Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số kinh nghiệm trong dạy phụ đạo nhằm nâng cao chất lượng môn vật lý khối 10 ở trường THPT hà văn mao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.5 KB, 18 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐDDH: Đồ dùng dạy học
GD - ĐT: Giáo dục - Đào tạo
GVCN: Giáo viên chủ nhiệm
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
NXB: Nhà xuất bản
TNKQ: Trắc nghiệm khách quan
SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm
SGK: Sách giáo khoa


MỤC LỤC
I.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
3. Các biện pháp và hình thức tổ chức thực hiện
3.1. Phân loại học sinh yếu kém môn vật lý
3.2. Một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI

Trang


1
1
2
2
2
3
3
4
5
5
6
13
14


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây và đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang tiến hành cuộc cách mạng toàn
diện trên mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới giáo dục là một trong những trọng
tâm của công cuộc đổi mới.
Với quan niệm giáo dục là quốc sách hàng đầu, báo cáo chính trị của
đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học ”.
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương,
biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện

các cuộc vận động lớn như : "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực". Qua việc thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về
giáo dục nói chung, trong có bộ môn Vật lý nói riêng.
Vấn đề học sinh yếu kém hiện nay luôn được cả xã hội quan tâm và
tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát
triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết
tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần
tỉ lệ học sinh yếu kém. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo
viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong
bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại,
giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Môn Vật lý trung học phổ thông là một môn học có thể nói là khó học,
khó hiểu với nhiều học sinh nhất là học sinh từ mức trung bình trở xuống
nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển tư
duy của học sinh trong học tập, trong đời sống thực tiễn và khoa học kĩ thuật.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Vật lý, người thầy không những phải
hướng tới mục tiêu là giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản, hình thành
phương pháp, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ và động cơ học tập đúng đắn, để cho
học sinh có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới,
khắc sâu thêm kiến thức cũ đã được học mà còn giúp học sinh biết đưa kiến
thức Vật lý đã học vào đời sống, vào thực tiễn.
Từ thực tế dạy môn Vật lý ở Trường THPT Hà văn Mao - Huyện Bá
Thước - một trong những trường miền núi còn nhiều khó khăn: Tỷ lệ học sinh
yếu kém rất cao, thậm chí có những lớp số học sinh này chiếm từ 50% dến
70%. Vì vậy, Bản thân tôi và các đồng chí trong nhóm Vật lý cũng như trong
trường thường xuyên phải dạy các lớp có rất nhiều học sinh yếu kém. Kết quả
là có rất nhiều học sinh không những không tiến bộ mà còn yếu hơn, phải thi
1



lại, phải lưu ban và nhiều em phải chịu cảnh rời xa mái trường.Vì thế, tôi thiết
nghĩ việc tìm ra nguyên nhân và có những biện pháp giúp đỡ những đối tượng
học sinh này để các em tiến lên mức đạt yêu cầu và có kết quả cao hơn nữa
trong học tập nói chung và môn Vật lý nói riêng là việc làm rất cần thiết. Nếu
làm được điều này chúng ta sẽ nâng dần được chất lượng giảng dạy nói chung
và bộ môn Vật lý nói riêng, đồng thời sẽ làm cho các em thích học, thích đến
trường, yêu trường yêu lớp hơn và đặc biệt sẽ giảm được số lượng học sinh bỏ
học hơn.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học bắt dầu từ giai đoạn tổ chức
lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân tôi luôn nuôi một niềm hy vọng là làm
sao đề số học sinh yếu kém có hứng thú trong học tập, yêu học tập và đặc biệt
là thích học môn Vật lý. Và đây cũng chính là lí do tôi chọn đề tài “Một số
kinh nghiệm trong dạy phụ đạo nhằm nâng cao chất lượng môn Vật lý Khối 10 ở trường THPT Hà Văn Mao” để làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều học sinh học kém môn
vật lý.
Phân loại học sinh yếu kém môn Vật lý.
Đưa ra một số biện pháp cụ thể nhằm giảm thiểu số lượng học sinh
học yếu kém môn vật lý.
3. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học bộ môn vật lí tại các lớp: 10A2; 10A3; 10A4; 10A7
của trường THPT Hà Văn Mao
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.

2



II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
Thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung do Bộ GD &
ĐT phát động, trong đó có nội dung “Chống bệnh thành tích trong giáo dục”
là một trong những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta
hiện nay nhằm đánh giá thực chất chất lượng học sinh. Bên cạnh đó cũng
phản ánh được chất lượng và hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Những học
sinh lên lớp là những học sinh có kiến thức thực sự, xứng đáng đựơc lên lớp.
Những học sinh không đảm bảo được yêu cầu sẽ không được lên lớp. Xuất
phát từ vấn đề này, chúng ta không thể hiểu theo hướng là vô tư để học sinh
yếu kém “ở lại lớp” mà không có trách nhiệm của giáo viên trong đó. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu kém gồm có chủ quan và khách
quan mà nếu giáo viên kịp thời quan tâm, giáo dục sẽ giúp cho nhiều học sinh
yếu kém tiến bộ và thoát khỏi tình trạng yếu kém.
Những học sinh học tập yếu, kém vẫn luôn luôn tồn tại trong giáo dục,
tuy nhiên về số lượng học sinh yếu, kém nhiều hay ít là tùy ở từng nhà trường
và từng bộ môn. Mức độ tiến bộ của học sinh yếu, kém nhanh hay chậm trong
quá trình được giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của riêng mỗi
nhà trường, mỗi nhà quản lý giáo dục và mỗi Thầy Cô giáo. Giúp đỡ học sinh
yếu kém được gắn với cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” và “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng
tạo”. Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động “Hai không” do Bộ GD-ĐT phát
động, cương quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong các
lần tổ chức kiểm tra - thi cử trong toàn ngành.
Giải pháp phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém bộ môn có mục
đích nhằm giúp cho học sinh xác định nội dung kiến thức cơ bản, trọng tâm
đã tìm hiểu một cách chính xác mà trong giờ học vì một lí do nào đó học sinh
chưa nắm bắt được. Khi học sinh đã tiếp thu và vận dụng được kiến thức
trong bài học thì sẽ hình thành được sự hứng thú, say mê với môn học. Từ đó

các em sẽ xác định cho mình kế hoạch học tập, phương pháp tự học, tự nghiên
cứu, có tính độc lập cao trong tư duy nhận thức sẽ thúc đẩy học sinh học tập
tiến bộ…
Phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém là giáo viên phải tìm cách để
bổ sung được những “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến
thức cơ bản và trọng tâm trong mỗi bài học có trong sách giáo khoa Vật lý ).
Muốn làm tốt nhiệm vụ này thì bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính xác
và đánh giá được mức độ kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy
để lên được kế hoạch phụ đạo, thiết kế nội dụng tiết học phụ đạo sao cho có
hiệu quả nhất.
Điều quan trọng ở đây là học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong suy
nghĩ và hành động, tích cực phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ, cân nhắc kĩ
3


lưỡng những thông tin nhận được để “ lấp lại lỗ hổng kiến thức” và phải luôn
có hành động phản hồi lại kiến thức một cách chính xác, khoa học nhất.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin được trình bày một số
nguyên nhân khách quan và chủ quan từ phía các Thầy Cô giáo giảng dạy bộ
môn đã làm tăng tỉ lệ học sinh yếu kém và một số biện pháp cụ thể đối với
bản thân người giáo viên trực tiếp giảng dạy để giảm bớt tỉ lệ học sinh yếu
kém môn Vật lý ở trường THPT hiện nay.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua những năm công tác giảng dạy bộ môn Vật lý ở một trường thuộc
khu vục miền núi, bản thân tôi xin đưa ra và phân tích những thực trạng và
những nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến chất lượng học tập của học
sinh yếu kém ở Trường THPT Hà Văn Mao - Bá Thước nói riêng và các
trường THPT nói chung sau đây:
2.1. Về phía nhà trường
Trường THPT Hà Văn Mao - Bá Thước - là một trong những trường

thuộc khu vực miền núi đang còn nhiều khó khăn (thuộc diện 62 huyện nghèo
nhất cả nước), đời sống kinh tế cũng như trình độ dân trí còn tương đối thấp,
nên vấn đề học tập vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng. Do đó, trường gặp
nhiều khó khăn ngay từ khi tuyển đầu vào: chất lượng học sinh tuyển vào vẫn
còn thấp, khoảng 50-60% là yếu kém.
2.2. Về phía học sinh
- Học sinh chưa tự giác, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm
học tập, mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới. Nhiều học sinh đuối sức
trong học tập, không theo kịp các bạn, thiếu kiến thức, kỹ năng để học tập ở
lớp đang học (ngồi nhầm lớp), sinh ra chán học, sợ học (hội chứng sợ học).
Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học
tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý
và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông
chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn
chế, chưa biết phát huy khả năng của mình. Nhiều học sinh chưa biết đổi đơn
vị, chưa biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết.
- Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ
động, lệ thuộc vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không
hiểu gì cả ), học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì
quay cóp và tài liệu.
- Học sinh lười học: Đa số các em không có thời gian cho việc tự học,
không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không
chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì
các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi
lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về
nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.

4



- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể
phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến
một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
- Một số học sinh đi học thất thường, đến trường nhưng không vào lớp
học, đặc biệt học sinh vắng nhiều vào các buổi chiều, ham chơi, la cà quán xá.
2.3. Về phía gia đình học sinh
- Đa số Gia đình học sinh là người dân tộc thiểu số làm nghề nông
nghiệp nên gặp nhiều khó khăn về kinh tế khiến các em không chú tâm vào
học tập, cũng như bố mẹ lo làm lụng suốt ngày không có thời gian quan tâm
chú ý đến việc học tập của các em; một số ít phụ huynh trong vùng đi làm ăn
xa để con ở nhà một mình hoặc với ông bà già lâu lâu mới về nên việc quan
tâm chú ý đến việc học tập của các em và phối hợp giáo dục với nhà trường,
với Thầy Cô giáo là rất hạn chế. Bên cạnh đó, có một bộ phận lớn phụ huynh
chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác
cho nhà trường, cho thầy cô... Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin
tưởng vào chúng nên học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng cha mẹ
cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh
lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém dần đi
2.4. Về phía giáo viên
Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà
một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Người ta thường nói “
có Thầy hay thì mới có trò giỏi ”. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công
tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình
độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà điều quan trọng nhất ở
đây là người giáo viên phải phân loại và nắm rõ được các nhóm đối tượng học
sinh trong lớp mình phụ trách để từ đó biết lựa chọn phương pháp dạy học
nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức.
Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo
viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu

kém. Chưa chịu khó tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính
tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn
cảnh gia đình và tâm tư tình cảm cũng như những khúc mắc ưu phiền, những
lo âu... bên trong đã làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của từng học sinh đưa
các em đến tình trạng yếu kém.
2.5. Môi trường xã hội
Môi trường xung quanh của nhà trường ngày càng phức tạp, ngày
càng nhiều các hàng quán ăn uống, các tụ điểm giải trí như: quán Internet,
quán Bi a...tạo nên những cám dỗ lôi cuốn học sinh ăn chơi rồi bỏ học nhiều,
tiêu xài tiền bạc dẫn đến trộm cắp tài sản và đánh nhau...
3. Các biện pháp và hình thức tổ chức thực hiện
3.1. Phân loại học sinh yếu kém môn Vật lý
5


- Căn cứ 1: Điểm bộ môn năm học qua, tham khảo thêm điểm một số
môn học có liên quan hoặc gần gũi cùng khối như Toán, Hóa.
- Căn cứ 2: Điểm khảo sát chất lượng học sinh đầu năm.
- Căn cứ 3: Những biểu hiện và quá trình học tập trên lớp, các con
điểm hiện tại.
Căn cứ vào những khía cạnh trên, tôi chia học sinh yếu kém môn Vật
lý thành những nhóm sau:
Nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung, không có hoặc có
khả năng tiếp thu bài rất thấp.
Nhóm 2: Có ý thức học tập, có khả năng tiếp thu bài nhưng chậm so
với học sinh bình thường.
Nhóm 3: Có kiến thức cơ bản, có ý thức học tập nhưng chưa có
phương pháp học tập đúng đắn
Nhóm 4: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh lười học.
3.2. Một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém

a.Các biện pháp chung
- Giáo dục ý thức học tập, hình thành lòng ham thích và say mê
môn học cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh
tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh ham
học, có ý thức vươn lên trong học tập, bằng cách:
+ Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế
để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực
tiễn.
+ GV phải tăng cường sử dụng triệt để các thí bị thí nghiệm, ĐDDH
sẵn có và tự làm trong các bài học, tăng cường cho học sinh làm các thí
nghiệm thực hành. Đồng thời, giáo viên dịnh hướng và giao nhiệm vụ cho các
nhóm học sinh (đặc biệt là nhóm các học sinh yếu kém) tự làm các thí nghiệm
đơn giản và các ĐDDH có trong chương trình học.
+ Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về
hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học
tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập
tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng
của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học
tập của học sinh. Do hiện nay, đa số các phụ huynh thiếu sự quan tâm đến con
cái, bản thân phụ huynh cũng chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học
tập. Giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng
mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các
em ý chí phấn đấu vươn lên.
- Giáo viên xây dựng một môi trường học tập thân thiện trong từng
tiết dạy của mình: Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện
pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo
viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những
6



tâm tư tình cảm, những suy nghĩ trong cuộc sống và đặc biệt là những khó
khăn trong học tập của bản thân mình.
+ Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng,
không la mắng nặng lời hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho
học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn
trọng mình.
+ Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những
phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo
viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen
ngợi các em. Giáo viên cần có sự quan tâm, đối với những học sinh có tiến
bộ, giáo viên phải nhận ra và động viên kịp thời, có thể nhận xét trực tiếp vào
bài làm hoặc khen ngợi trực tiếp trước lớp sau mỗi bài kiểm tra.
+ Giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh một cuốn sách hay như:
“Bách khoa toàn thư về những học trò lười”; Sách kể về những tên tuổi như
Einstein, Disney, Darwin và Picasso…được thế giới biết đến như những thiên
tài nhưng không phải ai cũng biết họ từng là những học sinh lười biếng,
không có gì nổi bật khi cắp sách đến trường nhưng họ đã để lại dấu ấn sáng
chói trong lịch sử văn minh loài người. Qua những mẩu chuyện này giáo viên
muốn gởi tới các em học sinh, các bậc phụ huynh, quí thầy cô, những người
luôn có ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm tàng chứ không đơn thuần chỉ đặt
niềm tin vào những điểm số nổi bật trong lớp.
+ Tuy nhiên không phải trong bất kỳ trường hợp nào giáo viên cũng
thân thiện, mềm dẻo mà đối với một số đối tượng học sinh, ở một số tình
huống cụ thể nào đó, giáo viên cũng cần thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe để
đưa các em vào nề nếp, khuôn khổ. Điều quan trọng là giáo viên phải tác
động được vào ý thức của học sinh, học sinh hiểu rằng sự nghiêm khắc ấy
nhằm mục đích giáo dục, vì bản thân các em, không có sự trù dập hay phân
biệt đối xử với học sinh.
- Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh: Trong thực tế người ta
nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì

vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức
năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng
này.
Do đó, để các biện pháp và phương pháp đưa ra đạt được hiệu quả thì
người Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những
đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc
điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em
là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu
đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập
phù hợp hơn.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động,
dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều
7


kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em
tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể.
Ví dụ: yêu cầu luyện tập của một tiết là 5 bài tập, các em này có thể
dành cho 2-3 bài, còn 2-3 bài mức độ cao hơn dành cho các dối tượng học
sinh khá hơn.
Ngoài ra, giáo viên có thể đề nghị với nhà trường tổ chức phụ đạo cho
những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả
cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 3 tiết trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ
chức phụ đạo phải được giáo viên chuẩn bị kỹ, làm sao cho học sinh đi học
phụ đạo thấy được rằng việc đi học này có tác dụng, bổ ích, học sinh có khả
năng tiếp thu và tiến bộ trong học tập thì công tác phụ đạo mới thu hút được
học sinh và phát huy được tác dụng của nó.
- Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng
bài giảng, từng đơn vị kiến thức cho từng nhóm đối tượng học sinh

Đổi mới phương pháp dạy học tức là thay đổi từ phương pháp học
sinh tiép nhận kiến thức thụ động từ giáo viên sang phương pháp học sinh tự
tìm ra kiến thức. Điều đó, yêu cầu học sinh phải tự nghiên cứu, tự tìm tòm, tự
khám phá theo sự định hướng, dẫn dắt của giáo viên, tức là học sinh phải hoạt
động nhiều hơn. Trước vấn đề đó, người giáo viên phải thương xuyên tìm tòi,
khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các
phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học
sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo.
Tuy nhiên đối với học sinh yếu kém, đôi khi trong quá trình triển khai
các hoạt động, tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm, thảo luận lại phản tác
dụng .
Ví dụ: Học sinh đã học yếu, khả năng tiếp thu, phân tích, kết luận hạn
chế mà khi được giáo viên phân công vào nhóm có các học sinh khá hơn thì
học sinh yếu sẽ thụ động hẳn đi, không tự tin nêu ra ý kiến của mình, ỷ lại vào
các bạn học khá hơn sẽ đại diện cho nhóm nên học sinh yếu không muốn hoạt
động và sẽ càng yếu hơn. Bên cạnh đó việc đổi mới phương pháp này đòi hỏi
học sinh phải tự giác, tự học rất cao, mà đối tượng học sinh yếu kém lại rất
hạn chế ở khả năng này.
Vì thế theo ý kiến của cá nhân tôi thì đổi mới phương pháp, đặc biệt là
phương pháp hoạt động và thảo luận nhóm thì không phải bài nào cũng áp
dụng được mà chỉ nên vận dụng vào các bài đơn giản dễ hiểu như tiết bài tập.
Còn đối với các bài quan trọng, có tính chất tiền đề cho những bài học sau thì
không nên.
- Giao nhiệm vụ về nhà: Đây là một biện pháp rất quan trọng đối với
học sinh yếu kém
+ Trong mỗi tuần tôi thường giao cho các em các một phần kiến thức
mà các em hổng, các em yếu và một lượng bài tập vừa phải về nhà.Tuy nhiên
8



cần chú ý là phần kiến thức và hệ thống bài tập giao về nhà phải phù hợp với
các nhóm học sinh yếu kém ở trên.
+ Trong các tiết dạy tôi thường hỏi han việc học và giải bài tập về nhà
của các em, một mặt để tỏ thái độ quan tâm, nhắc nhở và để tạo sự cởi mở
trong giao tiếp làm cho các em không ngần ngại.Mặt khác để các em có cơ
hội hỏi giáo viên những chỗ các em bị vướng mắc, chưa hiểu để về nhà giải
tiệp
+ Đến cuối tuần tôi kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các em, thu
bài lại để chấm và dành thời gian thích hợp để chỉ cho các em các lỗi sai
( Đây là một yếu tố để đưa vào đánh giá học sinh yếu kém)
- Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh
Theo tôi, với đối tượng học sinh này thù việc kiểm tra đánh giá các em
có vai trò rất quan trọng trong việc làm cho các em tiến bộ hay yếu hơn nên
trong quá trình dạy các lớp học sinh này khi kiểm tra đánh giá chúng ta cần
chú ý:
Đối với kiểm tra:
+ Hệ thống câu hỏi phải thật đơn giản, dễ hiểu
+ Nội dung câu hỏi phải sát với các kiến thức cơ bản trọng tâm trong
bài học
+ Trong các bài kiểm tra nên kết hợp cả hình thức TNKQ và tự luận,
hệ thống câu hỏi và bài tập đưa ra phải vừa sức với đối tượng này.
+ Phải chấm bài một cách nghiêm túc, tìm ra những chỗ đúng mà các
học sinh này làm được để cho điểm để động viên khích lệ.
+ Lời phê vào bài kiểm tra của những học sinh này rất quan trong nên:
phải khen nhiều chê ít và chỉ rõ cái sai trọng tâm cho học sinh.
+ Khi trả bài phải dành thời gian khen ngợi tuyên dương trước tập thể
lớp và phải sửa cho học sinh này những cái sai cụ thể nhất để các em khắc
phục.
Đối với việc đánh giá kết quả học sinh:
Khi đánh giá đối tượng học sinh này, bản thân tôi luôn kết hợp nhiều

mặt trong quá trình học tập của các em như:
+ Qua các con điểm các em đạt được trong các bài kiểm tra miệng, 15
phút, 45 phút và học kỳ.
+ Qua các biểu hiện học tập bộ môn trong cả học kỳ: thái độ, động cơ
học tập có thay đổi không? Nhiệm vụ giao cho về nhà ( bài tập, ghi chép...)
hoàn thành như thế nào? Ý thức học tập trên lớp như: xây dựng bài, hoạt động
và làm việc theo nhóm ...
- Giáo viên bộ môn phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường
+ Bản thân tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và các
giáo viên bộ môn khác để có thêm được nhiều thông tin về học sinh, đồng
thời cũng là người cung cấp các thông tin để giáo viên chủ nhiệm quản lí học
9


sinh chặt chẽ hơn, phát hiện kịp thời các biểu hiện sa sút của học sinh. Từ đó
giáo viên chủ nhiệm liên hệ với phụ huynh, kết hợp giáo dục học sinh kịp
thời.
+ Bên cạnh đó tôi thường xin dự giờ các đồng chí trong tổ dạy cùng
khối để học tập và kiểm nghiệm lại phương pháp của mình và qua đó trao đổi
để tìm hiểu thêm về tình hình học tập của các lớp khác nói chung để kịp thời
điều chỉnh các biện pháp, phương pháp của mình cho phù hợp.
+ Tôi cũng thường xuyên trao đổi với tổ trưởng chuyên môn để đề
xuất với nhà trường tổ chức phụ đạo cho học sinh yếu kém ngoài giờ chính
khoá nhằm tạo điều kiện cho các học sinh này theo kịp chương trình học, từ
từ nâng dần chất lượng học tập của học sinh.
b. Các biện pháp cụ thể
Ngoài các biện pháp chung ở trên, bản thân tôi còn tiến hành tìm hiểu
học sinh bằng phương pháp chủ yếu là tìm hiểu đánh giá thông qua sản phẩm
hoạt động của học sinh kết hợp với một số phương pháp khác như : trò truyện,

kiểm tra bài cũ, kiểmn tra 15 phút, điều tra …Công cụ đánh giá chính của tôi
là tính xác suất học sinh hiểu bài thông qua quá trình học sinh xây dựng bài
học và vận dụng kiến thức ở chính tiết học đó. Từ đó sàng lọc học sinh thành
nhiều cấp độ nhận thức và nắm bắt được cụ thể các học sinh yếu kém bộ môn
này. Sau khi sàng lọc và phân loại học sinh ( 4 nhóm yếu kém như trên), Tôi
dựa trên những biện pháp chung ở trên để đưa ra các biện pháp cụ thể phù
hợp với từng nhóm đối tượng học sinh yếu kém như sau:
- Đối với nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung, không có
hoặc có khả năng tiếp thu bài rất thấp ( Ta hay nói ngắn gọn là “ Học sinh
mất gốc ” ).
Qua thưc tiễn giảng dạy, tôi thấy học sinh thuộc nhóm này yếu kém ở
các khâu sau đây:
+ Các em thiếu kiến thức cơ bản ở cấp dưới, có tiếp thu được nhưng
không hiểu được nhiều kiến thức bài dạy của Thầy Cô trên lớp và dẫn đến
không nắm được kiến thức cơ bản trọng tâm của các bài học.
+ Các em không nắm được hệ thống đơn vị và không biết đổi đơn vị
của các đại lượng.
+ Các em không hiểu được, không xác định được đề và không tóm tắt
được một bài toán dù đơn giản nhất
+ Các em không sử dụng được cũng như không biến đổi được các biểu
thưc, công thức đơn giản nhất.
+ Các em không biết tính toán và cả không biết dùng máy tính để tính
toán các phép tính đơn giản
Một số giải pháp cụ thể sau đây:
+ Khi triển khai bài mới, xác định rõ kiến thức trọng tâm, kiến thức
nền (những kiến thức cơ bản, có nắm được những kiến thức này mới giải
quyết được những câu hỏi và bài tập) trong tiết dạy cần cung cấp, truyền đạt
cho học sinh. Và sau một phần tôi thường chốt ngắn gọn các kiến thức này
10



vào một góc bảng, sau tiết học tôi có toàn bộ kiến thức cơ bản trọng tâm này
trên góc bảng để củng cố và khắc sau cho các em, đối với học sinh yếu tôi chỉ
yêu cầu nắm được những ý thật cơ bản này. Đặc biệt, đối với học sinh yếu
kém, tôi thường chỉ coi trọng tính vững chắc của kiến thức và kỹ năng hơn là
chạy theo mục tiêu đề cao mở rộng kiến thức.
+ Khi hướng dẫn học sinh luyện tập, tôi đặc biệt chú ý đến các điều
sau: Đối với học sinh yếu chỉ nên yêu cầu các em làm các dạng toán thật cơ
bản, tính toán đơn giản, dựa vào tính chất, các công thức đơn giản nhất, không
nên đưa ra các dạng bài phức tạp cần sử dụng các phương pháp giải nhanh,
liên quan đến các định luật, các thuyết vật lý…
Sau đó tôi hướng dẫn giải mẫu, lúc này nên đặt câu hỏi gợi mở dần để
học sinh xác định được hướng giải và đặc biệt hệ thống câu hỏi phải nhằm
vào những yếu kém của nhóm này ở trên đã trình bày… Đến bài tập tương tự,
cho HS một khoảng thời gian để tự tìm hướng giải, giáo viên đi quan sát, khi
thấy học sinh đi lệch hướng giáo viên phân tích kĩ cho các em thấy sai chỗ
nào. Khi hướng dẫn, chú trọng những “mốc giải chính” của bài như tóm tắt
đúng chưa? Áp dụng đúng công thức chưa?
+ Sau khi thấy các em cơ bản làm được bài, giáo viên lên bảng yêu
cầu học sinh đứng tại chỗ trình bày, mỗi bước giải là một học sinh đễ tập
trung cả nhóm. Trong quá trình giải, giáo viên nhấn mạnh những chỗ học sinh
hay sai lầm, nên tránh.
+ Khi các em đã làm được bài tôi luôn khen ngợi cá nhân và nhóm
học sinh này, đồng thời phải cho điểm cao để khích lệ. Nên chú ý nêu các em
có làm sai chúng ta cũng không nên chê bai trước lớp mà phải tìm những cái
nhỏ nhất mà học sinh làm được để khen hoặc khen về mặt tự giác học tập của
học sinh.
- Đối với Nhóm 2: Có ý thức học tập, có khả năng tiếp thu bài nhưng
chậm so với học sinh bình thường.
Qua thưc tiễn giảng dạy, tôi thấy học sinh thuộc nhóm này yếu kém ở

các khâu sau đây:
+ Các em có kiến thức cơ bản ở cấp dưới, có tiếp thu được kiến thức
bài dạy nhưng với tốc độ chậm
+ Khả năng xử lí kiến thức, xử lí công thức của các em cũng chậm.
+ Do đó, khả năng xử lí và tốc độ giải bài tập cũng chậm
Một số giải pháp cụ thể sau đây:.
+ Giáo viên chia nhỏ nhóm học sinh này ra, các nhóm được chia càng
nhỏ càng tốt(sử dụng mô hình "đôi bạn cùng tiến"), phân công các học sinh
khá về học cùng nhóm này để giúp đỡ các học sinh yếu này. Ban đầu tôi cho
học sinh tự chọn nhóm theo mong muốn cá nhân, sau một thời gian nếu chưa
hợp lý thì điều chỉnh. Tôi ghi lại danh sách các nhóm, theo dõi sát trong quá
trình học cũng như sau mỗi bài kiểm tra, nếu nhóm nào tiến bộ tôi tuyên
dương và cộng điểm thưởng nhóm trưởng.
11


+ Giáo viên chú ý phân tích cho học sinh những kiến thức thường sai,
việc phân tích này thường xuyên thực hiện kết hợp trong các tiết học bài mới
cũng như các tiết luyện tập để giúp các em lấp lỗ hổng, chỗ yếu thường xuyên
hơn.
+ Học sinh yếu kém khả năng tiếp thu và nắm bắt kiến thức chậm, nên
giáo viên cần giảm tải quá trình nhận thức của học sinh bằng cách giản lược
hóa nội dung bài học, rút gọn lại dưới dạng trọng tâm, truyền tải súc tích dưới
dạng hình ảnh trực quan, dễ hiểu dễ quan sát. Đối với bài tập, giáo viên cố
gắng đưa ra các bước càng cụ thể, rõ ràng càng tốt, với phương châm: “Điều
tôi nghe tôi quên. Điều tôi nhìn tôi nhớ. Điều tôi làm tôi hiểu”.
- Đối với Nhóm 3: Có kiến thức cơ bản, có ý thức học tập nhưng chưa
có phương pháp học tập đúng đắn
+ Học sinh yếu kém này thường biểu hiện ở chỗ là: Về thái độ học
sinh này thể hiện như là một học sinh hiểu kiến thức, hiểu câu hỏi và giải

đuợc bài tập rất nhanh; Rất hay phát biểu xây dựng bài, hay xung phong giải
bài tập nhưng lại hay sai kiến thức cơ bản; Trong bài kiểm tra thì trình bày sơ
sài, thiếu chặt chẽ và sai nhiều.
+ Nguyên nhân: do các học sinh này nhận thức chưa đúng về mức độ
kiến thức bộ môn Vật lý nên thiếu hiểu sâu về hiện tượng Vật lý của các kiến
thức, của các bài toán; dẫn đến về nhà học tập không đúng phương pháp (học
qua loa không chú tâm và không đi sâu vào kiến thức, vào hiện tượng) nên
dần dần đi đến yếu kém như vậy.
+ Các giải pháp:
Giáo viên tổ chức kèm cặp, phụ đạo thêm cho học sinh. Việc phụ đạo
này có thể thực hiện theo kế hoạch chung của nhà trường hoặc giáo viên tự tổ
chức cho học sinh với thời lượng 2 tuần 1 buổi. Trong các buổi này, tôi chủ
yếu kiểm tra việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy trên lớp, nếu thấy các em
chưa chắc, hiểu sai lệch kiến thức, sai lệch hiện tượng Vật lý, tôi tiến hành ôn
tập củng cố kiến thức để các em nắm vững chắc hơn, nói chuyện để tìm hiểu
thêm những chỗ các em chưa hiểu hoặc chưa nắm chắc để bổ sung, củng cố.
Hướng dẫn phương pháp học tập: học bài, làm bài, việc tự học ở nhà.
Qua việc giải bài tập, qua các bài tập giao về nhà, tôi tập dần cho các
em phân tích, tính chất, hiện tượng Vật lý của kiến thức, của bài tập để giúp
các em hình thành kỹ năng này và từ đó sẽ đưa ra được cách giải bài toán dễ
dàng hơn.
Thông qua giáo viên chủ nhiệm thông báo với gia đình học sinh về
việc tổ chức học phụ đạo, phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học
tập, đôn đốc thực hiện kế hoạch học tập ở trường và ở nhà.
- Đối với Nhóm 4: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh
lười học.
+ Nguyên nhân:
Do các em không có một chút kiến thức nào về môn học nên có đi
học, có đến lớp cũng không hiểu gì.
12



Do các em ham muốn một trò chơi nào đó hoặc bị bạn bè hư hỏng lôi
kéo.
Do các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học.
Do gia đình thường xảy ra xung đột, thiếu tình cảm hoặc gia đình,
người thân …thiếu sự quan tâm, nhắc nhở và kiểm tra.
+ Các giải pháp:
Làm thay đổi nhận thực về tầm quan trọng của việc học của các em,
thay đổi sự bi quan chán nản của các em khi phải đối mặt với hoàn cảnh gia
đình…bằng cách: Giáo viên vừa phân tích động viên cho các em sự cần thiết
của việc học, nêu ra các trường hợp thật cụ thể của học sinh các năm trước vì
không chú tâm học nên không thi đậu tốt nghiệp trung học phổ thông, sau khi
thi trượt hối hận thì không kịp. Nêu lên những tấm gương các bạn học sinh
vượt lên trên hoàn cảnh để đạt được kết quả cao trong học tập... ( Muốn làm
tốt giải pháp này giáo viên bộ môn phải kết hợp với GVCN để tìm hiểu về gia
đình, về con người của các học sinh này)
Giúp các em tránh xa các trò chơi vô bổ, tránh xa các bạn bè hư hỏng:
phân tích cho các em về tác hại của các trò chơi đến tinh thần, đến sức khỏe
và đến học tập của các em. Đồng thời, làm thay đổi nhận thức về bộ môn và
tăng lòng yêu thích học tập bộ môn để cuốn các em quay trở về việc học tập:
Tôi hay giao cho các nhóm học sinh này đi sưu tầm các ĐDDH như: thí
nghiệm về sự rơi tự do, thí nghiệm về lực đàn hồi của lò xo, thí nghiệm liên
quan đến trọng tâm của vật phẳng mỏng...; Giao cho các em vẽ các ĐDDH
hoặc làm các ĐDDH tự làm...Sau đó thu lại rồi đem ra hội thảo đánh giá trước
lớp, có tuyên dương khen thưởng và cho điểm.
Bên cạnh đó phải tăng cường kiểm tra bài đầu giờ, cuối giờ; kiểm tra
việc ghi chép bài và làm bài tập ở nhà. Chú trọng kiểm tra bài cũ các em yếu
kém. Đối với những học sinh tiến bộ có học bài, làm bài, giáo viên động viên,
khuyến khích tinh thần của các em, khen ngợi các em trước lớp. Giáo viên

nghiêm túc phê bình những em chưa tiến bộ, giáo viên cho học sinh thời hạn,
sau thời hạn đó giáo viên cho học sinh kiểm tra bài để học sinh có thể sữa
chữa những con điểm xấu, từ đó tạo tâm lí cho học sinh cảm thấy có động lực
học và thấy bản thân có khả năng học nên sẽ cố gắng hơn trong thời gian tới.
Ngoài ra, tôi phải kết hợp với các giáo viên bộ môn khác, giáo viên
chủ nhiệm, cán bộ lớp để thường xuyên kiểm tra, đôn đóc, nhắc nhở và theo
dõi sự tiến bộ của các em học sinh này để động viên kịp thời. Đồng thời phải
phối hợp với gia đình để tăng hiệu quả của các biện pháp giáo dục.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
4.1. Kết quả nghiên cứu:
Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là trong năm học 2014- 2015, tôi
đã áp dụng các ý tưởng của đề tài này vào các lớp tôi dạy. Đồng thời đã đưa ra
trao đổi thảo luận và cho các đồng chí giáo viên trong nhóm chuyên môn Vật
13


lý áp dụng, qua một năm thực nghiệm giảng dạy, tôi đã thấy có sự chuyển
biến rõ rệt ở các học sinh yếu kém và thu được kết quả rõ rệt.
4.2. Kết quả đối chứng (Của năm học 2014-2015):
Lớp

Mức độ

10A2

Thường xuyên
áp dụng

10A3


Thường xuyên
áp dụng

10A4

Thường xuyên
áp dụng

10A7

Không áp dụng

Kết quả
Trung
Giỏi
Khá
bình
10
10
20
(22,22% (22,22%
(44,44%)
)
)
17
02
15
(44,74%
(5,26%)

(39,47%)
)
11
03
24
(26,83%
(7,32%)
(58,54%)
)
01
04
20
(2,56%) (10,26%) (57,28%)

Yếu-Kém

05
(11,12%)
04
(10,53%)
03
(7,32%)
14
(35,89%)

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI
1. Kết luận
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất từ đó nhằm giảm thiểu số
lượng học sinh yếu kém luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ là mục đích hướng tới
của từng người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp, nhưng

đây không phải là điều đạt được dễ dàng. Người giáo viên phải nhận thức rõ
vai trò là người “thắp sáng ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri thức trong từng
học sinh . Trong nội dung đề tài của mình, tôi đã đề cập đến một số biện pháp
trong công tác phụ đạo học sinh. Tôi hi vọng đây là vấn đề gợi mở ra một
quan niệm trong dạy học Vật lý, từ đó nhằm giảm thiểu số lượng học sinh yếu
kém môn Vật lý .
Với thực trạng học Vật lý và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học,
có thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào việc nâng cao
chất lượng dạy và học Vật lý trong thời kỳ mới. Mặc dù đã cố gắng song
không thể tránh được các thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các
cấp lãnh đạo, của các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
2. Kiến nghị
2.1. Đối với tổ, nhóm chuyên môn:
Các tổ nhóm chuyên môn cần tổ chức dự giờ của các đồng chí trong
nhóm, đặc biệt là các đồng chí giáo viên trẻ. Từ đó để góp ý cho nhau về
phương pháp giảng dạy, đặc biệt là phương pháp dạy ở các lớp có nhiều học
sinh yếu kém. Đồng thời các nhóm cũng thường xuyên trao đổi đánh giá về sự
14


tiến bộ của các lớp có nhiều học sinh yếu kém trong các lần học ở các tháng
qua điểm các bài kiểm tra thường xuyên, định kỳ.
2.2. Đối với nhà trường:
Nhà trường cần trang bị thêm các sách tài liệu cho thư viện để giáo
viên và học sinh tham khảo.
Tổ chức các buổi trao đổi, thảo luận về phương pháp dạy học.
2.3. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo
Tổ chức các chuyên đề, hội thảo để giáo viên có điều kiện trao đổi và
học tập chuyên môn - nghiệp vụ.

Tuyển dụng đủ giáo viên để mỗi giáo viên chỉ dạy đúng số tiết theo
quy định, giáo viên có thời gian và công sức tập trung cho công tác phụ đạo
học sinh yếu kém.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VI

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
Người viết sáng kiến

Hoàng Thị Thu

15


16



×