và V.I.Lênin làm tan rã Quốc tế II như những kẻ chống cộng khẳng định
mà chính là những kẻ xã hội – sôvanh, những kẻ cơ hội đã phá hoại sự thống nhất

trong phong trào công nhân quốc tế. Sự phá sản của Quốc tế II biểu hiện nổ bật
nhất trong việc số đông các đảng dân chủ - xã hội chính thức ở châu Âu phản bội
một cách hèn hạ niềm tin của họ và những nghị quyết mà họ đã trịnh trọng thông
qua ở Stutga và Balơ.
Phong trào vô sản thế giới đặt trước sự lựa chọn: hoặc là từ bỏ những mục
tiêu cách mạng và chuyển sang con đường thỏa hiệp với giai cấp tư sản, hoặc kiên
quyết đoạn tuyệt với chủ nghĩa xã hội – sôvanh, đoàn kết tất cả lực lượng cách
mạng và quốc tế và thành lập Quốc tế mới, có khả năng tiếp tục những truyền
thống cách mạng vẻ vang đã được những người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân
là C.Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng. Bởi vì thời đại mới, những nhiệm vụ cách
mạng lớn lao đứng trước giai cấp vô sản đòi hỏi không cải tổ lại Quốc tế cũ đã bị
phá sả, mà đòi hỏi sự thành lập một tổ chức Quốc tế mới. Tổ chức đó có khả năng
khôi phục tính chất Quốc tế của phong trào vô sản và đưa công nhân vào cuộc tiến
công chế tộ tư sản. Nhấn mạnh ý tưởng này V.I.Lênin viết: “ Quốc tế III có nhiệm
vụ tổ chức những lực lượng của giai cấp vô sản nhằm tiền công cách mạng vào các
chính phủ tư bản cchur nghĩa, nhằm tiến hành nội chiến chống giai cấp tư sản tất cả


các nước để giành chính quyền, để cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Những kết luận
lý luận của V.I.Lênin. của Đảng Bônsêvích được kiểm nghiệm và được làm phong
phú hơn trong tiến trình đấu tranh giai cấp, trong những điều kiện phức tạp khác
nhau là một đóng góp quan trọng vào sự hình thành đường lối tư tưởng – chính trị
và tổ chức của Quốc tế Cộng sản.
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười làn thay đổi tình hình quốc tế và tạo
điều liện để thành lập Quốc tế III. Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười,
phong trào cách mạng đã lan ra khắp thế giới tư bản: Phần Lan, Đức, Áo, Hung…
nhờ đó quá trình hình thánh các đảng cộng sản đã được đẩy mạnh. Tháng 1 – 1918
thành lập Đảng Quốc thế - xã hội chủ nghĩa Áchentina, đến cuối năm 1920 đổi tên
thành Đảng Cộng sản Áchentina. Vào nửa sau năm 1918, các đảng cộng sản được
thành lập ở Phần Lân , Áo, Hà Lan, Hung, Đức. Các nhóm, các tổ chức cộng sản

được hình thành trong những năm 1918 – 1919 ở Tiệp Khắc, Rumani, Italia, Trung
Quốc…. Trong những điều kiện trên, việc thành lập Quốc tế Cộng sản trở nên vô
cùng cấp thiết, Quốc tế mới càn phải thúc đẩy nhanh sự hình thành các đảng cách
mạng kiểu mới để lãnh đạo cuộc đấu tranh thúc đẩy nhanh sự hình thành các đảng
cách mạng kiểu mới để lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp đang phát triển, để trang
bị cho những người cách mạng phương Tây những kinh nghiệm thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười, để tổ chức sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người vô
sản tất cả các nước với nước Nga Xô Viết, với phong trào giải phóng dân tộc.
Tuy tồn tại các đảng và những nhóm cách mạng mác xít ở các nước khác
nhau nhưng trừ Đảng Bônsêvích , không có đảng mác xít nào có khả năng đoàn kết
và tổ chức Quốc tế mới. Thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó, tháng 1 – 1918, Hội
nghị quốc tế lần thứ nhất họp ở Pêtơrôgrat để chuẩn bị thành lập Quốc tế III. Một
năm sau tháng 1 – 1919, Hội nghị quốc tế làn thứ hai họp ở Mátxcơva. Hội nghị
thứ nhất thông qua đề nghị của V.I.lênin về việc triệu tập Đại hội thành lập Quốc tế


III trong thời gian gần nhất. Để lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, Đại hội quyết định
thành lập Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản.
Những văn kiện được Đại hội I thông qua đã đề ra cho giai cấp vô sản quốc
tế một chương trình chiến đấu vì chính quyề cách mạng, xác định những phương
hướng chủ yếu của chiến lược, sách lược của các đảng coojg sản. Tư tưởng đoàn
kết chiến đấu chống đế quốc giữa giai caaso công nhân các nước tư vản với nhân
dân bị áo bức ở phương Đông và chuyên chính vô sản ở nước Nga Xôviết được thể
hiện trong tính chất của Quốc tế Cộng sản, như một tổ chức đoàn kết thực sự tất cả
các dân tộc và các chủng tộc, không chỉ từ các nước đi áp bức, mà đặc biệt quan
trọng, cả ở những nước bị áp bức. Đó là điều khác cơ bản giữa Quốc tế III với
Quốc tế I và Quốc tế II.
Quốc tế Cộng sản được thành lập đã đáp ứng được những yêu cầu cấp bách
của những người Mácxít chân chính, tạo điều kiện thuận lợi cho phogn trào cộng
sản công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc tiến lên một giai đoạn phát

triển mới. Đó là thắng lợi vĩ đjai của phong trào cộng sản, công nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc bị áp bức trên khắp năm châu.
1.2.

Đường lối dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản

Vấn đề dân tộc và thuộc địa là một trong những vấn đề quan trọng trong
chương trình nghị sự, được Quốc tế Cộng sản rất chú ý. Về mặt lý luận, hầu như
đại hội nào của Quốc tế Cộng sản cũng đề bàn đến vấn đề này. Ngay tại Đại hội
thành lập, vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được xếp và hàng những vấn đề quan
trọng nhất. Quốc tế Cộng sản giai cho mình nhiệm vụ phải thường xuyên thực hiện
được mối quan hệ chặt chẽ giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản các nước đế
quốc với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa và
nửa thuộc địa.


Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản gửi những người vô sản toàn thế giới đã
tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc với các nước bị áp bức và chỉ ra rằng: “ Chỉ có
cách mạng vô sản mới có thể đảm bảo cho các dân tộc nhỉ yếu được sống tự do, vì
nó giải phóng lực lượng sản xuất của tất cả các nước khỏi sự kìm kẹp của các quốc
gia dân tộc … và đem lại cho các dân tộc nhỏ yếu nhất và ít người nhất khả năng
điều khiển các công việc của nền văn hóa dân tộc mình một cách tự do và độc lập”.
Tuyên ngôn lên án một cách kiên quyết và nghiêm khắc sự áp bức các đế quốc ở
các thuộc địa. Tuyên ngôn còn chỉ ra phong trào cách mạng ở các thuộc địa: Đã có
hàng loạt cuộc khởi nghĩa công khai và tinh thần cách mạng lan rộng trong tất cả
các thuộc địa. Tuyên ngôn khẳng định vấn đề thuộc địa được đặt ra một cách toàn
diện không chỉ ở trên các bản đồ của hội nghị ngoại giao ở Pari, mà cả ở trong
chính các thuộc địa.
Tuyên ngôn là tư tưởng và đường lối chỉ đạo cho các đảng cộng sản. Nó có ý
nghĩa cơ bản và lâu dài trong cuộc đấu tranh chung của giai cấp vô sản các nước và

các dân tộc bị áp bước liên minh với nhau lật đổ chủ nghĩa đế quốc, thiết lập
chuyên chính vô sản.
Đại hội II của Quốc tế Cộng sản khai mạc ngày 19-7-1920 Pêtơrôgrát, từ
ngày 23-7 thì chuyến đến Mátcơva và kết thúc ngày 7-8-1920. Vấn đề dân tộc và
thuộc địa chiếm vị trí cực kỳ quan trọng trong Đại hội và được xem xét ở Đại hội
như một vấn đề quốc tế, nhất là vấn đề về vị trí và vai trò của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân bị áp bức trong phong trào cách mạng thế giới. Đại hội
đã nghe báo cáo của Ủy ban về vấn đề dân tộc và thuộc địa do V.I.lênin trình bày
và ngày 27-8- 1920, thông qua luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
gồm 12 diểm. Ngày 29-7-1920, đại hội thông qua luận cương bổ sung về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa gồm 9 điểm. Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa là văn kiện tổng kết quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về hai vấn


đề đó trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Luận cương
đề ra chương trình hành động cho các đảng cộng sản và phong trào giải phóng dân
tộc đi đến thắng lợi. Luận cương đề ra nhiệm vụ cụ thể của các đảng cộng sản phải
giúp phong trào giải phóng dân tộc ở các nước và các dân tộc còn lạc hậu, giúp họ
đấu tranh chóng những ảnh hưởng phản động và tôn giáo, chống các tàn dư của
chế độ phong kiến.
Quốc tế Cộng sản chủ trương giai cấp vô sản các nước thuộc địa phải nắm
lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, phải có sách lược đoàn kết và
hợp tác với các lực lượng dân tộc – cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc rồi tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bản luận cương bổ
sung đã nêu ở những giai đoạn đầu tiên của mình, cách mạng thuộc địa không phải
là cách mạng cộng sản chủ nghĩa,… cách mạng ở thuộc địa cần phải tiến hành theo
cương lĩnh gồm nhiều cuộc cải cách có tính chất tiểu tư sản, như chia ruộng đất…
Một số đảng cách đây không lâu còn thuộc Quốc tế II, nay muốn gia nhập
Quốc tế III, nhưng họ vẫn thực hiện chính sách của phái cơ hội và phái giữa. Vì
vậy, ngày 6-8-1920, Đại hội II thông qua quyết định Những điều kiện kết nạo và

Quốc tế Cộng sản gồm 21 điều quy định chặt chẽ những nguyên tắc tổ chức để
đảm bảo cho sự thống nhất tập trung về tư tưởng và chính trị. Đó là một thắng lợi
của Quốc tế III, Quốc tế hành động cách mạng thực sự, chống lại những quan điểm
cơ hội, nói suông, tàn dư của Quốc tế II. Đại hội II của Quốc tế Cộng sản đóng vai
trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa
trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc và thời kỳ đấu của quá trình từ chủ nghĩa tư bản
sang chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, Đại hội II Quốc tế Cộng sản ở Mátcơva năm 1920 đã hoàn thành
việc thống nhất tất cả quần chúng cách mạng cảu giai cấp vô sản Tây Âu và dân


nghèo đang đấu tranh nhanh chóng lật đổ ách thống trị chủ nghĩa tuư bản thành
một tổ chức thống nhất đó bằng cách thu hút vào sự thống nhất đó là hàng triệu
quần chúng nông dân các nước phương Đông, hàng triệu người lao động tất cả các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
Đại hội III của Quốc tế Cộng sản họp ở Mátcơva từ ngày 22-6 đến ngày 12
-7 1921. Ngoài những vấn đề trung tâm về tình hình thế giới, chiến lược và sách
lược của các đảng cộng sản, Đại hội còn thảo luận “ Vấn đề phương Đông”, trên
thực tế đó cũng là thảo luận vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đề cương về vấn đề
phương Đông được thông qua tại Đại hộc IV của Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 511 đến ngày 5-12- 1922. Đề cương nêu rõ nhiệm vụ hàng đầu của những người
cộng sản ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là thành lập các cơ sở của đảng
cộng sản và ủng hộ bằng mọi cách phong trào cách mạng dân tộc chống chủ nghĩa
đế quốc, biến các đảng cộng sản thành đội tiên phong của phong trào, thức tỉnh và
tăng cường phong trào xã hội trong khuôn khổ đấy tranh giải phóng dân tộc. Ở
phần lớn các nước phương Đông vấn đề ruộng đất có một ý nghĩa hết sức quan
trọng.
Đề cương xác định nhiệm vụ của các đảng cộng sản và các đảng công nhân
ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa như sau: một mặt, họ đấu tranh nhằm giải
quyết triệt để những nhiệm vụ cách mạng tư sản dân chủ, tức là giành độc lập
chính trị của nước nhà; mặt khác, họ phải lợi dụng mọi mâu thuẫn trong mặt trận

dân chủ tư sản kiểu dân tộc chủ nghĩa, tổ chức quần chúng công nông lại để đấu
tranh chống lợi ích giai cấp riêng biệt của họ.
Đại hội V của Quốc tế Cộng sản họp ở Mátcơva từ ngày 17-6 đến ngày 8-7 –
1924. Sau khi nghiên cứu bản dự thảo nghị quyết về những vấn đề dân tộc và
phương Đông do Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản soạn thảo để chuẩn bị cho Đại


hội V. Thiếu sót lớn nhất của nghị quyết đại hội về vấn đề dân tộc và phương Đông
là ở chỗ nghị quyết chưa chú ý đến thời điểm mới quan trọng đó trong tình hình và
đánh đồng tất cả các thuộc địa. Tại phiên họp thứ 8 sáng ngày 23-6-1924, Nguyễn
Ái Quốc đã phát biểu về vai trò to lớn của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng
ở chính quốc và sự nghiệp giải phóng nhân loại bị áp bức. Tại phiên họp thứ 22 tối
ngày 1-7-1924, Ngường phê bình các Đảng Cộng sản Pháp, Anh và một số nước
chưa hành động vì công cuộc giải phóng thuộc địa. Đồng thời, Người nêu ra 5 biện
pháp để Đảng Cộng sản pháp thực sự đóng góp vào sự nghiệp cao cả trên. Tại
phiên họp thứ 25 sáng ngày 3-7-1924, Nguyễn Ái Quốc nói rõ cuộc sống cơ cực và
tình trạng thiếu tổ chức, lãnh đạo của nông dân Đông Dương cũng như nông dân
các thuộc địa Pháp.
Vấn đề dân tộc và thuộc địa lần thứ hai được bàn rất cụ thể, chi tiết và là một
trong những vấn đề quan trọng của chương trình Đại hội VI họp từ ngày 17-7 đến
1-9-1928 tại Mátcơva. Vấn đề về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa. Đại hội thông qua cương lĩnh khái quát những kinh nghiệm của
phong trào cách mạng thế giới. Đại hội thông qua Tuyên ngôn: “ Quốc tế Cộng sản
kêu gọi tất cả anh chị em công nhân và lao động xiết chặt hàng ngũ, đoàn kết toàn
bộ giai cấp công nhân, thực hiện liên minh giữa công nhân và nông dân lao động,
thực hiện sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản với các dân tộc bị áp bức phương Đông,
chống lại bọn áo bức và chống lại mọi kẻ thù của giai cấp”. Đại hội vạch ra sự sai
lầm của các đại biểu nói về vai trò của chủ nghĩa đế quốc ở thuộc địa và bóc trần
bản chất phản động của thuyết “ phi thực dân hóa”. Thuyết “ phi thực dân hóa”
biến hộ cho chính sách của chủ nghĩa đến quốc ở thuộc địa, làm suy yếu cuộc đấu

tranh cách mạng của các dân tộc chống chính sách đế quốc đối với các thuộc địa là
giữ và tăng cường sự phụ thuộc của các thuộc địa. Đại hội thông qua bản Đề cương


về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Đây là bản đề
cương rất cụ thể và toàn diện về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 25-7 đến ngày 21-8-1935 tại
Mátcơva. Sau một quá trình chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng để quyết định đường lối
chiến lược và sách lược cho phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng
dân tộc trong bối cảnh quốc tế mới. Trong chương trinh làm việc của Đại hội VII
có những vấn đề sau: 1. Báo cáo của V.Pích về họa động của Ban chấp hành Quốc
tế Cộng sản, 2. Báo cáo của Đ.Angaretích về công việc của Ủy ban kiểm tra quốc
tế, 3. Báo cáo của G.Đimitơrốp về “ sự tấn công của chủ nghĩa phát xít và những
nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh vì sự thống nhất giai cấp
công nhân chống chủ nghĩa phát xít”, 4. Báo cáo của M.Erờcôli” sự chuẩn bị chiến
tranh đế quốc và những nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản”, 5. Báo cáo của
Đ.Maniinxki về những thành quả của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô, 6. Bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản.
Đại hội VII đã phủ nhận quan điểm “ tả khuynh” cho rằng cách mạng ở các
nước thuộc địa chỉ mang tính chất cách mạng tư sản dân chủ nhanh chóng chuyển
sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, như vậy là không phù hợp với tình hình
và không đánh giá đúng nhiệm vụ chống chủ nghĩa đế quốc của các dân tộc. Đại
hội phê phán gay gắt các quan điểm cho rằng tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa
mang tính chất hoàn toàn than đế quốc và đòi hỏi những người cộng sản phải tấn
công chống các tổ chức tư sản dân tộc. Những quan điểm tương tự đã cản trở sự
tham gia tích cực của những người cộng sản vào các hoạt động chống đế quốc dưới
sự lãnh đạo của tư sản dân tộc và thậm chí tham gia vào các phong trào của tiểu tư
sản. Đại hội đã hướng cho các đảng cộng sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
mạnh dạn thực hiện đường lối tập hợp vào mặt trận thống nhất tất cả những ai có
khả năng chống đé quốc, trong số đó có tư sản dân tộc, mâu thuẫn của tư sản dân



tộc với đế quốc không những vẫn giữ nguyên mà còn sâu sắc thêm ở hàng loạt
nước, và hợp tác hành động với các tổ chức quốc gia cách mạng, dân tộc cải lương
trên cơ sở cùng chung chương trình chống đế quốc. Quan điểm này của Quốc tế
Cộng sản đã khắc phục hạn chế “ tả khuynh” trong việc đánh giá giai cấp tư sản
dân tộc ở Đại hội VI.
Việc Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân
bộ chính thức là sự cổ vũ lớn lao đối với Đảng ta, đồng thời cũng nói lên sự trưởng
thành nhanh chóng của đội quan tiền phong của giai cấp vô sản Việt Nam. Thắng
lợi của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa rất to lớn đối với phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Đại hội chỉ đạo sắc bén, kịp thời phong trào đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới; tạo điều
kiện cho các đảng cộng sản tập hợp được đông đảo lực lượng chống phát xít. Đồng
thời Đại hội cũng tìm ra cho các đảng cộng sản những phương thức lãnh đạo mới.
Do đó, các đảng có thể phát huy tinh thần độc lập, tự chủ trong việc đề ra đường
lối cách mạng của đảng mình để đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, nguy cơ chiến
tranh thế giới và làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình.
1.3.

Quốc tế Cộng sản tự giải thể

Khi Quốc tế Cộng sản được thành lập, các đảng cộng sản còn yếu về tư
tưởng, tổ chức và chưa có nhiều cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm. Ở nhiều nước,
đảng cộng sản chưa được thành lập. Các đảng cộng sản lúc đó chỉ bằng sức mạnh
đoàn kết tất cả các đảng vào một tổ chức tập trung là Quốc tế Cộng sản thì mới có
thể vạch ra đường lối, chiến lược, sách lược và lãnh đạo phong tài cách mạng nước
mình. Trong thời gian Quốc tế Cộng sản hoạt động, các đảng cộng sản đã trưởng
thành về tư tưởng, tổ chức và tích lũy được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh
giai cấp, có thể tự đề ra đường lối chiến lược và sách lược cho đảng mình. Các



đảng đã trưởng thành có trách nhiệm giúp đỡ các đảng mới ra đời và giúp đỡ lẫn
nhau trong sự nghiệp cách mạng chung. Chính Đảng Cộng sản Dông Dương lúc đó
đã hoàn toàn có khả năng đảm nhận sứ mệnh lịch sử của mình. Từ thangd 11 –
1939, Hội nghị Trung ương Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ tọa đã giải
quyết đúng đắn vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp đấu tranh cách
mạng trong tình hình mới. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu. Tuy nhiên, những điều đó không có nghĩa Quốc tế Cộng sản không cần tiếp
tục sự nghiệp của mình nữa, mà các đảng cộng sản vẫn đang rất cần Quốc tế Cộng
sản, một chỗ dựa về tinh thần và cả vật chất, một trung tâm chỉ đạo về chiến lược
và sách lược, nhất là khi chiến tranh thế giới đang lan rộng.
Trong điều kiện chiến tranh, Quốc tế Cộng sản không thể trực tiếp chỉ đạo
và giúp đỡ các đảng cộng sản như trước nữa. Trong khi đó, bọn phản động đã sử
dụng sự tồn tại của Quốc tế Cộng sản để vu khống chống Liên Xô và các đảng
cộng sản của các nước khác. Đặc biệt, các nhóm tư sản ở các nước là thành viên
của liên minh phát xít ra sức tuyên truyền về “ mối đe dọa cộng sản”. Bọn phản
động đã tuyên truyền những điều lừa dối rằng Mátcơva hình như rắp tâm can thiệp
vào công việc nội bộ của các nước khác, rằng các đảng của các nước dường như
hoạt động theo lệnh từ bên ngoài, đại diện cho “ những quyền lợi xa lạ” và là “
đảng của người nước ngoài”. Những kẻ đối lập chủ nghĩa cộng sản lợi dụng những
điều bịa đặt vu khống để loại bỏ ảnh hưởng của các đảng cộng sản và tách rời các
đảng cộng sản ra khỏi quần chúng nhân dân. Trước tình hình đó, nếu cứ để một
trung tâm chỉ đạo cách mậng thế giới như trước đây thì không thích hợp nữa. Lưu
ý đến tất cả tình trạng trên, mùa xuân 1943, Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản đã đặt vấn đề giải thể Quốc tế Cộng sản.
Ngày 13-5-1943, Đoàn Chủ thịch Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã họp
thảo luận đề nghị giải thế Quốc tế Cộng sản và dự thảo quyết định về vấn đề này.



Trên cơ sở phân tích tất cả các mặt của hoàn cảnh và điều kiện của phong trào quốc
tế không có khả năng tổ chức Đại hội toàn thế giới trong điều kiện chiến tranh,
ngày 15-5-1943, Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành đã ra quyết định với các đảng cộng
sản về việc giải thể Quốc tế Cộng sản: “ Quyết định của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp
hành Quốc tế Cộng sản về việc giải thế Quốc tế Cộng sản”. Quyết định đã đánh giá
vai trò lịch sử của Quốc tế Cộng sản: “ Bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi sự tầm thường
hóa và xuyên tạc do những phần tử cơ hội trong phong trào công nhân gây nên, tạo
điều kiện đoàn kết đội tiên phog của những người công nhân tiến bộ và các đảng
chân chính của công nhân và hàng loạt nước, giúp đỡ họ động viên quần chúng
nhân dân để bảo vệ những quyền lợi kinh tế và chính trị của mình, để đấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh do chủ nghĩa phát xít chuẩn bị, để ủng hộ
Liên Xô như thành trì chính trị chống chủ nghĩa phát xít. Quốc tế Cộng sản đã kịp
thời vạch rõ “ công ước chống Quốc tế Cộng sản” như thế vũ khí của họn Hítle
chuẩn bị cho chiến tranh”.
Việc Quốc tế Cộng sản kịp thời quyết định giải thể là một sự lựa chọn đúng
đắn. Chiến lược này cũng đã thỏa mãn yêu cầu của các nước Anh, Mỹ. Chiến lược
này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho những người yêu nước tập hợp tất cả những
lực lượng tiến bộ tham gia vào mặt trận dân chủ chống phát xít và mở đường cho
những lực lượng tiến bộ tham gia và mặt trận dân chủ chống phát xít và mở đường
cho việc tổ chức trong tương lai tình hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở bình
đẳng.


Chương II. Ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt
Nam ( Giai đoạn 1919 – 1943)
2.1. Ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản đối với Nguyễn Ái Quốc và quá
trình vận động thành lập Đảng ( giai đoạn 1919 – 1930)
2.1.1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cứu nước dưới ánh sáng đường
lối của Quốc tế Cộng sản
Từ khi bị rơi vào tình cảnh một nước thuộc địa của đế quốc Pháp, tên nước

ta cũng như Lào và Campuchia hầu như bị xóa đi trên bản đồ chính trị thế giới.
Bán đảo chạy dài theo hình chữ S thuộc Đông Nam Á được mang một cái tên mà
mọi người trên thế giới chỉ có một khái niệm rất chung là thuộc khu vực nằm giữa
Ấn Độ và Trung Hoa. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của
chủ nghĩa tư bản viết tháng 6 – 1916, V.I.Lênin vạch trần sự bóc lột của chủ nghĩa
đế quốc ở Đông Dương và những nơi khác. Trong tác phẩm Tổng kết một cuộc
tranh luận về quyền tự quyết viết tháng 7 -1916. V.I.Lênin đã viết: “ Tuy người ta
vẫn biết rằng… đã có những mưu đồ khỏi nghĩa ở An Nam thuộc Pháp”. Từ khi bị
thực dân pháp xâm lược, nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh giành
độc lập tự do, nhưng tất cả phong trào yêu nước chống pháp đều bị đàn áp.
Trước tình hình như vậy, ngày 1-6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất
Thành xuống tàu để đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Trải qua nhiều
năm lao động kiếm sống vất vả và hoạt động chính trị ở nhiều nước châu Âu, châu
Mỹ, châu Phi, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn. Người đã tìm hiểu một cuộc cách mạng tư sản Pháp, Mỹ nhưng các cuộc
cách mạng đó chưa triệt để vì người lao động vẫn chưa được hưởng quyền lợi. Chỉ
khi người được đọc tác phẩm của V.I.Lênin viết để trình bày tại Đại hội II của
Quốc tế Cộng sản – Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và


vấn đề thuộc địa, thì lúc đó, người mới thực sự tìm thấy con đường giải phóng dân
tộc.
Đó chính là tất cả những vấn đề của sự nghiệp cứu nước mà Nguyễn Ái
Quốc đã trăn trở và dày công tìm tời khắp nơi trên thế giới gần 10 năm gian lao,
vất vả đến đây đã được đền đáp. Có thể nói, Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa đến với Nguyễn Ái Quốc như người đi
đường đang khát gặp được nguồn nước mát, như người đã vượt qua đêm tối để
thấy được ánh sáng mặt trời. Cũng từ đó Nguyễn Ái Quốc tham gia thảo luận sôi
nổi đạp lại những lời lẽ chống lại V.I.Lênin, chống Quốc tế III. Đây là bước chuyển
biến quyết định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu

nước sang chủ nghĩa cộng sản và mở đầu một chuyển biến cách mạng trong lịch sử
tư tưởng nước ta. Đó là việc mở đường tư tưởng cách mạng Việt Nma chuyển dần
từ tư tưởng tư sản sang tư tưởng vô sản.
Việc Nguyễn Ái Quốc tìm đến được chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con
đường cứu nước dưới ánh sáng đường lối của Quốc tế Cộng sản và hoàn toàn đi
theo con đường của Quốc tế Cộng sản đánh dấu bước ngoặt quyết định trong sự
nghiệp cứu dân, cứu nước của Người và tác động sâu xa đến sự phát triển của cách
Việt Nam trong tương lai. Từ đây lịch sử cách mạng Việt Nam được chủ nghĩa Mác
– Lênin soi sáng, mà Nguyễn Ái Quốc , người Việt ban đầu tiên tiếp nhận, đã coi
như mặt trời chói lọi, soi sáng con đường đi tới thắng lợi cuối cùng là độc lập dân
tộc, chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.
2.1.2. Quốc tế cộng sản với quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng
2.1.2.1. Quốc tế Cộng sản với việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và Việt
Nam


Để giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, V.I.Lênin nhiều
lần nhấn mạnh việc thành lập đảnh cộng sản ở các nước này và đó cũng chính là
nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản. Vì vậy, Quốc tế Cộng sản đã đề ra nhiệm vụ tuyên
truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản vào các nước
thuộc địa, trong đó có Đông Dương.
Ngay sau Đại hộ I, Quốc tế Cộng sản đã chú ý đến việc truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin và Đông Dương. Trung tâm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin ở Viễn
Đông sau khi thành lập đã vạch kế hoạch tuyên truyền cộng sản và Trung Quốc,
Đông Dương, Xingapo. Một bức điện đề ngày 25-4-1920 của Lãnh sự Pháp tại
Vlađivôxtốc báo cáo về Bộ thuộc địa Pháp là một cơ quan lãnh đạo việc tuyên
truyền cộng sản đã được thành lập tại đây, cơ quan lãnh đạo việc tuyên truyền cộng
sản đã được thành lập tại đây. Cơ quan này dự định sẽ tổ chức các trung tâm tuyên
truyền tại Thượng Hải, Sài Gòn, Tân Gia Ba.
Như vậy, sau Đại hội III, Quốc tế Cộng sản đã phái cán bộ đến Sài Gòn để

nghiên cứu tình hình chính trị - xã hội và đặt kế hoạch tuyên truyền chủ nghĩa cộng
sản ở đây. Nhưng những người triển khai hoạt động được thì đã bị những nhà cầm
quyền kiếm cớ trục xuất để đảm bảo an ninh chính trị. Vì vậy, cho đến cuối năm
1920, sự có gắng của Quốc tế Cộng sản cũng chưa chọn thủng được lưới sắt của
thực dân pháp để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam. Để thực hiện
nhiệm vụ này, Quốc tế Cộng sản đã chỉ thị cho các đảng cộng sản in các tài liệu
mácxít và chuyển về Việt Nam. Đảng cộng sản Pháp, một bộ phận mạnh của Quốc
tế Cộng sản “ đã có sự đóng góp quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin vào Việt Nam”. Nhờ sự giúp đỡ tích cực của Đảng Cộng sản Pháp và các
đảng an hem khác dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản mà nhiều sach báo
Mácxít được in và chuyển về Việt Nam. Nhờ đó, người Việt Nam đã biết đến chủ
nghĩa Mác – Lênin, đường lối dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản, tiếp


nhận được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng thuộc địa. Từ đó,
người Việt Nam có suy nghĩ mới, đi theo con đường mới tiến tới giải phóng dân
tộc.
2.1.2.2. Quốc tế Cộng sản với việc đào tạo cán bộ Việt Nam
Một trong những điều kiện để tiến tới thành lập một đảng cách mạng vô sản
là phải có một đội ngũ cán bộ, hạt nhân cảu phong trào quần chúng công nông. Họ
là những người nắm được lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và biết vận
dụng nó vào thực tiễn nước mình. Năm tháng sau ngày thành lập Quốc tế Cộng sản
5-8-1919, Chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng L. Trôtxki gửi thư cho Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Công sản Nga đề xuất chuyển hướng sang phương Đông.
Nơi theo ông đã mở ra triển vọng mới cho bão táp cách mạng. Từ đó chủ trương “
Đông tiến” trong hoạt động của Quốc tế Cộng sản dần dần hình thành. Đối với Việt
Nam, những trường sau đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo cán bộ:
Trường Đại học cộng sản cảu nhân dân lao động phương Đông “ 1921 –
1938): Trong điều kiện vô cùng khó khăn của thời ký đế quốc can thiệp vũ trang và
nội chiến, nhưng với tinh thần quốc tế cao cả, nước Nga Xô Viết đã thực hiện

đường lối của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Một trong những
nỗ lực đó của nước Nga là việc thành lập Trường Đại học cộng sản của nhân dân
lao động phương Đông ( gọi tắt là trường Đại học Phương Đông). Thời gian tồn tại
từ năm 1921-1938, trường đã đạo tạo nhiều nhà cách mạng chuyên nghiệp không
những cho phương Đông Xô Viết, mà cả cho các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
Con em của 73 dân tộc khác đã đến học ở trường.
Trường quốc tế Lênin hoạt động từ tháng 5 -1925. Trường đào tạo các khóa
học về lý luận và thực tiễn chủ nghĩa cộng sản theo quyết định của Đại hội V.
Trường thuộc Đoàn Chủ tịch Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản. Trường chủ yếu


đào tạo các chiến sĩ cộng sản người châu Âu và châu Mỹ. Còn trường chủ yếu đào
tạo các lãnh đạo Đảnh và có kiến thức nhất định về chủ nghĩa Mác – Leenin và
phải biết 1 trong 4 ngoại ngữ: Anh, Pháp, Nga, Đức mới được vào trường học.
Trường cũng đào tạo theo hai hình thức: ngắn và dài hạn, không kể nghiên cứu
sinh. Chương trình học dài hạn 3 năm, trong đó 2 năm chung, 9 tháng học chuyên
sâu. Các khóa ngắn hạn: 9 tháng học và 2 tháng đi thực tế. Các sinh viên ở trường
của Quốc tế Cộng sản thường sinh hoạt theo nhóm cùng ngon ngữ và có bí danh
riêng theo kỷ luật nghiêm của nhà trường để thuận tiện cho hoạt động cách mạng
sau này. Cũng như Trường Đại học Phương Đông, do có sự cải tổ chung toàn bộ hệ
thống giáo dục trường Đảng, tháng 9 năm 1938, trường chấm dứt hoạt động.
Đối với Việt Nam, các trường trên, nhất là Trường Đại học phương Đông
đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc đào tạo đội ngũ các chiến sĩ cách mạng
chuyên nghiệp. Tại đại hội V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị
với đảng Cộng sản Pjasp “ Gửi những người bản xứ vào Trường Đại học cộng sản
của những người lao động phương Đông ở Mátcơva”. Khoảng cuối năm 1923,
Nguyễn Ái Quốc theo học một lớp ngắn hạn ở Trường, và chính Người đã đặt nèn
tảng cho mối quan hệ khăng khít giữa nhà trường với Đảng cộng sản Pháp và tổ
chức cách mạng mà Người sáng lập về sau. Ở Trung Quốc, Quốc dân Đảng đã tạo
điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam bí mật xuất dương sang Nga mãi cho đến

khi xảy ra cuộc oharn công đầu tiên chống cộng tháng 4 – 1927. Sau đó, Đảng
Cộng sản trung Quốc cũng có sự giúp đỡ quan trọng dành cho các nhà cách mạng
Đông Dương. Đảng Cộng sản Trung Quốc bảo đảm việc cấp hộ chiếu Trung Quốc
cho sinh viên Việt Nam sang Liên Xô. Ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc cùng với
M.M.Bôrôđin lựa chọn và làm những thủ tục cần thiết cho những thanh niên ưu tú
nhất trong Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên để gửi đến Trường Đại học
Phương Đông học tập.


2.1.2.3. Quốc tế Cộng sản chỉ đạo thành lập Đảng
Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là
một văn kiện chính trị quan trọng đối với các dân tộc bị đế quốc thống trị. Đề
cương và các văn kiện khác nhau cảu Đại hội VI Quốc tế Cộng sản đã được bí mật
chuyển đến Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và đã ảnh hưởng trực tiếp đến
phong trào cách mạng ở Việt Nam trong những năm 1928-1930. Lúc bấy giờ,
nhiều thanh niên tiên tiến trong tổ chức này và các tổ chức khác bước đầu tiếp thu
lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin thông qua những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc,
những bài học chính trị của Người giảng tại Quảng Châu, những văn kiện của
Quốc tế Cộng sản. Vì vậy, trong những năm 1928-1929, ở nước ta có phong trào “
vô sản hóa”. Nhiều hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã hăng hái
đi vào phong trào công nhân vừa để lao động, vừa để tuyên truyền và tổ chức cách
mạng trong giai cấp công nhân.
Như vậy, được sự giúp đỡ có hiệu quả, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Quốc
tế Cộng sản và các đảng an hem, sự hỏa động không mệt mỏi của Nguyễn Ái Quốc
và những người cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác – Leenin đã
được truyền bá vào Việt Nam dẫ đến bước nhảy vọt về chất của phong trào công
nhân và phong trào yêu nước. Đến lúc này, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
không còn đủ khả năng và uy tín để lãnh đạo phong trào cách mạng đang lên cao
trong cả nước, có kỷ luật nghiên minh và giương cao ngọn cờ cách mạng của chủ
nghĩa Mác – Lênin để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đấu tranh

giành độc lập. Lênin để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đấu
tranh giành độc lập. Vì vậy, đến đầu năm 1929, ở nước ta bắt đầu có cuộc đấu tranh
giữa các nhóm cộng sản đến tiến tới thành lập đảng cộng sản thống nhất. Tại Hội
nghị trù bị cho Đại hội I Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tháng 1 -1929 dp
Tổng bộ triệu tập ở Hồng Kong, đại biểu kỳ bộ bắc kỳ đã đặt ra vấn đề thành lập


Đảng. Tháng 3 – 1929, những người tiên tiến nhất trong Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở trong nước tạo
nhà số 5D hàm Long, Hà Nội.
Trước tình hình ấy, Toongr bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở nước
ngoài quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất vào ngày 1-51929 tại Hồng kong. Ngày 9-5-1929, Đại hội thông qua các quyết nghị. Bản dự
thảo nghị quyết đánh gia những mặt được và sai lầm của Đại hội Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên tháng 5 -1929. Trong lĩnh vực phong trào cách mạng có
tính chất quần chúng, bản dự thảo nghị quyết đề ra các nhiệm vụ trung tâm của
những người cộng sản Đông Dương trong thời kỳ sắp tới. Bản dự thảo nghị quyết
khẳng định đã có đủ các điều kiện và sự cấp thiết không thể trì hoãn việc tổ chức
Đảng Cộng sản Đông Dương. Việc tiếp tục kéo dài tình trạn hoạt động tuyên
truyền và có tính chất tổ nhóm trong các tổ chức cộng sản đang trở thành sự kìm
hãm nguy hiểm đối với quá trình phát triển cách mạng.
Trước tình trạng chia rẽ giữa các tổ chức cộng sản “ đảng viên Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên lập tức phái sang Xiêm một liên lạc viên có nhiệm vụ tìm
Nguyễn Ái Quốc, trình bày cho Ông rõ tình cảnh nguy ngập của Đảng và mời Ông
về Hồng Kong điều khiển Đảng”. Như vậy với tư cách là đại diện của Quốc tế
Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị thành lập Đảng tại Cửu Long,
Hồng Kong ( Trung Quốc). Dự hội nhị có đại biểu của Đảng Cộng sản Đông
Dương, An Nam Cộng sản Đảng. Dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị
đã phân tích tình hình, phê phán những tư tưởng bè phái, chia rẽ trong các nhóm
cộng sản, nói rõ chủ trương của Quốc tế Cộng sản về vấn đề thành lập Đảng Cộng
sản thống nhất. Hội nghị đã nhất trí tán thành hợp nhất các nhóm cộng sản thành

Đảnh cộng sản thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua
chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái


Quốc soạn thảo. Sau khi tiến hành Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã
thay mặt Hội nghị báo cáo kết quả tốt đẹp đó đối với Quốc tế Cộng sản. Như vậy,
Quốc tế Cộng sản đã có sự theo dõi sát sao diễn biến cashc mạng, sự phát triển của
các tổ chức cộng sản ở Việt Nam và khi có đủ điều kiện để thành lập đảng vô sản,
Quốc tế Cộng sản đã chỉ đạo kịp thời việc thành lập Đảng Cộng sản ở Đông
Dương.
2.2. Ảnh hưởng Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam ( giai đoạn
1930 – 1943)
2.2.1. Sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam
Sau hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc thay mặc Quốc tế Cộng sản
và Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi tất cả mọi người hãy gia nhập Đảng
Cộng sản Việt Nam – Đảng của giai cấp vô sản “ để đánh đổ đế quốc Pháp”, phong
kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng, làm cho nước An Nam được độc
lập và thành lập chính phủ công nông bình”. Vừa mới ra đời, Đảng đã trực tiếp
lãnh đạo mọt phong trào cách mạng rộng lớn trong cả nước. Đó là cao trào cách
mạng 1930 -1931 mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh. Cao trào cách mạng 1930
-1931 đã củng cố liên minh hàng triệu nông dân với giai cấp vô sản còn non trẻ và
số lượng còn ít nhưng đã có tổ chức. Đó là một thành công nhất định của cuộc đấu
tranh chính trị của những người cộng sản Việt Nam đã xem liên minh chặt chẽ giữa
giai cấp công nhân và nông dân trong sự lãnh đạp cảu giai cấp vô sản – yếu tố quan
trọng nhất cảu việc phát triển phong trào đấu tranh toàn dân. Những người cộng
sản Việt Nam đã thực hiện một cách sáng tạo lời chỉ bảo của V.I.Lênin là phải sáng
tạo, không được rập khuôn theo những người cộng sản châu Âu. Trong điều kiện
vừa mới ra đời, Đảng ta đã không tránh khỏi mắc một số sai lầm tả khuynh và hữu
khuynh. Sự lãnh đạo của một cấp ủy địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu cảu
phong trào. Thời gian giành chính quyền chưa xuát hiện. Từ giữa năm 1931, phong



trào bước vào thời kỳ tạm thời thoái trào. Đế quốc pháp và bè lũ tay sai ra sức đàn
áp và khủng bố các lực lượng cách mạng. Nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng hoạt
động ở trong nước lần lượt bị sa và tay giặc. Hàng nghìn cán bộ, đảng viên và quần
chính cách mạng bị bắt hoặc bị giết. Hầu hết các tổ chức Đảng bị tan vỡ. Ban Chấp
hành Trung ương hầu như không còn. Ở nước ngoài, ngày 6-6-1931, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc cũng bị bọn đế quốc Anh bắt giam. Đi đôi với chính sách khủng
bố trắng, đế quốc Pháp còn ra sức khuyến khích và nâng đỡ các đảng phái và các tổ
chức tôn giáo phản động, tăng cường chính sách mị dân nhằm lừa bịp nhân dân ta.
Cách mạng Việt Nam gặp muôn ngàn khó khăn.
2.2.1.1. Quốc tế Cộng sản ủng hộ về tinh thần và vật chất cho cách mạng
Việt Nam
Lúc phong trào cách mạng 1930 – 1931 nổ ra, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt
động ở Hương Cảng. Tuy điều kiện liên lạc gặp nhiều trắc trở, nhưng người luôn
luôn theo dõi, chỉ đạo phong trào. Một mặc, người kịp thời tuyên dương những
thành tích đã đạt được. Mặt khác, Người phê phán một số khuyết điểm trong công
tác chỉ đạo lề lối làm việc của các cấp ủy, vạch rõ phương hướng và biện pháp để
khắc phục những thiếu sót, đặng thúc đẩy phong trào tiến nhanh tiến mạnh hơn
nữa. Đồng thời Nguyễn Ái Quốc liên tiếp viết thư cho Quốc tế Cộng sản, các tổ
chức quần chúng của Quốc tế Cộng sản và các đảng an hem đã trình bày rõ tình
hình phát triển của cách mạng Việt Nam. Người khẩn thiết đề nghị với Quốc tế
Cộng sản, các tổ chức trực thuộc Quốc tế Cộng sản và các đảng an hem hãy quan
tâm hơn nữa đến phong trào cách mạng Việt Nam, kịp thời viết thư động viên
phong trào, góp ý kiến và trao đổi kinh nghiệm đấu tranh, giúp đỡ tinh thần và vật
chất.Người đề nghị với Quốc tế Cộng sản những biện pháp cần thiết, kịp thời như
mở một chiến dịch tuyên truyền về cách mạng Việt Nam trên phạm vi quốc tế để ca


ngợi cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân ta và vạch trần tội ác tày trời của đế

quốc Pháp trước dư luận thế giới.
Thông qua Nguyễn Ái Quốc mà Quốc tế Cộng sản, các tổ chức trực thuộc
Quốc tế Cộng sản và các đảng an em đã hiểu được quy mô tổ chức, khả năng, các
hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng của phong trào cách mạng Việt
Nam; từ đó đã kịp thời động viên, cổ vũ và có những chủ trương, biện pháp cần
thiết để chỉ đạo, uốn nắn phong trào và giúp đỡ Đảng ta trong cuộc đấu tranh vô
cùng gian khổ, nhanh chóng khắc phục cho những cuộc chiến đấu mới. Quốc tế
Cộng sản liên tục gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương phân tích phong trào
lắng xuống chỉ là tạm thời và động viên những người cộng sản phải phấn đấu đưa
phong trào tiến lên. Nhằm nhanh chóng khôi phục phong trào cách mạng Việt
Nam, Quốc tế Cộng sản đã phát động trong công nhân và nhân dân lao động thế
giới một phong trào ủng hộ cách mạng Việt Nam, chống khủng bố trắng, đòi xá tù
chính trị. Quốc tế Cộng sản đã viết lời kêu gọi Hãy cứu lấy những người cách
mạng Đông Dương. Để ủng hộ những người cách mạng Việt Nam, Tổ chức quốc tế
giúp đỡ những người cách mạng đã kêu gọi tất cả những người có lương tri hãy
tham gia vào cuộc mít tinh để bầu cử đoàn đại biểu điều tra hành động của bọn
thực dân và những hậu quả ủng hộ đấu tranh của nhân dân ta.
Đối với những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động
toàn thế giới đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Xô viết Nghệ - Tĩnh là bản anh hùng ca cách mạng, là tấm gương trong sự
nghiệp giải phóng. Vì vậy, tình đoàn kết quốc tế do Quốc tế Cộng sản đề xướng
ủng hộ Đảng Cộng sản Đông Dương đã được giai cấp công nhân và nhân dân lao
động hưởng ứng mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, nhiều tổ chức quần hcungs tiến bộ
trên thế giới tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, cực lên án những hành động
khủng bố của đế quốc Páp và bày tỏ tình đòa kết với nhân dân Đông Dương . Các


báo chí cánh tả trên thế giới đều tập trung vào cảnh ngộ của nhân dân Đông Dưong
dước ách thống trị của thực dân Pháp. Trong khi đó, Quốc tế Cộng sản và các nước
hội viên liên kết với Đảng Cộng sản Đông Dương giúp đỡ họ bằng mọi khả năng

nhằm bảo đảm cho sự tồn tại của Đảng.
2.2.1.2. Quốc tế Cộng sản giúp đỡ về cán bộ, đường lối tổ chức
Trước tình hình cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng ta bị phá hoại nặng nề,
nhiều cán bộ bị bắt hoặc bị giết hại, trong Đảng không còn tổ chức nào cso đủ
thẩm quyền để liên lạc với Quốc tế Cộng sản, các đảng an hem và các tổ chức của
Đảng ở các cấp như trước đây nữa, Quốc tế Cộng sản đã vạch ra kế hoạch và thực
thi biện pháp cụ thể, cấp bách nhằm xây dựng lại Đảng Cộng sản Đông Dương và
khôi phục lại cao trào cách mạng. Trước tiên, Quốc tế Cộng sản tổ chức cho những
sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Phương Đông lần lượt về nước hoạt động.
Năm 1930, Ngô Trì, Bùi Ái, Bùi Công Trừng, Ngô Văn Tâm…. Về nước. Theo kế
hoạch trên, tháng 11 1931, Lê Hồng Phong rời Liên Xô, đi qau Pháp trở về Trung
Quốc hoạt động. Lê Hồng Phong đã tìm cách bắt liên lạc với các chiến sĩ cách
mạng Việt Nam và giữ mối liên hệ với Quốc tế Cộng sản.
Để phát động một chiến dịch tuyên truyền về cashc mạng Đông Dương trên
phạm vi toàn quốc tế, Ban Phương Đông đề nghị, Đảng ta cần gửi nhiều tài liệu cụ
thể về những tấm gương chiến đấu kiên cường và tài liệu về tội ác của thực dân
Pháp cho các cơ quan của Quốc tế Cộng sản. Trong thời kỳ địch khủng bố bức thư
trân của Ban phương Đông đã đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho
những người cộng sản Việt Nam bảo vệ hàng ngũ của Đảng. Trong năm qua, Đảng
đã tích lũy kinh nghiệm đấu tranh giai cấp và đã thi hành đường lối chính trị nói
chung và đúng đắn. Đảng phải bằng mọi cách củng cố và mở rộng mới liên hệ với
quân chúng, đặc biệt là với nhân dân, bônsêvích hóa hàng ngũ của mình và đặt cho


×