Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Rèn luyện cho học sinh miền núi kĩ năng khai thác kênh hình trong SGK sinh học 11 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.1 KB, 14 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đã ghi:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,
ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo
cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý
các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Trong luật GD Việt Nam, điều 28.2 đã chỉ rõ “Phương pháp GD phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS; phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Vì
vậy, để nâng cao chất lượng dạy học thì GD phải đổi mới về nội dung, phương
pháp và phương tiện dạy học.
Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận
thức trong học tập không phát hiện những điều loài người chưa biết mà nhằm
lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích lũy được thông qua kênh chữ, kênh
hình. Trong dạy học Sinh học, kênh hình bao gồm các sơ đồ, tranh ảnh về đối
tượng, quá trình, cơ chế sinh học, là phương tiện dạy học đặc trưng cho bộ môn
Sinh học. Theo xu hướng hiện nay là giảm bớt thuyết trình của giáo viên, tạo
điều kiện để học sinh học tập tích cực nên kênh hình được sử dụng như là một
nguồn cung cấp kiến thức giúp học sinh tự tìm tòi, phát hiện những kiến thức và
rèn luyện kĩ năng bộ môn chứ không chỉ để minh họa cho lời giảng của giáo
viên. Như vậy kênh hình là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực khai thác
kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó việc rèn luyện cho học sinh kĩ
năng khai thác tốt kênh hình trong học tập bộ môn sinh học là một yêu cầu cấp
thiết và mang tính quyết định đến sự thành công trong dạy - học của thầy và trò.
Từ quan điểm chỉ đạo trên nên việc biên soạn sách giáo khoa (SGK) Sinh


học ở cấp trung học phổ thông (THPT) hiện nay có nhiều cải tiến đáng kể không
chỉ về nội dung kiến thức mà có sự cải tiến về số lượng và chất lượng kênh hình.
Ngoài ra qua hệ thống Internet, giáo viên và học sinh cũng được tiếp xúc với
nhiều kênh hình sinh động, phong phú. Tuy nhiên, kênh hình SGK vẫn là
phương tiện bám sát chương trình học nhất, gần nhất với mọi đối tượng học
sinh, đặc biệt học sinh ở khu vực miền núi, bởi điều kiện học tập của các em còn
hết sức khó khăn, ngôn ngữ thì có nhiều bất đồng do học sinh chủ yếu là dân
tộc thiểu số Mường, Thái, Mông... tiếng Việt còn nghèo, tâm lí ngại đọc có ở đại
bộ phận học sinh nơi đây. Hơn nữa trong thực tiễn giảng dạy, đa số giáo viên
mới dừng lại ở việc sử dụng kênh hình để minh họa, củng cố kiến thức. Còn việc
tổ chức các hoạt động nhận thức, rèn luyện các kĩ năng khai thác cho học sinh
thì giáo viên chưa quan tâm nhiều. Vì vậy, kênh hình SGK chưa được khai thác
1


hết giá trị của nó. Là một giáo viên dạy môn sinh học ở trường THPT Quan Hóa
– một huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa, trực tiếp giảng dạy chủ yếu khối 11, tôi
luôn trăn trở làm sao để nâng cao chất lượng dạy học, làm sao để học sinh yêu
thích môn sinh học, làm sao để có thể phát triển kĩ năng tự học cho học sinh
miền núi. Và qua thực tiễn tôi thấy rằng, khai thác sử dụng triệt để hình ảnh
SGK là biện pháp phù hợp không chỉ tác động tốt trong việc tạo biểu tượng,
hình thành kiến thức khái niệm, quy luật mà còn có ý nghĩa giáo dục, hình thành
kĩ năng tự học cho HS miền núi.
Từ tầm quan trọng của việc khai thác kênh hình trong dạy học Sinh học,
với kinh nghiệm giảng dạy bộ môn sinh học và với kết quả thực nghiệm, tôi xin
trình bày đề tài: “Rèn luyện cho học sinh miền núi kĩ năng khai thác kênh
hình trong SGK sinh học 11, THPT”. Với đề tài này, tôi mong rằng sẽ góp phần
đổi mới phương pháp giúp việc dạy và học bộ môn sinh học có hiệu quả.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xác định những biện pháp rèn luyện có hiệu quả nhằm phát triển kĩ năng

khai thác kênh hình trong SGK sinh học 11 cho học sinh miền núi.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Biện pháp để phát triển kĩ năng khai thác kênh hình SGK
- Học sinh trường THPT Quan Hóa
- Kênh hình SGK Sinh học 11
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, bao
gồm: SGK Sinh học 11, sách phương pháp giảng dạy Sinh học dành cho giáo
viên, giáo trình, luận văn, sách tham khảo, tạp chí và các website làm cơ sở khoa
học cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra cơ bản
PP điều tra: Điều tra bằng cách trao đổi, dự giờ và phỏng vấn GV, HS.
Nội dung điều tra: Điều tra thực trạng sử dụng kênh hình SGK trong dạy
học sinh học và việc rèn luyện cho HS kĩ năng khai thác kênh hình SGK.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm ở trường THPT Quan Hóa
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Kênh hình và vai trò của kênh hình
Kênh hình bao gồm các hình ảnh, sơ đồ, biểu đồ..., là một dụng cụ trực
quan hóa vô cùng hữu hiệu trong việc giảng dạy, giúp học sinh vận dụng tối đa
các giác quan còn lại trong việc học tập, vì thế nó có những vai trò vô cùng quan
trọng:
- Kênh hình là có khả năng cung cấp thông tin một cách đầy đủ hơn khi sách
giáo khoa (SGK) chưa trình bày đến nó.
2


- Giúp giáo viên tăng năng suất làm việc, giảm thiểu tính chất giảng dạy mang

tính thông báo một chiều.
- Học sinh dễ tiếp thu trong quá trình nhận thức, hỗ trợ việc cung cấp kiến thức,
giảm tính trừu tượng của kiến thức.
- Cải tiến phương pháp dạy học của giáo viên và thay đổi hình thức học của học
sinh theo hướng tích cực.
- Kênh hình có tác dụng minh hoạ cho các khái niệm, quá trình. Nó hỗ trợ và
phát huy mọi giác quan của người học. Tăng độ tin cậy và khắc sâu kiến thức.
- Giúp đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh
Từ những vai trò đó có thể thấy được việc khai thác sử dụng kênh hình là
biện pháp tốt để rèn luyện kĩ năng, năng lực cho HS. Đồng thời, theo quy chế
thiết bị giáo dục, ban hành theo quyết định số 41/2000/QĐ -BGD&ĐT ngày
24/3/2000 của Bộ giáo dục và Đào tạo “Thiết bị giáo dục phải được sử dụng có
hiệu quả cao nhất, đáp ứng các yêu cầu nội dung và phương pháp được qui định
trong chương trình giáo dục” (Điều 102). Theo quy định trên, việc sử dụng thiết
bị giáo dục, đặc biệt là kênh hình trong dạy học là điều hết sức cần thiết, phải tổ
chức khai thác đúng phương pháp, đem lại hiệu quả cao nhất.
Đối với bộ môn sinh học, học tập sinh học là quá trình nhận thức về sự
sống của sự vật hiện tượng, cái bản chất bên trong mang tính quy luật. Vì vậy
nhiệm vụ đầu tiên của người giảng dạy sinh học là cho học sinh tiếp xúc, quan
sát những hình ảnh cụ thể sinh động, chính xác về các sự vật, hiện tượng nhằm
tạo ra ở học sinh những biểu tượng, niềm yêu thích nghiên cứu khoa học.
2.1.2. Đặc điểm của HS khu vực miền núi
Qua quá trình tìm hiểu và thực tế dạy học ở trường THPT Quan Hóa –
Thanh Hóa, tôi có thể tóm tắt về một số đặc điểm của HS THPT miền núi như
sau:
- Về điều kiện kinh tế xã hội: Đa phần HS là nông thôn thu nhập thấp, kinh tế
không ổn định, dân cư sống ở những vùng có địa hình khó khăn, sống xa nhau,
xa trường. Điều kiện phương tiện thiếu thốn nên đi lại khó khăn, gây cản trở
không ít đến việc học tập của các em.

- Về ngôn ngữ tiếng Việt: Do đa phần HS là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh
sống khó khăn, ít được tiếp xúc với phương tiện dạy học hiện đại nên ngôn ngữ
tiếng việt còn nghèo, nhiều khi trong lớp các em còn giao tiếp bằng ngôn ngữ
riêng của dân tộc mình, kĩ năng đọc, viết, diễn đạt câu, phát âm các thuật ngữ
khoa học nhiều khi chưa chính xác.
- Về khả năng tư duy của HS: Thường tư duy chậm, khi gặp tình huống phức tạp
thường bối rối không nhanh chóng tìm ra phương án, khả năng tư duy trừu
tượng, tư duy logic biện chứng chưa cao. Các em thường xem xét sự vật hiện
tượng trong mối quan hệ riêng lẻ, đơn giản. Các em quen tư duy cụ thể, bắt
chước, dập khuôn nên gặp bài khó, phức tạp không tích cực suy nghĩ mà chờ sự
hướng dẫn của giáo viên.
3


Khả nặng vận dụng, liên hệ thực tế còn hạn chế, khả năng phân tích, tổng
hợp, so sánh còn yếu
- Về nhân cách trong giao tiếp: Các em sống hồn nhiên, vô tư, có tình cảm yêu
ghét rõ ràng. Lòng tự trọng cao, bản tính thật thà và có trách nhiệm trong công
việc. Nhưng còn rụt rè, ít nói và lòng tự ti dân tộc cao.
Chính vì vậy, rèn luyện cho HS khu vực miền núi kĩ năng khai thác kênh
hình là biện pháp phù hợp, có thể mang lại hiệu quả cao trong học tập.
2.1.3. Nguyên tắc sử dụng và khai thác kênh hình
Để khai thác triệt để “công lực” của kênh hình, giáo viên phải nắm được
một số nguyên tắc có tính bắt buộc sau:
- Nguyên tắc sử dụng đúng lúc: Sự xuất hiện đúng lúc làm tăng thêm thế mạnh
của kênh hình, nhất là trong sự háo hức chờ đợi của HS. Yếu tố bất ngờ khi kênh
hình xuất hiện càng kích thích tính hấp dẫn và hứng thú từ người xem. Nếu cho
các em xem trước thì dễ nhàm chán và phân tán sự chú ý của cả lớp.
- Nguyên tắc sử dụng đúng chỗ: Tìm vị trí để giới thiệu phương tiện trực quan
một cách hợp lý nhất. Có như vậy HS mới huy động được nhiều giác quan nhất,

dù ngồi ở mọi vị trí trong lớp ai cũng có thể tiếp xúc phương tiện một cách rõ
ràng và đồng đều.
- Nguyên tắc sử dụng đủ cường độ: Chúng ta cần nhớ, hiệu quả của kênh hình sẽ
giảm sút nếu kéo dài việc sử dụng một loại phương tiện hoặc hình ảnh cứ lặp đi
lặp lại một cách đơn điệu.
- Nguyên tắc khai thác triệt để: kênh hình phải được khai thác về mọi mặt, mọi
khía cạnh, không chỉ sử dụng để minh họa, mà cần được khai thác để HS hiểu về
bản chất, nắm vững các quy luật, ý nghĩa giáo dục…
Sử dụng và khai thác kênh hình với phương pháp phù hợp, đảm bảo các
nguyên tắc giúp thế hệ trẻ tiếp nhận những tri thức quý báu của loài người, qua
đó góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, phát triển tư duy, giáo dục tư tưởng
đạo đức cho các em.
2.2. Thực trạng việc sử dụng kênh hình và việc rèn luyện cho HS kĩ năng tự
khai thác kênh hình trong SGK sinh học
Kênh hình được sử dụng trong dạy học sinh học ở bậc THPT hiện nay là
rất đa dạng và phong phú. Tập tranh ảnh sinh học từ lớp 10 đến lớp 12 đã được
phân bổ đầy đủ cho các trường. Qua hệ thống Internet, GV có thể lấy đuợc nhiều
kênh hình phục vụ cho việc giảng dạy. Riêng SGK sinh học 11 cơ bản có 48 bài
thì đã có 121 kênh hình đuợc đưa vào, bình quân mỗi bài gần 3 kênh hình. Thực
tiễn trên đã đóng góp rất lớn đến việc thành công trong dạy học sinh học hiện
nay. Cha ông ta từng dạy: “Trăm nghe không bằng một thấy”. Nếu chúng ta giúp
cho HS có được kĩ năng khai thác tốt kênh hình thì hiệu quả học tập sinh học
của các em sẽ đạt kết quả cao.
Bằng thực nghiệm quan sát, trao đổi, lấy ý kiến từ thực tế giảng dạy, tôi
nhận thấy, bên cạnh những thành công trong việc tổ chức cho HS khai thác kênh
hình, còn có những tồn tại và nguyên nhân, cần khắc phục như sau:
4


- Với HS: Kĩ năng tự khai thác kênh hình trong học tập sinh học ở học sinh còn

rất yếu, bước vào lớp 11 mà nhiều em không biết dựa vào đâu để xác định chủ
đề của kênh hình, không biết cách đứng thuyết trình kênh hình trên bảng, kĩ
năng quan sát, nhận xét.... đều rất yếu.
Thái độ làm việc của học sinh với kênh hình còn hết sức tiêu cực, quan sát
qua loa đại khái, không rèn luyện kĩ năng, nhiều em chỉ thích xem trong kênh
hình có gì đẹp, lạ hay không mà không chú ý đến chủ đề, nội dung, ý nghĩa của
kênh hình.
- Với GV:
+ Thực trạng: Trong giảng dạy, đa số GV mới dừng lại ở việc sử dụng kênh hình
để minh họa, củng cố kiến thức. Còn việc tổ chức các hoạt động nhận thức, rèn
luyện các kĩ năng khai thác cho HS thì giáo viên chưa quan tâm nhiều. Đôi khi
do thời gian học hạn chế, nhiều giáo viên còn bỏ qua ngay cả các tranh ảnh
trong SGK. Vì vậy chưa phát huy được vai trò tích cực của kênh hình vào dạy
học bộ môn.
+ Nguyên nhân: Một số GV mới chỉ chú ý kênh chữ trong SGK và coi đây là
nguồn cung cấp kiến thức duy nhất trong dạy học Sinh học mà chưa thấy rằng
kênh hình không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức quan trọng, cung cấp lượng
thông tin đáng kể mà còn là phương tiện trực quan có giá trị giúp bài học thêm
sinh động, hấp dẫn. Còn không ít GV chưa hiểu rõ xuất xứ, nội dung, ý nghĩa
của kênh hình SGK. Trong các đợt bồi dưỡng chuyên đề GV hầu như chỉ được
giải thích về nội dung chương trình, chưa chú trọng bồi dưỡng khai thác, sử
dụng kênh hình SGK trong khi lượng kênh hình SGK hiện hành tăng lên đáng
kể so với SGK cũ. Nhiều GV nhận thức đầy đủ giá trị, nội dung của kênh hình
nhưng lại ngại sử dụng và sợ mất thời gian hoặc nếu sử dụng vẫn mang hình
thức minh họa. Việc khai thác triệt để kênh hình SGK chưa được chú trọng.
2.3. Các biện pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Các loại kênh hình trong SGK
* Hình ảnh: SGK sinh học 11 có chủ yếu là các hình vẽ cung cấp những hiểu
biết về nội dung kiến thức: khái niệm, bản chất, cơ chế, giá trị của kiến thức...
* Sơ đồ: Cụ thể hoá nội dung kiến thức bằng hình học đơn giản. Ví dụ như sơ

đồ 6.1. Sự phụ thuộc về mặt dinh dưỡng của cây vào hoạt động sống của vi sinh
vật đất – SGK Sinh học 11.
* Biểu đồ: Kênh hình diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của sự vật hiện
tượng, thường biểu diễn trên trục hoành và trục tung. Ví dụ như hình 10.3. Ảnh
hưởng của nhiệt độ đến quang hợp – SGK Sinh học 11.
Qua nghiên cứu, bản thân đã thực hiện các biện pháp sau để rèn luyện kĩ
năng khai thác kênh hình cho HS miền núi.
2.3.2. Một số lưu ý khi tổ chức khai thác kênh hình
- Căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục để lựa chọn và khai thác
- Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng kênh hình (không chỉ cụ thể
hóa kiến thức mà cần đi sâu phân tích bản chất, cơ sở, giá trị của nội dung kiến
thức)
5


- Đảm bảo kết hợp lời nói với việc sử dụng kênh hình, đồng thời rèn luyện khả
năng thực hành của học sinh (vẽ hình, miêu tả...)
2.3.3. Biện pháp thực hiện đúng quy trình tổ chức khai thác kênh hình
trong giảng dạy môn sinh học
Việc rèn luyện kĩ năng khai thác kênh hình cho học sinh là một quá trình,
nó phải được tiến hành một cách thường xuyên trong suốt các tiết học, các lớp
học ở bậc THPT theo một một hệ thống từ thấp đến cao. Do đó, nó phải đuợc
tiến hành đồng bộ ở tất cả các thầy cô giáo cùng bộ môn trong trường. Những kĩ
năng cơ bản nhất trong khai thác kênh hình mà học sinh lớp 11 không thực hiện
được là do không có sự rèn luyện ở các lớp dưới. Thực tế trên sẽ là sự trở ngại
không nhỏ cho giáo viên phát triển những kĩ năng cao hơn trong khai thác kênh
hình cho học sinh. Để khắc phục, cần đúng quy định các bước tổ chức khai thác
kênh hình mà tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III (2004 - 2007) đã
hướng dẫn, cụ thể qua khai thác kênh hình, GV cần chú ý rèn luyện cho học sinh
những kĩ năng:

- Kĩ năng quan sát, nhận xét
- Kĩ năng mô tả, tường thuật
- Kĩ năng phân tích, nhận định đánh giá
Để rèn luyện được các kĩ năng đó, trong việc tổ chức khai thác kênh hình,
giáo viên tiến hành các bước sau:
- Thứ nhất, trước khi hướng dẫn HS khai thác kênh hình, tìm hiểu kênh hình,
GV phải là người đã nắm kĩ, GV đã tìm hiểu, nắm vững nội dung của kênh hình
đó bằng việc đọc sách tham khảo, báo, mạng...
- Thứ hai, để chuẩn bị cho một giờ học mỗi GV yêu cầu HS đọc trước bài ở nhà,
quan sát kênh hình trong bài học đó.
- Thứ ba, khi giảng dạy GV yêu cầu
B1: Học sinh tiếp cận hệ thống kênh hình.
B2: Xác định khái quát nội dung kênh hình (chủ đề kênh hình)
B3: GV có thể giải thích các chú thích và đưa ra những câu hỏi gợi ý để
học sinh có cơ sở khai thác, thảo luận kiến thức từ kênh hình.
Câu hỏi để phát triển kĩ năng cho học sinh phải đi theo trình tự: Phát
hiện, nhận biết → nhận xét, so sánh, đánh giá → rút ra bài học.
B4: Tổ chức cho học sinh trả lời câu hỏi trên cơ sở các em tự phát hiện
kiến thức mới.
B5: GV nhận xét, bổ sung, hoàn thiện nội dung và đi đến kết luận. Đồng
thời qua nghiên cứu, tìm hiểu kênh hình sẽ dễ dàng giáo dục sức khỏe, tư tưởng,
tình cảm, đạo đức cho học sinh.
2.3.4. Củng cố cho học sinh những kĩ năng cơ bản, thiết yếu trong khai thác
kênh hình
* Kĩ năng đọc:
Muốn HS khai thác được kênh hình thì việc đầu tiên là GV phải rèn luyện
cho HS kĩ năng đọc kênh hình. Nguyên tắc chung của việc đọc kênh hình là:
+ Đọc tên kênh hình
6



+ Đọc bản chú giải và xác định những kí hiệu tương ứng trên kênh hình
* Kĩ năng mô tả, thuyết trình kênh hình:
- Cách đứng: đứng thuyết trình bên trái, dùng tay phải để chỉ.
- Cách mô tả: chỉ từ gốc tới ngọn, xác định kí hiệu, nội dung trọng tâm, các
mối liên hệ giữa các kí hiệu trọng tâm đó
Để HS hình thành được những kĩ năng trên, bản thân đã tiến hành các
công việc sau:
- Bước 1: Hướng dẫn HS nắm được những yêu cầu trên.
- Bước 2: GV thực hiện mẫu trên lớp và luôn luôn tuân thủ đúng những nguyên
tắc, một số lưu ý trên khi thực hiện khai thác kênh hình trên lớp.
- Bước 3: Tổ chức cho HS thực hiện trên lớp. Công việc này được GV tiến hành
kiểm tra nhắc nhở thường xuyên trên lớp để hình thành, để phát triển kĩ năng
cho HS.
Kết quả, qua một thời gian hướng dẫn, nhắc nhở, kiểm tra, đa số HS đã
thực hiện được kĩ năng cơ bản, thiết yếu trong khai thác kênh hình.
2.3.5. Rèn luyện cho HS kĩ năng khai thác hình ảnh
Hình ảnh trong SGK sinh học chiếm số lượng lớn, là một phần của đồ
dùng trực quan trong dạy học, nó có ý nghĩa hết sức to lớn không chỉ là phương
tiện trực quan giúp bài học thêm hấp dẫn, sinh động mà còn là nguồn cung cấp
kiến thức quan trọng, giáo dục tư tưởng, tình cảm, tư duy ở HS.
Hiện nay, HS rất thích xem tranh ảnh nhưng lại không biết khai thác phục
vụ cho bài học. Vì vậy, việc rèn luyện kĩ năng khai thác triệt để tranh ảnh SGK
cho học sinh cần phải được giáo viên thường xuyên hướng dẫn.
Khi hướng dẫn, GV cần giúp HS không chỉ biết chỉ, biết miêu tả bề ngoài
của kênh hình mà quan trọng hơn là phải biết khai thác nội dung bên trong.
Thường thì GV sẽ giới thiệu tên tranh, hình vẽ, yêu cầu HS quan sát và sau đó
đưa ra những câu hỏi gợi ý giúp học sinh tập trung suy nghĩ về hình ảnh đó theo
những cách khác nhau. Để thúc đẩy sự quan sát sâu của học sinh, bản thân đưa
ra một số gợi ý: hình ảnh này mang chủ đề gì? Thu nhận, phân tích, đánh giá

được những thông tin gì từ hình ảnh đó? Em có so sánh và liên hệ gì? Thông qua
hình ảnh đó em có thể dự đoán gì? Bày tỏ thái độ gì trước mỗi hình ảnh? Miêu
tả và nhận xét bằng ngôn ngữ riêng của mình?

Cụ thể:

Hình ảnh này có
chủ đề là gì?
Hình ảnh

Em thu nhận được
những thông tin gì
qua hình ảnh đó?

Em có cảm nhận và
bày tỏ gì?

Liên hệ
Vận dụng

7


Ví dụ khi khai thác hình 38.2. Hậu quả tác động của hoocmon sinh
trưởng, SGK sinh học 11 cơ bản, trang 153 để dạy bài 38 các nhân tố ảnh hưởng
đến sinh trưởng và phát triển ở động vật

Đối với kênh hình này khi khai thác GV cần:
- Hướng dẫn HS quan sát và sử dụng các câu hỏi gợi mở như bức tranh nói lên
điều gì?, nhìn vào bức tranh em có nhận xét gì?, tại sao lại có người nhỏ bé,

người bình thường và người khổng lồ?, điều đó có ảnh hưởng gì không?, qua
hình ảnh đó em thấy cần làm gì nếu gặp những người như vậy?...
- HS tự nhận xét và đưa ra phương án trả lời
- GV kết luận:
+ Nhận biết: Hình này nói về 3 kiểu người (người nhỏ bé, người khổng lồ và
người bình thường) hình thành do tác động của hoocmoon sinh trưởng.
+ Phân tích nguyên nhân: người bình thường do tuyến yên tiết ra lượng
hoocmôn sinh trưởng vừa phải vào giai đoạn trẻ em, người bé nhỏ do tuyến yên
tiết ra lượng hoocmôn sinh trưởng quá ít vào giai đoạn trẻ em, người khổng lồ
do tuyến yên tiết ra lượng hoocmôn sinh trưởng quá nhiều vào giai đoạn trẻ em.
Lí do là khi lượng hoocmôn được tiết ra quá nhiều vào giai đoạn trẻ em dẫn đến
tăng cường quá trình phân chia tế bào, tăng số lượng tế bào và tăng kích thước tế
bào (qua tăng tổng hợp prôtêin và tăng cường phát triển xương).
+ Ý nghĩa/bài học: thấy được quá trình sinh trưởng diễn ra mạnh ở giai đoạn trẻ
em. Vì vậy cần đặc biệt chú ý đến sự phát triển của trẻ, đảm bảo cho trẻ phát
triển bình thường. Trường hợp người khổng lồ và người nhỏ bé thường có nhiều
hạn chế trong nhiều công tác sinh hoạt… Tuy nhiên khi tiếp xúc với những
người này không nên có thái độ chê cười, chế diễu mà nên hòa đồng, giúp đỡ…
8


Như vậy, qua khai thác hình 38.2 trang 153 SGK sinh học 11, HS đã tiếp
nhận được phần cơ bản của nội dung bài học, qua đó giúp giáo viên chuyển tải
được lượng kiến thức cơ bản của bài học đến học sinh trên cơ sở phát triển kĩ
năng khai thác kênh hình của học sinh, từ đó góp phần thực hiện tốt việc giáo
dục nhân cách, đạo đức cho HS.
2.3.6. Rèn luyện cho HS kĩ năng khai thác biểu đồ
Trong SGK sinh học 11, số lượng biểu đồ ít hơn, thể hiện sự vận động của
sự vật hiện tượng, thường biểu diễn trên trục hoành và trục tung.
Ví dụ như hình 10.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quang hợp, SGK Sinh

học 11, trang 46, bài 10 ảnh hưởng của các nhân tố ngoại cảnh đến quang hợp.

Để khai thác biểu đồ, đầu tiên GV cũng cần giới thiệu tên biểu đồ cho HS,
giới thiệu trục hoành thể hiện yếu tố nhiệt độ, trục tung thể hiện cường độ quang
hợp, các chú thích 1, 2, 3 thể hiện 3 loài cây khác nhau. Sau đó yêu cầu HS quan
sát biểu đồ và trả lời các câu hỏi: cường độ quang hợp có chịu ảnh hưởng của
nhiệt độ không?, trình bày sự phụ thuộc của quang hợp vào nhiệt độ?, cho biết
sự phụ thuộc của quang hợp vào nhiệt độ có giống nhau ở tất cả các loài không?,
em hãy liên hệ trong sản xuất nông nghiệp.
- HS quan sát và trả lời
- GV nhận xét và đưa ra kết luận
Nhiệt độ có ảnh hưởng đến quá trình quang hợp, do đó ảnh hưởng tới
năng suất cây trồng. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quang hợp ở mỗi loài cây
trồng khác nhau là khác nhau và mỗi cây trồng có một khoảng nhiệt độ thích
hợp khác nhau. Vì vậy trong sản xuất nông nghiệp cần chú ý đến khoảng nhiệt
thích hợp của cây trồng để thu được năng suất cao nhất và trong sản xuất chú ý
chọn cây trồng phù hợp với đặc điểm khí hậu từng vùng, miền...
2.3.6. Rèn luyện cho HS kĩ năng khai thác sơ đồ
9


Sơ đồ trong SGK nhằm cụ thể hóa nội dung bằng những mô hình, kí hiệu
đơn giản, thể hiện diễn biến các yếu tố, quá trình, mối liên hệ giữa các yếu tố,
quá trình với nhau. Thông thường khai thác sử dụng sơ đồ dễ hơn. Nhưng GV
trước hết cần giới thiệu cho HS tên sơ đồ, một số chú thích nếu có, sau đó hướng
dẫn HS khai thác sơ đồ bằng những câu hỏi gợi ý để HS tư duy tìm hiểu nội
dung, câu hỏi cũng được đặt ra theo trình tự như sau: Phát hiện, nhận biết →
nhận xét, so sánh, đánh giá → rút ra bài học. Cuối cùng GV chốt lại ý cơ bản.
Ví dụ như khi khai thác hình 46.2. Sơ đồ cơ chế điều hòa sinh trứng, SGK
sinh học 11, trang 180, để dạy bài 46 cơ chế điều hòa sinh sản


Khi khai thác GV cần giới thiệu sơ đồ về cơ chế điều hòa sinh trứng, chú
thích mũi tên liền là thể hiện kích thích, còn mũi tên nét đứt tức quá trình này bị
ức chế ngược và những nội dung được đống trong khung thì nhằm cung cấp kiến
thức tác dụng, vai trò của các hoocmon tham gia quá trình điều hòa sinh trứng.
Sau đó GV hướng dẫn HS quan sát và sử dụng câu hỏi gợi mở: Em có thể mô tả
sơ đồ? Cho biết tên, nơi sản xuất và tác dụng của từng hoocmon ảnh hưởng đến
quá trình phát triển, chín và rụng trứng? Khi nào thì quá trình sinh trứng bị ức
chế? Vận dụng cơ chế này xây dựng biện pháp tránh thai nào? Nếu quá trình
sinh trứng rối loạn có ảnh hưởng đến sức khỏe không? Theo em cần làm gì nếu
quá trình này bị rối loạn?
- HS phải quan sát, nhận xét, thảo luận và đưa ra phương án trả lời
- GV: Kết luận
+ Nhận biết:
10


Các hoocmôn ảnh hưởng đến quá trình phát triển, chín và rụng trứng là:
• GnRH do vùng dưới đồi tiết ra điều hoà tuyến yên tiết FSH và LH.
• FSH và LH do tuyến yên tiết ra.
FSH kích thích phát triển nang trứng (nang trứng bao gồm tế bào trứng và
các tế bào hại bao quanh tế bào trứng, nang trứng sản xuất Ơstrôgen)
LH kích thích nang trứng chín và rụng trứng, hình thành và duy trì hoạt
động của thể vàng. Thể vàng tiết ra hoocmôn prôgestêron và estrôgen.
Hai hoocmôn ostrogen và progesteron kích thích niêm mạc dạ con phát
triển (dày lên) chuẩn bị cho hợp tử làm tổ.
+ Phân tích:
Khi nồng độ HM ostrogen và progesteron trong máu tăng quá cao thì sẽ
diễn ra cơ chế ức chế ngược đến vùng dưới đồi và tuyến yên làm giảm tiết
GnRH, FSH, LH → giảm tiết ostrogen và progesteron → không xảy ra trứng

chín và rụng.
Khi nồng độ HM ostrogen và progesteron giảm không gây ức chế lên
vùng dưới đồi và tuyến yên nên bộ phận này lại tăng tiết hoocmon gây rụng
trứng.
+ Ý nghĩa:
Nhờ cơ chế điều hòa này mà quá trình chín và rụng trứng diễn ra theo chu
kì. Ở phụ nữ gọi là chu kì kinh nguyệt. Ở mỗi loài khác nhau có chu kì chín và
rụng trứng khác nhau. Nếu quá trình này bị rối loạn sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe
sinh sản.
Hiểu biết về quá trình này là hiểu về cơ chế của biện pháp tránh thai tính
ngày rụng trứng và sử dụng thuốc tránh thai. Ngoài ra thấy được trong cơ chế
tác động đến quá trình sinh trứng chịu ảnh hưởng từ các kích thích của môi
trường bên ngoài tác động vào hệ thần kinh và đến các tuyến nội tiết. Do đó, để
quá trình này diễn ra theo đúng chu kì thì cũng cần chú ý tới các yếu tố môi
trường thức ăn, chất dinh dưỡng, tránh căng thẳng thần kinh kéo dài…GV cũng
có thể bổ sung thêm một số kiến thức sinh sản hoặc giáo dục sinh sản cho HS.
Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng khai thác kênh hình trong dạy học Sinh
học cho học sinh miền núi theo các biện pháp trên có thể giúp phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo, phát triển tư duy cho người học, đồng thời có ý
nghĩa giáo dục mang lại niềm vui, hứng thú cho người học.

2.4. Hiệu quả của đề tài
Trong quá trình vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu tình hình học tập bộ môn
của HS, vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Sau đây là những kết
quả đạt được khi tôi áp dụng SKKN này trong giảng dạy.
Để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp rèn luyện kĩ năng
khai thác kênh hình trong dạy học sinh học 11 cho học sinh miền núi tôi đã tiến
hành thực nghiệm. Chọn 2 lớp 11 để thực nghiệm: một lớp đối chứng (ĐC) và
11



một lớp thực nghiệm (TN) tương đối đồng đều nhau về chất lượng HS (dựa vào
kết quả học tập, theo đánh giá của GV bộ môn và GV chủ nhiệm).
Trường
Nhóm ĐC
Nhóm TN
Lớp
Sĩ số HS
Lớp
Sĩ số HS
THPT Quan Hóa
11A1
37
11A2
32
Tôi đã tiến hành 3 bài kiểm tra 15 phút ở hai lớp này, trong đó 1 bài trước
khi thực nghiệm, 2 bài trong và sau khi tiến hành thực nghiệm (Xem phụ lục).
Và kết quả thu được như sau:
Bảng 1. Bảng phân loại trình độ HS qua bài kiểm tra trước TN
Điểm yếu
Điểm TB
Điểm khá
Điểm giỏi
Lần Phương Số
KT

án

bài


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

ĐC
37
9
24,1 21
56,8 7
18,9 0
0
TN
32
8
24,9 19
59,4 5
15,7 0
0

Bảng 2. Bảng phân loại trình độ HS qua 2 lần kiểm tra trong và sau TN
Điểm yếu
Điểm TB
Điểm khá
Điểm giỏi
Lần Phương
Số bài
KT
án
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

1

2
3

ĐC

37

7

18,9


24

64,9

6

16,2

0

0

TN

32

4

12,5

17

53,1

10

31,25

1


3,1

ĐC

36

8

22,2

23

63,9

5

13,8

0

0

TN

32

5

15,6


16

50

11

34,4

0

0

Qua thực nghiệm thấy được sự tiến bộ của lớp thực nghiệm sau khi được
học kĩ năng khai thác kênh hình SGK, trước thực nghiệm kết quả cho thấy kĩ
năng khai thác kênh hình ở hai lớp còn yếu thể hiện ở số điểm trung bình và
dưới trung bình có số lượng lớn. Sau thực nghiệm HS lớp thực nghiệm đã có kĩ
năng, biết được cách khai thác kênh hình. Trong khi đó lớp đối chứng hầu như
chưa có kĩ năng khai thác kênh hình nên việc trả lời gặp nhiều khó khăn, HS
không có tư duy kênh hình, do đó kết quả có sự khác biệt rõ rệt giữa lớp thực
nghiệm và lớp đối chứng.
Như vậy, khi đưa đề tài này vào áp dụng trong thực tiễn giảng dạy, chúng
tôi rất vui mừng khi nhận thấy học sinh hào hứng hơn, tích cực hơn trong học
tập bộ môn sinh học. Nhiều học sinh trước đây còn rụt rè e ngại lúng túng không
biết được những kiến thức cơ bản trong khai thác kênh hình thì giờ đây các em
biết tự quan sát nhận xét đánh giá được, chất lượng học tập bộ môn sinh học của
học sinh ngày càng tăng lên. Trong khi khai thác sử dụng kênh hình, HS có điều
kiện phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, huy động vốn kiến thức sẵn có
vào việc khai thác sử dụng kênh hình, rèn luyện đựơc kĩ năng thực hành, thuyết
trình, phát triển trí tưởng tượng, khả năng tư duy cho HS. Hơn nữa qua kết quả

trên tôi nhận thấy HS đã được rèn luyện kĩ năng khai thác kênh hình SGK có thể
12


nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức, hình ảnh được lưu giữ lại đặc biệt vững chắc trong
trí nhớ là hình ảnh thu nhận bằng trực quan.
Áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này để giúp học sinh miền núi khai thác
tốt kênh hình trong học tập bộ môn sinh học, bản thân rút ra được những kinh
nghiệm sau:
- Cần phải phối hợp với đồng nghiệp để tạo ra sự thống nhất cao trong
việc tổ chức cho học sinh khai thác tốt kênh hình trong học tập bộ môn sinh học
về lý luận, phương pháp tiến hành, rèn luyện kĩ năng từ thấp đến cao.
- Trong một bài thường có nhiều kênh hình, trong đó có những kênh hình
chứa nội dung cơ bản của bài học, có những kênh hình chỉ mang tính chất minh
học cho nội dung bài học. Vì vậy, GV cần lựa chọn và phân phối thời gian để
hướng dẫn HS khai thác hiệu quả.
- Việc rèn luyện kĩ năng này phải được giáo viên tiến hành thường xuyên
trên lớp và phải có sự chuẩn bị tốt ở nhà của cả giáo viên và học sinh. Cần chú
trọng tăng cường hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ năng khai thác kênh hình cho
HS thông qua các bài tập về nhà và phần dặn dò chuẩn bị cho bài mới.
- Câu hỏi để phát triển kĩ năng cho học sinh phải đi theo trình tự: Phát
hiện, nhận biết → nhận xét, so sánh, đánh giá → rút ra bài học, theo đúng
phương châm: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn”.
- Trong dạy học sinh học việc kết hợp chặt chẽ giữa lời nói sinh động của
GV với đồ dung trực quan nói chung và kênh hình SGK nói riêng là một trong
những điều kiện quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ môn học.
- Là người hướng dẫn, tổ chức cho HS khai thác, sử dụng kênh hình nên
GV cần có sự đầu tư về thời gian, công sức, nắm chắc nội dung, ý nghĩa của
kênh hình trước khi sử dụng.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua nghiên cứu, áp dụng các biện pháp “Rèn luyện cho học sinh miền núi
kĩ năng khai thác kênh hình trong SGK sinh học 11 THPT” tôi thấy rằng HS đã
khắc phục được những tồn tại trong việc khai thác kênh hình, từ đó giúp các em
phát triển kĩ năng tự khai thác tốt kênh hình trong học tập, góp phần nâng cao
chất lượng học tập bộ môn sinh học nói chung và môn sinh học 11 nói riêng. Tôi
nhận thấy nếu áp dụng các biện pháp trên, vận dụng linh hoạt vào các trường,
tuỳ theo đặc điểm, đặc thù của mỗi trường, đối tượng HS thì chắc chắn sẽ có
những chuyển biến tích cực trong học tập của các em. Sáng kiến này tôi sẽ tiếp
tục làm và áp dụng thêm các biện pháp khác cho các khối lớp để đồng bộ và đạt
hiệu quả cao nhất.
3.2. Kiến nghị
* Về phía giáo viên
- GV cần nắm được đặc trưng của từng kênh hình, cách sử dụng và ý nghĩa của
việc sử dụng kênh hình trong bài giảng.
13


- Cần giúp giáo viên chủ động tiếp cận với khoa học công nghệ để dễ dàng sử
dụng kênh hình hơn.
- Giáo viên cần thường xuyên sử dụng kênh hình trong việc giảng dạy hơn nữa.
Trong đó GV đóng vai trò là người hướng dẫn cho HS khai thác, luôn phải theo
dõi kiểm tra tiếp nhận của HS, giúp HS phân tích nêu kết luận khách quan về sự
vật hiện tượng được phản ánh trong kênh hình.
* Về phía nhà trường
- Mong nhà trường tiếp tục tạo mọi điều kiện để giáo viên có thể áp dụng kênh
hình vào việc giảng dạy.
- Tạo điều kiện để giáo viên có thể tham gia các lớp bồi dưỡng về phương pháp
giảng dạy mới.


XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 14 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết
không sao chép nội dung của người khác.

Trịnh Thị Hằng

14



×