Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Giáo dục truyền thống yêu nước qua dạy học lịch sử lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.97 KB, 13 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG PT NGUYỄN MỘNG TUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC QUA
DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 10

Người thực hiện: Nguyễn Thị Oanh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Lịch Sử

THANH HÓA NĂM 2016


TT NỘI DUNG

Trang

I

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1

Lý do chọn đề tài

1


2

Mục đích nghiên cứu

1

3

Phạm vi nghiên cứu

2

4

Phương pháp nghiên cứu

2

II

PHẦN NỘI DUNG

3

1

Cơ sở lí luận

3


2

Thực trạng vấn đề

3

3

Giải pháp khi sử dụng giải quyết vấn đề

4

4

Hiệu quả của sáng kiến

9

5

Kết luận, kiến nghị

10
MỤC LỤC


I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay, công tác giáo dục của nhà nước ta đang được triển khai đồng bộ,
rộng khắp ở các trường phổ thông. Công cuộc này đòi hỏi đồng thời tiến hành

cải cách giáo dục về nội dung và phương pháp dạy học ở tất cả các môn học.
Song trên thực tế, việc đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Lịch
sử ở trường phổ thông đã được quan tâm, nói nhiều. Bản thân mỗi giáo viên đều
cố gắng học hỏi, rút kinh nghiệm ở những tiết dạy mẫu, sáng kiến kinh nghiệm
để thu hút sự yêu mến của học sinh đối với môn Lịch sử nhưng cũng vì nhiều lí
do mà những năm gần đây môn Lịch sử không phải là sự lựa chọn của học sinh.
Bản thân là giáo viên dạy Lịch sử, tôi chỉ có tham vọng duy nhất là phải
tìm tòi, sáng tạo bài dạy để thu hút, say mê giờ học Lịch sử cho các em, để giờ
dạy bớt tẻ nhạt, lắng đọng hơn, thu hút các em học sinh hơn, phát huy tính tích
cực, chủ động của các em.
Tôi cho rằng, môn Lịch sử là môn học quan trọng, nó có vị trí rất quan
trọng trong giáo dục. Vì vậy, tôi chọn đề tài này mong muốn giáo dục cho thế hệ
trẻ những tình cảm, đạo đức, lòng yêu quê hương, đất nước, tự hào về truyền
thống dân tộc. Bởi vì thông qua sự kiện Lịch sử, nhân vật Lịch sử, học sinh sẽ
thấy được những tấm gương hy sinh của các anh hùng dân tộc, tự hào về truyền
thống bảo vệ và xây dựng đất nước của bao thế hệ cha ông.
Hiện nay đất nước ta đang đổi mới, đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, chúng ta đang xây dựng đất nước hiện đại, nhưng không thể
cắt đứt với truyền thống đặc biệt được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử là
truyền thống yêu nước.
Truyền thống yêu nước phải được các thế hệ trẻ phát huy, đi đúng hướng:
Hợp tác, giao lưu với các nước khác nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của dân
tộc Việt Nam.
Giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, giao dục truyền thống yêu nước nói
chung và giao dục lòng yêu nước nói riêng là một trong những nhiệm vụ và yêu
thế của bộ môn Lịch sử. Song muốn đạt được kết quả, cần phải hiểu rõ các khái
niệm, nắm vững nội dung các bài học Lịch sử, từ đó chúng ta có định hướng rõ
hơn trong việc tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp để giờ dạy đạt hiệu quả
cao hơn.
Để Truyền thống yêu nước ngày càng phát huy, tỏa sáng trong mọi hoàn

cảnh, thế hệ nào cũng coi trọng, gìn giữ. Tôi mạnh dạn áp dụng phương pháp
chọn đề tài ‘‘Giáo dục Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong
kiến- Lớp 10’’. Mong rằng chất lượng học sinh học bộ môn Lịch sử thay đổi và
thái độ học tập của các em có chuyển biến tích cực hơn, yêu thích môn Lịch sử
hơn, đóng góp một phần nhỏ vào công việc nâng cao chất lượng của môn Lịch
sử.
2.Mục đích nghiên cứu.
Đề tài này Tôi cố gắng làm rõ về những phương pháp dạy học thích hợp,
hiệu quả nhằm giáo dục học sinh lòng yêu nước, tự hào dân tộc thông qua dạy
1


học Lịch sử với những kiến thức, khái niệm cơ bản nhất, dễ tiếp thu nhất, dễ hiểu
nhất cho học sinh. Từ đó làm thay đổi được quan điểm của các em khi học Lịch
sử, tạo cho các em say sưa, yêu thích môn Lịch sử hơn. Giáo dục cho các em là
người có trách nhiệm hơn với bản thân, xã hội, đất nước.
Đối với thế hệ trẻ, là chủ nhân của đất nước Việt Nam, các em chính là
những thế hệ tiếp nối và phát huy Truyền thống yêu nước của cha ông đã gìn giữ
và phát huy qua hàng năm lịch sử thì phải cho các em thấy được để các em tự
hào, có trách nhiệm hơn với đất nước, với truyền thống của dân tộc. Đó chính là
mục đích của đề tài này.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Trong phạm vi của đề tài sáng kiến này, tôi chỉ nghiên cứu bài :Giáo dục
Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến- Lớp 10- Học sinh
Lớp 10.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu.
- Qua các tiết dạy thực nghiệm trên lớp.
- Điều tra hiệu quả của phương pháp qua bài kiểm tra.
- Qua chất lượng học tập trên lớp của học sinh.


2


II. PHẦN NỘI DUNG
1.Cơ sở lý luận.
-Truyền thống yêu nước:
Truyền thống dựng nước, giữ nước là nội dung cốt lõi của truyền thống
dân tộc Việt Nam.
Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam: Là nét nổi bật trong đời
sống văn hóa tinh thần của người Việt, là di sản quý báu của dân tộc được hình
thành rất sớm, được củng cố và phát huy qua hàng ngàn năm lịch sử.
Dân tộc nào, con người của dân tộc đó đều cũng phải lòng yêu quê
hương, yêu đất nước của mình một cách tha thiết nhất, nguyện quyết tâm bảo vệ
tổ quốc. Lòng yêu nước là tình cảm tự nhiên của con người. Trước hết là tình
cảm trong gia đình, từ đó nảy sinh tình cảm với những người xung quanh, họ
hàng làng xóm, lớn nhất là quê hương đất nước.
Lòng yêu nước không phải phát sinh ngay từ khi con người xuất hiện, mà
nó được hình thành trong quá trình lao động và chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Yêu
nước không chỉ là tình cảm nữa mà là nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đất nước.
Lòng yêu nước bắt nguôn từ những tình cảm đơn giản, trong một không
gian nhỏ hẹp nhưng từ khi hình thành quốc gia dân tộc Việt: Văn lang – Âu Lạc
những tình cảm đó phát triển thành tình cảm rộng lớn- Lòng yêu nước.
Lòng yêu nước theo dòng lịch sử, được củng cố, được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, từ thời kì này sang thời kì khác, trở thành truyền thống, tạo nên
sơi chỉ đỏ bên chặt xuyên suốt lịch sử Việt Nam qua từng giai đoạn.
Lòng yêu nước đối với nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn phát triển
trên mọi lĩnh vực của đời sống lao động sản xuất, trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc,
giành độc lập, chống áp bức, bóc lột. Tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa, các
cuộc cách mạng, lao động sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần và vật chất. Lòng yêu

nước trở thành sức mạnh vô song, đưa lại những thành tựu, những thắng lợi lẫy
lừng trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Trong qua trình học tập có rất nhiều ý kiến khác nhau, mỗi giáo viên có
một cách nghĩ riêng nhưng cách chung nhất là ai cũng quan tâm đến việc dạy
như thế nào là hiệu quả nhất. Trong khi đó Truyền thống yêu nước lại năm rải
trong gần cả chương trình học kì hai của lớp 10. Vì vậy với sáng kiến này chúng
ta sẽ khắc sâu kiến thức chung nhất, tránh lan man, dài dòng khiến cho học sinh
nhàm chán.Bên cạnh đó , giáo viên còn kích thích tính sáng tạo, ham học hỏi của
học sinh.
2. Thực trạng vấn đề.
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã tạo
nên nhiều truyền thống tốt đẹp trong đó nổi bật là truyền thống yêu nước. Đây là
điều thiêng liêng, cao quý nhất, là cơ sở tạo nên những truyền thống khác.
Hồ Chí Minh nói rằng: ‘‘Tinh thần yêu nước cũng giống như các thứ của quý.
Có khi trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng
có thể cất dấu kín trong giương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho
3


những của quý, kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức tuyên
truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều
được thực hành vào công việc yêu nước’’.
Giáo dục cho thế hệ trẻ lòng yêu nước trên cơ sở giáo dục truyền thống
dân tộc, lòng yêu nước, lòng yêu nước để phục vụ tốt nhất nhiệm vụ xây dựng
đất nước, mà trước mắt là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các môn
khoa học xã hội nói chung và môn lịch sử nói riêng, có ưu thế, sở trường trong
việc giáo dục truyền thống dân tộc, lòng yêu nước cho học sinh.
Hồ Chí Minh còn căn dặn với các cháu rằng:
‘‘ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Phải học lịch sử vì sử dạy cho chúng ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta, từ
đó cho chúng ta kinh nghiệm, bài học quý báu cho hiện tại và tương lai, phải
giáo dục lòng yêu nước cho học sinh thông qua dạy học môn lich sử để các em
có những nhận thức đúng đắn vè truyền thống dân tộc, góp phần vào việc hình
thành phẩm chất, đạo đức cho các em đi đúng hướng trong công cuộc học tập,
xây dựng tổ quốc.
3.Giải pháp khi sử dụng giải quyết vấn đề.
3.1. Những bài học về đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Những bài học về đấu tranh chống giặc ngoại xâm là loại bài viết có ưu
thế trong việc giáo dục lòng yêu nước cho học sinh. Qua đó học sinh thấy được ý
chí quật cường, sức mạnh đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước, dựng nước
và giữ nước của dân tộc, truyền thống yêu nước dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta qua các giai đoạn lich sử.
Chương trình lịch sử 10 có nhiều trận đánh hay ghi lại những mốc son
chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của quốc gia Đại Việt như: Cuộc kháng
chiến chống Tống của Lê Hoàn, hai giai đoạn trong cuộc kháng chiến chống
Tống của nhà Lý, ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên của
nhà Trần;Cuộc khởi nghĩa chống xâm lược Minh của nghĩa quân Lam Sơn; Cuộc
khởi nghĩa của nghĩa quân Tây Sơn đánh tan quân Xiêm, Thanh bảo vệ nền độc
lập của dân tộc.
Nếu như chỉ với phương pháp thầy đọc, trò ghi, trình bày các cuộc chiến
sơ sài, dựa vào nội dung SGK, không khắc họa, nhấn mạnh được chủ trương
đánh giặc độc đáo của quân và dân ts, sức mạnh đoàn kết dân tộc, ý nghĩa lich sử
của các trận đánh cũng như vai trò to lớn của các anh hùng dân tộc thì học sinh
không thể cảm nhận hết được những trang sử hào hùng của cha ông ta.
Khi học về trận đánh chống quân Mông Nguyên ở thế kỉ XIII, giáo viên
phải phân tích rõ ràng tội ác của quân Mông Nguyên, gây bao đau thương, tang
tóc cho cho nhiều dân tộc, quân Mông Nguyên có một sức mạnh ‘‘ Vó ngựa của
quân Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó hay không còn một dòng
sông, dòng suối nào không tràn đầy nước mắt của chúng ta. Không còn một ngọn

núi, một cánh đồng nào không bị quân giặc dày xéo’’
Từ đó học sinh hiểu được rằng đây là kẻ xâm lược hùng mạnh nhất thế
4


giới, khi chúng kéo sang nước Đại Việt thì tình hình nước ta như ‘‘ Ngàn cân
treo sợi tóc” và giáo viên có thể đưa ra câu hỏi: Liệu quân dân nhà Trần có đủ
sức đánh bại được quân Mông Cổ hay chấp nhận số phận bị thôn tính như các
quốc gia khác?
Cách nêu vấn đề như vậy gây sự hứng thú, háo hức cho học sinh, khơi gợi
và đánh thức tính tự hào tự cường dân tộc trong các em. Bởi đế quốc Mông Cổ
ba lần ( 1258,1285,1287-1288) cất quân xâm lược Đại Việt. Chúng đã gặp phải
dân tộc bất khuất, cả ba lần quân Đại Việt đánh cho quân giặc tan tác.
Khi phân tích nguyên nhân thắng lợi của quân và dân Đại Việt đối với giặc
Mông Nguyên , giáo viên phân tích một cách sâu sắc về tinh thần đoàn kết toàn
dân, trên dưới một lòng. Ở đây quân Nguyên không chỉ đọ sức với quân đội nhà
trần mà là đương đầu với toàn thể nhân dân Đại Việt. Khi kéo vào nước ta, quân
địch đã thấy treo ở khắp nơi những tấm biển với dòng chữ ‘ ‘ Tất cả các quận ,
huyện , làng mạc nếu có giặc ngoài đều phải liều chết mà đánh, nếu sức không
địch nổi thì cho phép tránh vào rừng núi, không được đầu hàng’’. Với lòng yêu
nước nồng nàn, nhân dân cả nước đã thực hiện mệnh lệnh của triều đình trong
cuộc kháng chiến vĩ đại này, chính sức mạnh đoàn kết và tinh thần quyết chiến
quyết thắng của toàn dân là yếu tố quyết định chiến thắng đó.
Sức mạnh đoàn kết, lòng yêu nước thể hiện trong sự tham gia của các tầng
lớp nhân dân vào cuộc chiến đấu sống còn này. Sức mạnh ấy đã được phản ánh
qua tinh thần đoàn kết, chiến đấu của quân đội. Quốc Tuấn nói với tướng sĩ: ‘ ‘
Lúc lâm trận cùng nhau sống chết, lúc ở nhà cùng nhau vui cười’’.
Tinh thần yêu nước, đoàn kết là cơ sở cho thái sư Trần Thủ Độ tin tưởng
nói rằng: ‘‘ Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo’’. Tiết chế Trần Hưng
Đạo cũng trả lời vua Trần Thánh Tông rằng: ‘‘ Xin bệ hạ chém đầu thần trước

rồi hãy hàng’’.
Để khắc sâu và giáo dục sâu sắc lòng yêu nước cho học sinh qua bài học ,
giáo viên phải phân tích được những biểu hiện chứng minh được truyền thống
giữ nước nồng nàn của quân và dân nhà Trần.
Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi như : ‘‘ Tại sao một đế quốc lớn
mạnh như Mông- Nguyên trong ba lần xâm lược Đại Việt lại thất bại thảm hại
cả ba?’’ hoặc ‘‘ Nguyên nhân và ý nghĩa thắng lợi của ba cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược Mông – Nguyên?”
Khi dạy bài 19 với 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông –
Nguyên, giáo viên chú ý xâu chuỗi sự kiện lịch sử để cho học sinh thấy rằng
truyền thống yêu nước luôn cháy bỏng trong trái tim mọi người Đại Việt, họ sẵn
sàng đứng lên trong mọi hoàn cảnh để bảo vệ tổ quốc.
Hoặc khi trận Chi Lăng- Xương Giang trong cuộc đấu tranh chống xâm
lược Minh, giáo viên phải nhấn mạnh được ý cơ bản: Chiến thắng Chi LăngXương Giang là chiến thắng oanh liệt nhất và là chiến thắng có ý nghĩa quyết
định toàn bộ quá trình phát triển của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của
nghĩa quân Lam Sơn.
Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang là một điển hình của nghệ thuật
5


quân sự lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh của nghĩa quân, với một lực lượng
không quá 4 vạn, nghĩa quân ta đã tiêu diệt và đánh tan trên 10 vạn quân địch
trong thời gian không đầy một tháng. Nghĩa quân đã lợi dụng địa thế hiểm trở và
chọn trận địa quyết chiến chính xác. Nghĩa quân ta đã khôn khéo nhử chúng vào
trận địa mai phục, biến rừng núi thành vòng vây để tiêu diệt chúng, khiến chúng
tư thế hăng, lực lượng đang mạnh chuyển thành thế suy, lực yếu, chống đỡ
không nổi bị động từ đầu đến cuối.
Việc nhấn mạnh, phân tích sâu sắc ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi của
Chi Lăng- Xương Giang đã nâng cao cho học sinh lòng căm thù quân xâm lược
bạo ngược, tự hào về truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của dân tộc .

Từ đó định hướng cho các em có được những suy nghĩ về trách nhiệm của mình
đối với đất nước ngày nay.
3.2. Tìm hiểu về các anh hùng dân tộc và các nhân vật lịch sử.
Trong SGK Lịch sử 10 hầu như không có bài học riêng về anh hùng dân
tộc hay các nhân vật lịch sử mà chủ yếu tìm hiểu qua những sự kiện lớn của dân
tộc.
Ví dụ 1:
- Những người lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa lớn chống giặc ngoại xâm
như: Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung.
- Những nhân vật nổi tiếng trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn học,
nghệ thuật như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh, Lê Văn Hưu,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ.Những con người ấy đã có đóng góp to lớn
cho lịch sử dân tộc. Qua đó bồi dưỡng lòng biết ơn, giáo dục lòng kính yêu cá vị
anh hùng đã hi sinh thân mình cho lợi ích dân tộc cho học sinh hiểu được.
Khi trình bày, đánh giá về một nhân vật lịch sử, phải dựa trên cơ sở tài
liệu-sự kiện. Để có bức tranh quá khứ chính xác, có hình ảnh, ngoài việc sử dụng
SGK còn phải sử dụng nhiều tài liệu khác nữa, phải sử dụng những phương tiện
dạy học và có những biện pháp sư phạm để cụ thể hóa sự kiện lịch sử.
Ví dụ 2: Khi chúng ta nói về cuộc kháng chiến chống giặc Minh, giáo viên có
thể cho học sinh tìm hiểu vài nét về Nguyễn Trãi, Lê lợi. Đặc biệt là khi chúng ta
tìm hiểu về Nguyễn Trãi, ông là một người có nghĩa khí, có lòng yêu nước nồng
nàn và ý chí bất khuất. Nguyễn Trãi có nhiều cống hiến to lớn trong công việc tổ
chức và lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn.
Nguyễn Trãi còn là nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam: ‘‘ Con người
suốt đời đấu tranh cho lí tưởng của nhân nghĩa’’, ông được UNESCO công nhận
là danh nhân văn hóa thế giới.
Hoặc khi học:Bài 23: Phòng trào Tây Sơn và Sự nghiệp thống nhất đất
nước, Bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII, giáo viên lại chú ý đến hình tượng anh
hùng dân tộc Nguyễn Huệ thông qua từng giai đoạn của cuộc khởi nghĩa để cho
học sinh thấy được vai trò to lớn, những cống hiến của ông đối với lịch sử dân

tộc.
Đất nước bị chia cắt thành hai đàng : Đàng trong và Đàng ngoài trong suốt
gần hai trăm năm, Nguyên Huệ đã lãnh đạo quân Tây Sơn lần lượt đánh đổ các
6


tập đoàn phong kiến thống nhất đất nước Đánh tan 5 vạn quân Xiêm bằng trận
thủy chiến lớn trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta; Đại phá 29
vạn quân Thanh bảo vệ nền độc lập cho dân tộc. Sau khi đất nước thái bình ông
đã thi hành những chính sách nhằm củng cố, ổn định kinh tế, chính trị, văn hóa.
Quang Trung là vị anh hùng lớn của dân tộc, ông được UNESCO công
nhận là một trong những vị tướng tài của thế giới.
Việc khắc họa những nhân vật lịch sử có tác dụng đem lại sự hứng thú
cho học sinh, giáo dục sâu sắc, buộc các em phải suy nghĩ và đưa ra nhận xét,
đánh giá nhân vật lịch sử . Qua đó các em bộc lộ được những tình cảm, lòng biết
ơn, kính trọng, sự ngưỡng mộ đối với những con người đã có những cống hiến to
lớn cho lịch sử dân tộc.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi để khắc sâu hơn cho học sinh về công lao to
lớn của các vị anh hùng dân tộc, thể hiện sự ghi nhớ công ơn của các vị anh hùng
mà các em luôn ghi nhớ, găn liền với những chiến công hiển hách thông qua bài
tập yêu cầu các em lập bảng thống kê theo chủ đề sau:
T
T
1

Thời gian

Họ tên vị anh hùng

938


Ngô Quyền

2

1075-1077

Lý Thường Kiệt

3

1258,1285,
1287-1288
1418-1427

Trần Hưng Đạo

30-1-1789
(5-1) Kỷ Mão

Quang Trung

4
5

Lê Lợi

Chiến công nổi bật
Chiến thắng Bạch Đằng đánh tan
quân âm xâm lược Nam Hán

Chiến thắng Sông Như Nguyệt đánh
tan 30 vạn quân xâm lược Tống.
Chiến thắng Đạch Đằng, Vạn Kiếp
đánh tan xâm lược Mông- Nguyên.
Chiến thắng Ngọc Hồi- Đống Đa,
đánh tan 15 vạn quân Minh
Chiến thắng Ngọc Hồi- Đống Đa
đánh Tan 29 vạn quân Thanh.

Với câu hỏi hệ thống trên giúp các em khắc ghi sâu hơn về những đóng
góp của các vị anh hùng dân tộc.
Bên cạnh những nhân vật tài trí, đức độ, là những nhân vật phản diện ,
những ông vua chỉ biết ăn chơi sa đọa không quan tâm đến việc triều chính, năng
lực kém, tư cách đạo đức suy đồi như vua: Trần Dụ Tông, Lê Tương Dực, Lê Uy
Mục... đem đến cho đất nước sự suy yếu, khủng hoảng và cuối cùng là sự sụp đổ
của vương triều mình đang thống trị.
Giáo viên cũng nêu qua để chúng ta tạo biểu tượng về nhiều loại nhân vật
cho học sinh tình cảm yêu, ghét rõ ràng, biết ơn, kính trọng, yêu mến những
nhân vật có công trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc và không tán thành, phê
phán những người không có tinh thần yêu nước tích cực.
Truyền thống yêu nước còn được nói rõ hơn trong bài 28: ‘ ‘ Truyền
thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến’’. Giáo viên sẽ cho học
sinh hiểu rõ thêm về truyền thống yêu nước của dân tộc Việt từ khi dân tộc ta
7


dựng nước và giữ nước. Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt mà trong đó
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập là nét đặc trưng cơ bản nổi bật nhất, giữa
những năm kháng chiến chống giặc pháp xâm lược , Chủ tich Hồ Chí Minh đã
khẳng định:

‘‘ Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta . Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lơn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước’’.
3.3. Giáo dục lòng yêu nước qua dạy học lịch sử địa phương.
Trong chương trình lịch sử 10, về phần lịch sử địa phương giáo viên có thể
cho học sinh tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu hoặc cuộc cải cách của
Hồ Quý Ly. Đây là phần kiến thức học sinh có thể đã học vì vậy giáo viên sẽ
hướng dẫn ch các em học sinh tự sưu tầm, tìm hiểu được mối quan hệ biện
chứng giữa lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương . Lịch sử địa phương là hình
ảnh thu gọn của lịch sử dân tộc, nên việc tìm hiểu lịch sử địa phương góp phần
tìm hiểu sâu sắc hơn lịch sử dân tộc . Dạy lịch sử địa phương để giáo dục học
sinh lòng tự hào quê hương, về địa phương mình, trân trọng và có ý thức trách
nhiệm trong việc phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất
nước trải qua bao thế hệ tiếp nối mới có được.
Chiến tranh có dai dẳng đến đâu cũng chỉ là nhất thời, kháng chiến thắng
lợi, đất nước trở lại bình yên. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, truyền thống
yêu nước tiếp tục được giữ gìn, phát huy làm cho đất nước ngày càng phát triển
tiên tiến hơn, làm cho cuộc sống của mọi người dân ngày càng tươi đạp hơn.
Để những hoạt động đó có tác dụng lớn trong việc giáo dục lòng yêu
nước, yêu quê hương, đất nước, biết ơn các bậc tiền bối, giáo dục về ý chí kiên
cường, đạo lí sống nhân nghĩa của con người Việt , thay vì một tiết học lí thuyết
trên lớp bằng việc tổ chức cho học đi tham quan di tích lịch sử như đền bà Triệu,
thành nhà Hồ, lễ hội Lam Kinh thì hiệu quả hơn,học sinh sẽ hứng thú hơn.

8


Đền thờ Bà Triệu


Thành nhà Hồ

Lễ hội Lam Kinh
4.Hiệu quả của sánh kiến.
4.1.Kết quả chung.
Giáo dục lòng yêu nước là bộ phận quan trọng của giáo dục truyền thống
dân tộc. Bản thân môn Lịch sử có sở trường và khả năng giáo dục lòng yêu nước
cho học sinh. Tuy nhiên kết quả giáo dục lại tùy thuộc vào các phương tiện,
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tích cực, sáng tạo của học sinh để đạt

9


hiệu quả cao về nhận thức và hành động thực tiễn.
Trong Năm học 2015-2016 , qua việc không ngừng đổi mới phương pháp
dạy học, giúp cho kết quả học tập của các em học sinh ở các lớp trực tiếp giảng
dạy không ngừng nâng cao chất lượng, nhiều em yêu thích hơn và cố gắng học
tốt môn Lịch sử. Ngoài việc học thuộc bài ngay trên lớp các em còn tìm tòi
những tài liệu kiến thức phục vụ cho bài học. Các em ý thúc hơn về môn học
này, chuẩn bị bài ở nhà chu đáo hơn, trong giờ học không khí lớp học sôi nổi
hơn, đã phát huy được tính tích cực , chủ động của học sinh, đa phần các em làm
bài kiểm tra chất lượng tốt, số lượng học sinh yếu kém không nhiều.
Kiến thức của học sinh trở nên sâu sắc hơn, bền vững hơn, không khí học
tập của các em vui hơn, tự tin hơn khi bày tỏ thái độ, tình cảm của mình.
Mục đích của đề tài này là giúp các em có thể liên kết các bài học có kiến
thức liên quan được hệ thống bằng sự kiến, kiến thức liên kết để từ đó các em
không ngại bài học có nhiếu kiến thức nữa, mà các em đã biết sâu chuỗi thành
bài học có hệ thống.
4.2.Kết quả cụ thể.
Dưới đây là kết quả chất lượng của học sinh qua bài kiểm tra 1 tiết.

Giỏi
Lớp

Sĩ Số Số
lượng %

10A2
10A3
10A4
10A7

45
48
45
40

10
7
8
7

22%
15%
18%
18%

Khá
Số
lượng %
22

30
23
24

49%
63%
51%
60%

Trung Bình
Yếu
Số
Số
lượng %
lượng %
11
11
14
9

25%
22%
31%
22%

2
0
0
0


0,4%

Như vậy, nhờ áp dụng sáng kiến này vào bài giảng, chất lượng học tập và
thái độ của học sinh trong bộ môn Lịch sử tăng rõ rệt, các em đã chịu khó làm
bài kiểm tra đạt điểm cao hơn
Môn lịch sử cũng như nhiều môn học khác đòi hỏi sự chăm chỉ trong quá
trình dạy - học. Đầu tư thời gian và công sức để học là một trong những nhân tố
quan trọng làm nên thành công không chỉ đối với trò mà cả với thầy. Người thầy
phải chịu khó tự học, tự nghiên cứu để có thể áp dụng được những phương pháp
mới, qua đó tìm ra những phương pháp, những kĩ thuật dạy học có tính ưu việt
và phù hợp với học sinh của trường.
Giáo viên phải nghiên cứu và chuẩn bị được câu hỏi hợp lí tương ứng với
mỗi dạng nội dung kiến thức để sau này khi nhắc đến dạng nôi dung kiến thức đó
là trong đầu học sinh sẽ nghĩ ngay đến câu hỏi thường học. Bên cạnh đó, để học
sinh học tốt, giáo viên phải có các câu hỏi gợi ý, gợi mở giúp cho học sinh suy
nghĩ, nghiên cứu, tự tìm tòi.
5. Kết luận, kiến nghị.
5.1.Kết luận.
10


Là giáo viên dạy môn Lịch sử, là môn học trên thực tế không có nhiều sự
yêu thích, say mê của học sinh với môn học này nên bản thân Tôi phải tự bồi
dưỡng chuyên môn, ham học hỏi nghiên cứu các tài liệu, tham khảo các giờ dạy
giỏi, các giờ mẫu trên băng hình để rút kinh nghiệm cho bài giảng của mình tốt
hơn. Để có giờ học tốt, tạo cảm hứng cho học sinh, bản thân giáo viên phải nắm
vững kiến thức cơ bản cần truyền đạt của khóa trình lịch sử, xác định được
những loại bài, loại kiến thức khác nhau để từ đó tìm ra những phương pháp dạy
học phù hợp đem lại hiệu quả giáo dục.
Bản thân là giáo viên, tôi cũng có tâm huyết với nghề, tôi luôn nhắc nhở

bản thân, phải làm sao thực hiện cho tốt những nhiệm vụ của giáo dục, truyền
đạt kiến thức lịch sử cho các em vừa giúp các em có những nhận thức đúng đắn
về truyền thống dân tộc, góp phần vào việc hình thành phẩm chất, đạo đức cho
các em giúp các em đi đúng hướng trong công cuộc học tập, xây dựng đất nước,
là công dân tốt, gương mẫu.
Trong quá trình viết đề tài này không tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi
rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp, góp ý của đồng nghiệp. Tôi xin chân
thành cảm ơn.
5.2. Kiến nghị.
- Đối với GVBM, cần mạnh dạn đổi mới phương pháp, không ngừng
nghiên cứu và tự học những phương pháp, kĩ thuật dạy học mới.
- Các tổ chuyên môn đẩy mạnh triển khai sinh hoạt chuyên đề về đổi mới
phương pháp và sử dụng.
- Nhà trường tạo điều kiện hết sức và khuyến khích giáo viên đổi mới
phương và chú trọng vào việc nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới.
- Sở GD-ĐT tăng cường triển khai chủ trương đổi mới dạy học và phổ
biến những gương tốt về đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường, trong
từng giáo viên.
XÁC NHẬN CỦA

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2016

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Oanh


11



×