Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một vài biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT lam kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.6 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1. 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Hơn 2000 năm trước, Khổng Tử (551 – 479 TCN) đã nói “Những gì tôi
nghe, tôi sẽ quên. Những gì tôi thấy, tôi sẽ nhớ. Những gì tôi làm, tôi sẽ hiểu”.
Còn nhà triết học Hy Lạp, Xôcrat (470 – 399 TCN) cũng nêu quan điểm “Người
ta phải học bằng cách làm một việc gì đó; với những điều bạn nghĩ là mình biết,
bạn sẽ thấy không chắc chắn cho đến khi làm nó”. Những tư tưởng của các nhà
giáo dục, các nhà triết học thời cổ đại có thể được coi là nguồn gốc tư tưởng đầu
tiên của học qua trải nghiệm. Tư tưởng này thực sự được đưa vào giáo dục hiện
đại từ những năm đầu của thế kỉ XX. Đến năm 1977, học qua trải nghiệm đã
chính thức được thừa nhận bằng văn bản và được tuyên bố rộng rãi khi Hiệp hội
giáo dục trải nghiệm được thành lập. Ngày nay, học qua trải nghiệm đang được
tiếp tục triển khai trên phạm vi toàn thế giới và được nhìn nhận như là một triển
vọng tương lai tươi sáng cho giáo dục.
Ở nước ta, trong giáo dục luôn có hai hoạt động cơ bản là hoạt động dạy
học (thường thực hiện ở các giờ trên lớp) và một hoạt động khác gọi là hoạt
động giáo dục (thường thực hiện song song bên cạnh các hoạt động dạy học). Cụ
thể, hoạt động giáo dục thường thể hiện trong chương trình hiện hành chính là
hoạt động tập thể ngoài giờ lên lớp như tham quan dã ngoại. Tuy nhiên ở các
nhà trường của chúng ta hầu như rất ít tổ chức các hoạt động này. Có thể nói là
đa số các trường không chú ý lắm, thường làm theo kiểu có cũng được, không
có cũng được.Vì vậy, mặc dù chương trình hiện hành của chúng ta vẫn có hoạt
động trải nghiệm nhưng không yêu cầu một cách chính thống nên trường thực
hiện cũng tốt mà không thực hiện cũng chẳng sao.Vì nó không được đánh giá,
không có điểm nên ít người quan tâm. Ngay chuyện giám sát và quản lý các
trường có thực hiện hay không cũng không quá chặt chẽ nên các trường coi đó
như một giá trị gia tăng, trường nào làm tốt thì có thêm giá trị gia tăng cho học
sinh, không làm cũng chẳng sao, không hề bị đánh giá. [6]
Ngày nay, một trong những quan điểm đổi mới giáo dục và đào tạo được
nêu trong Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI của BCHTW là: “Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính


tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học;…..
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học
tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ
yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã
hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học…” [1]. Điều đó cho thấy, việc đổi mới
hình thức, phương pháp dạy học theo Chương trình mới sau năm 2015 đặc biệt
nhấn mạnh hình thức học tập trải nghiệm.
Đối với bộ môn Lịch sử trong những năm qua là một trong những môn
học bị cho là môn “phụ”, nặng nề, nhàm chán, khô khan thậm chí là môn học mà
học sinh “sợ nhất”. Tâm lý sợ dẫn đến chán ghét môn học đã làm chất lượng dạy
và học thấp, làm cho xã hội không khỏi lo lắng. Đối với giảng dạy lịch sử địa
1


phương Thanh Hóa nói chung, ở Thọ Xuân nói riêng hiện nay còn nhiều khó
khăn như: thời gian giành cho các tiết học lịch sử địa phương ở cả ba khối lớp
chỉ có 4 tiết trong một năm; sách, tài liệu đã biên soạn cho phần lịch sử địa
phương không nhiều. Khi giảng dạy giáo viên và học sinh phải tự tìm hiểu, thu
thập tài liệu. Cũng chính vì vậy dẫn đến trong quan niệm của một số giáo viên
và học sinh coi việc dạy và học lịch sử địa phương là một nhiệm vụ thứ yếu.
Phần lớn, giáo viên chưa thực sự chú trọng đầu tư vào tiết dạy này, còn học sinh
thì chỉ học cho qua loa. Học sinh không hiểu biết nhiều về lịch sử quê hương nơi
mình sinh ra và lớn lên, thậm chí là thờ ơ, không thấy được mối liên hệ giữa lịch
sử địa phương với lịch sử dân tộc. Không biết được sự phát triển của quê hương
từ đó không có sự gắn bó và tình yêu quê hương mình. Chính vì vậy, việc tăng
cường học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học lịch sử địa
phương sẽ giúp cho bài học trở nên sinh động, dễ hiểu, gần gũi với các em bởi
các em chính là người tự khám phá.
Hiện tại, vấn đề hoạt động học tập qua trải nghiệm sáng tạo không phải là
vấn đề mới với nhiều nước trên thế giới, nhưng với Việt Nam vấn đề này còn

khá mới mẻ. Các tài liệu nghiên cứu, tác phẩm, luận văn…chưa trình bày cụ thể
chi tiết việc tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Lịch
sử, đặc biệt đối với dạy học lịch sử địa phương trên địa bàn Thọ Xuân; trong khi
đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục.
Như vậy, trong bối cảnh nền giáo dục thế giới, từ quan điểm đổi mới dạy
học của Đảng và từ thực tế dạy học Lịch sử địa phương Thọ Xuân; tôi lựa chọn
đề tài “Một vài biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo
cho học sinh trong dạy học Lịch sử địa phương ở trường THPT Lam Kinh Thọ Xuân” là cấp thiết.
1. 2. Mục đích nghiên cứu.
Khẳng định vai trò và ý nghĩa của hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo,
từ đó đưa ra một vài biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm trong dạy
học Lịch sử địa phương ở trường THPT Lam Kinh, Thọ Xuân, Thanh Hóa.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là một vài cách thức tổ chức hoạt
động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học Lịch sử địa
phương ở trường THPT Lam Kinh, huyện Thọ Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: đọc và phân tích, tổng hợp các tài liệu
chuyên khảo, tài liệu lịch sử, phương pháp dạy học lịch sử, chương trình, sách
giáo khoa lịch sử phổ thông và các tài liệu khác có liên quan.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: tiến hành quan sát, điều tra bằng phiếu đối
với giáo viên và học sinh, trải nghiệm thực tế tại địa bàn, đối chiếu với kết quả
điều tra.

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Khái niệm về học tập trải nghiệm sáng tạo
2



Hiệp hội “Giáo dục trải nghiệm” quốc tế định nghĩa về học qua trải
nghiệm “là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy
khuyến khích người học tham gia các trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng
kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kĩ năng, định hình các giá trị sống và
phát triển các năng lực bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và
xã hội”. [2]
Hoạt động hoc tập trải nghiệm sáng tạo còn được hiểu là “hoạt động giáo
dục, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong
môi trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội dưới sự hướng
dẫn và tổchức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm
chất nhân cách, các năng lực…, từ đó tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng như phát
huy tiềm năng năng sáng tạo của cá nhân mình”. [3]
Các khái niệm này đều khẳng định vai trò định hướng, hướng dẫn của nhà
giáo dục. Nhà giáo dục không tổ chức, phân công học sinh một cách trực tiếp
mà chỉ hỗ trợ, giám sát. Học sinh được trực tiếp, chủ động tham gia các hoạt
động. Từ những kết quả nghiên cứu các lí thuyết trên có thể thấy học tập trải
nghiệm sáng tạo là phương thức hoạt động chỉ sự tương tác, sự tác động của chủ
thể với đối tượng xung quanh và ngược lại.
Vậy khái niệm hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường
phổ thông có thể được hiểu là các hoạt động giáo dục thực tiễn được tiến hành
song song với hoạt động dạy học trong nhà trường. Thông qua các hoạt động
thực hành, những việc làm cụ thể và các hành động của học sinh, hoạt động trải
nghiệm sáng tạo sẽ khai thác kinh nghiệm của mỗi cá nhân, tạo cơ hội cho các
em vận dụng một cách tích cực những kiến thức đã học vào thực tế và đưa ra
được những sáng kiến của mình, từ đó phát huy và nuôi dưỡng tính sáng tạo của
mỗi cá nhân của học sinh. [5] Điều này cho thấy, so với các hoạt động ngoài giờ
lên lớp đang được tiến hành hiện nay trong trường phổ thông thì hoạt động trải
nghiệm sáng tạo sẽ phong phú hơn cả về nội dung, phương pháp và hình thức
hoạt động. Đặc biệt mỗi hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những
phẩm chất, năng lực nhất định của học sinh.

2. 1. 2. Cơ sở xuất phát của vấn đề tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
2.1.2.1. Xuất phát từ mục tiêu, chiến lược đào tạo con người trong bối cảnh mới
Hội nghị lần thứ 8 của BCH TƯ Đảng khóa XI đã xác định mục tiêu
chung là “Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc,
bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam, giữ
vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo định
hướng XHCN”. [1]
Đứng trước xu thế phát triển của đất nước, giáo dục - đào tạo đóng vai
trò quan trọng nhằm phát huy nguồn lực con người, phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Giáo dục trong xã hội mới, thời đại
3


mới phải là “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc
và CNXH, hình thành và bồi dưỡng phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [4]
Như vậy, đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy học
nói riêng trong đó có bộ môn Lịch sử là con đường duy nhất từng bước nâng cao
chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông bởi "giáo dục phổ thông là
nền tảng văn hóa của một nước là sức mạnh tương lại của một dân tộc". Trong
giáo dục, bằng các phương pháp đạo tạo thích hợp, phải khơi dậy được năng lực
tự học, tự tư duy độc lập nhận thức, hình thành và phát triển nhân cách sáng tạo
của học sinh nhằm đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
2.1.2.2. Xuất phát từ đặc trưng của việc nhận thức lịch sử.
Khác với tri thức của nhiều bộ môn khoa học khác, tri thức lịch sử có
những đặc trưng nổi bật như: mang tính quá khứ, tính không lặp lại, tính cụ thể,

tính hệ thống, tính thống nhất giữa sử và luận.
2.1.2.3. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp, chương trình, sách giáo
khoa THPT sau năm 2015.
Nội dung đổi mới chương trình sách giáo khoa sau năm 2015 xác định:
chương trình mới tiếp cận theo hướng hình thành và phát triển năng lực cho
người học; không chạy theo khối lượng tri thức mà chú ý khả năng vận dụng
tổng hợp các kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, động cơ… vào giải quyết các
tình huống trong cuộc sống hàng ngày. Tiếp cận theo hướng năng lực đòi hỏi
hoc sinh làm, vận dụng được gì hơn là học sinh biết những gì. Tránh tình trạng
biết rất nhiều nhưng làm, vận dụng không được bao nhiêu, biết những điều rất
cao siêu, nhưng không làm được những việc rất thiết thực đơn giản trong cuộc
sống thường nhật. [6]
2.1.2.4. Các hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
trong nhà trường phổ thông:
Có nhiều hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà
trường phổ thông như: tham quan học tập; điều tra khảo sát địa phương; dự án;
đóng vai; các câu lạc bộ; các hoạt động xã hội - tình nguyện; diễn đàn; giao lưu;
hội thảo - sự kiện, việc công ích; trò chơi…..
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
SÁNG TẠO TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT LAM
KINH.
Để có thể hiểu được thực trạng của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm
sáng tạo cho học sinh ở trường THPT Lam Kinh hiện nay, tôi đã tiến hành trao
đổi và phiếu khảo sát cho giáo viên và học sinh ở trường THPT Lam Kinh với
tồng là 03 giáo viên dạy Lịch sử và 92 học sinh. (Xem phần phụ lục 1)
2.2.1. Mục đích khảo sát:
Để thấy rõ việc cần thiết tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
trong quá trình dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông. Đồng thời tìm hiểu
những thuận lợi và khó khăn của giáo viên và học sinh trong quá trình tổ chức
4



các hoạt động trải nghiệm sáng tạo và từ đó đề xuất ý kiến nhằm nâng cao hiệu
quả của việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình Lịch
sử THPT.
2.2.2. Phương pháp khảo sát.
Trao đổi trực tiếp với giáo viên và học sinh; phát phiếu khảo sát cho giáo viên và
học sinh.
2.2.3. Kết quả khảo sát
- Quan niệm của GV về tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong
dạy học Lịch sử
+ Kết quả điều tra khảo sát cho thấy tất cả các giáo viên (100%) được chọn khảo
sát thống nhất cho rằng cần thiết phải tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm
sáng tạo trong dạy học Lịch sử. Điều này chứng tỏ các giáo viên đã ý thức được
tầm quan trọng của việc tổ chức các hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo
trong dạy học Lịch sử.
+ Mặc dù ý thức được vai trò của hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo nhưng
các GV lại có quan niệm, nhận thức khác nhau về hoạt động trải nghiệm sáng
tạo: Có 1/3 thầy cô (chiếm khoảng 33,3%) cho rằng là hình thức tổ chức cho học
sinh tham gia các hoạt động tham quan dã ngoại hoặc là hình thức hoạt động
ngoài giờ lên lớp, nhằm bổ sung hỗ trợ các hoạt động học tập trên lớp. Trong khi
đó 2/3 thầy cô (chiếm khoảng 66,7%) cho rằng đó là hình thức học tập học sinh
được trực tiếp trải nghiệm, tham gia vào các hoạt động. Không có giáo viên nào
quan niệm khái niệm hoạt động trải nghiệm sáng tạo trùng với khái niệm hoạt
động ngoại khóa.
- Quan niệm của học sinh với môn học:
+ Kết quả cho thấy nhiều học sinh không yêu thích môn Lịch sử. Chỉ có 36/92
học sinh tỏ ra yêu thích (chiếm khoảng 40%). Trong khi đó số học sinh tỏ ra thờ
ơ và không yêu thích môn học này là 56/92 học sinh (chiếm khoảng 60%).
+ Tuy nhiên, đa số học sinh đều đánh giá được tầm quan trọng của môn học. Có

tới 76% số học sinh được khảo sát cho rằng Lịch sử là môn học quan trọng,
trong khi đó không có ý kiến nào cho rằng đây là môn học không quan trọng.
Việc học sinh ý thức được tầm quan trọng của môn học là một trong những tín
hiệu tích cực trong việc dạy và học môn Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
+ Về mức độ cần thiết khi tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong
học tập lịch sử thì kết quả thu được là 68,5% học sinh đồng ý cần thiết và chỉ có
31,5% học sinh cho rằng không cần thiết. Như vậy, học sinh có nhận thức đúng
về tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong
dạy học lịch sử.
Điều tra, khảo sát ý kiến của giáo viên và học sinh không chỉ giúp cho
việc đưa ra những nhận xét, đánh giá về thực trạng dạy học nói chung, vấn đề tổ
chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo nói riêng mà còn là cơ sở nêu ra
những đề xuất nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn học.
2.3. MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
5


ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG THPT LAM KINH.
2. 3. 1. Xác định nội dung kiến thức lịch sử địa phương Thọ Xuân cần tổ
chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trường THPT
Lam Kinh.
+ Đối với học sinh lớp 10: Tổ chức cho các em học tập trải nghiệm sáng tạo tại
di tích lịch sử - văn hóa đền thờ Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm tại xã Thọ
Diên huyện Thọ Xuân.
+ Đối với học sinh lớp 12: Tổ chức cho các em hoạt động học tập trải nghiệm
sáng tạo về làng nghề ở địa phương: làng bánh gai truyền thống Tứ Trụ, xã Thọ
Diên, huyện Thọ Xuân.
2. 3. 2. Qui trình thực hiện hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học
sinh trong dạy học Lịch sử địa phương.

Bước 1. Chọn đề tài (đặt tên) và xác định mục tiêu của bài trải nghiệm sáng tạo.
Công việc của giáo viên: Giáo viên phân chia lớp thành các nhóm, hướng
dẫn người học đề xuất, xác định chủ đề, định hướng cho học sinh về mục đích
bài học.
Công việc của học sinh: Học sinh lắng nghe và tiếp thu những gợi ý, định
hướng về đề tài của giáo viên, của nhóm làm việc.
Bước 2. Xây dựng đề cương bài lịch sử.
Công việc của giáo viên: hướng dẫn cho học sinh xác định: nội dung,
phương pháp, phương tiện, hình thức trải nghiệm, thời gian dự kiến, nguồn tài
liệu, kinh phí thực hiện. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xây dựng “bộ câu
hỏi khung” liên quan đến những vấn đề của bài trải nghiệm.
Công việc của học sinh: Sau khi đã được phân công vào các nhóm, các
nhóm thống nhất kế hoạch cụ thể thực hiện nhiệm vụ. Giáo viên hướng dẫn, gợi
ý học sinh cách thức thu thập thông tin (lấy ở đâu, lấy bằng cách nào, phương
tiện gì), cách xử lý thông tin (lựa chọn thông tin có giá trị phải đảm bảo độ tin
cậy và có ý nghĩa), cách tổng hợp và trình bày kết quả.
Bước 3. Thực hiện hoạt động.
Công việc của giáo viên: Gặp gỡ thường xuyên các nhóm để biết rõ tiến
trình làm việc của từng nhóm, kịp thời giúp đỡ và điều chỉnh những vướng mắc.
Công việc của học sinh: Thực hiện hoạt động theo nội dung
Bước 4. Trình bày sản phẩm.
Kết quả của việc học tập trải nghiệm sáng tạo có thể được viết dưới dạng
ấn phẩm (bản tin, tập san, báo, áp phích, thu hoạch, báo cáo…) và có thể được
trình bày trên power point, được thiết kế thành các đoạn phim, video…
Bước 5. Đánh giá kết quả hoạt động trải nghiệm.
Công việc của học sinh: Các nhóm trình bày kết quả thực hiện của nhóm
mình. Các nhóm khác theo dõi, thảo luận, trao đổi, nhận xét, đóng góp ý kiến về
kết quả làm việc của nhóm bạn. Học sinh các nhóm đánh giá lẫn nhau và tự
đánh giá kết quả của nhóm mình.
Công việc của giáo viên: Giáo viên nhận xét quá trình thực hiện hoạt động

và sản phẩm của mỗi nhóm; rút kinh nghiệm qua việc thực hiện hoạt động của
6


các nhóm. Giáo viên lưu kết quả hoạt động vào hồ sơ của học sinh. [6]
2. 3. 3. Hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo tại di tích lịch sử - văn hóa
đền thờ Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân.
2. 3. 3. 1. Các bước tiến hành.
Bước 1: Chọn đề tài và xác định mục đích của buổi trải nghiệm.
a. Lựa chọn chủ đề của buổi trải nghiệm: “Đền thờ Thứ quốc công Nguyễn Nhữ
Lãm – di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia bên bờ sông Giang”.
b. Xác định mục tiêu chủ đề của buổi trải nghiệm
- Kiến thức:
+ Biết được thời gian, địa điểm xây dựng ngôi đền.
+ Biết được giá trị lịch sử, nghệ thuật của ngôi đền.
- Kĩ năng:
+ Phát triển kĩ năng phân tích, thu thập và xử lý thông tin, trình bày trước lớp.
+ Biết tìm kiếm thông tin qua nhiều phương tiện khác như: sách, báo, mạng.
+ Có khả năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác và tổ chức để thực hiện buổi
trải nghiệm sáng tạo có hiệu quả.
- Thái độ:
+ Hứng thú và say mê học môn Lịch sử.
+ Thêm tự hào về mảnh đất và con người Thọ Xuân, biết gìn giữ và phát huy
những giá trị văn hóa tinh thần của địa phương.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch buổi trải nghiệm sáng tạo tại đền Nguyễn Nhữ
Lãm, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân.
Đối tượng: dành cho lớp 10C9, sĩ số 45 học sinh.
Thành phần tham gia: giáo viên chủ nhiệm + giáo viên bộ môn + học sinh.
Địa điểm : Di tích lịch sử - văn hóa đền thờ Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm.
Quản lý chung: Giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm chia học sinh thành

các nhóm nhỏ và yêu cầu học sinh quản lý và làm việc theo nhóm.
Xây dựng kế hoạch buổi trải nghiệm sáng tạo đền Nguyễn Nhữ Lãm (tại lớp học
trước khi trải nghiệm sáng tạo). (Xem phần phụ lục 2)
Kế hoạch cụ thể.
- Lập chương trình (Xem phần phụ lục 3)
- Xây dựng nội quy buổi trải nghiệm sáng tạo.
+ Lớp chia thành các nhóm nhỏ 6-7 học sinh. Mỗi nhóm cử ra nhóm trưởng
quản lý các thành viên trong nhóm.
+ Các nhóm thành viên phải tuân thủ theo sự quản lý của trưởng nhóm và giáo
viên chủ nhiệm.
+ Phải đi theo đoàn, không tách đoàn đi một mình.
+ Không vứt rác bừa bãi. Thực hiện qui định của khu di tích.
+ Thực hiện theo nhiệm vụ được phân công và tuân thủ thời gian quy định.
- Xác định thời gian: 1 buổi sáng
Xây dựng phiếu học tập dành cho học sinh. (Xem phần phụ lục 4)
Bước 3: Thực hiện buổi trải nghiệm
a. Thu thập thông tin:
7


- Giáo viến hướng dẫn học sinh đi thực địa thu thập thông tin thông qua quan
sát, phỏng vấn trực tiếp Ông Nguyễn Mậu Phú – Trưởng ban trị sự Chi đại tôn
dòng họ Nguyễn Mậu toàn quốc.
- Nhận thông tin về khu di tích đền trên các phương tiện như báo, đài….
- Tìm hiểu vị trí địa lí và lịch sử của đền Nguyễn Nhữ Lãm.
- Phương tiện thực hiện: máy ảnh, máy quay phim, vở ghi chép.
- Sau khi thu thập thông tin xong, các nhóm tập trung lại, ghi vào phiếu học tập
xem mình đã học tập được những gì qua buổi trải nghiệm.
b. Xử lí thông tin.
- Qua việc thu thập những dữ liệu trên, học sinh phân tích, tổng hợp và đưa ra

kết luận vào các nhiệm vụ trong phiếu học tập.
- Các nhóm có khó khăn có thể gặp giáo viên để xin ý kiến giúp đỡ.
Bước 4: Trình bày sản phẩm.
- Học sinh chỉnh sửa ảnh, xây dựng Video clip, tập hợp số liệu đã thu thập về
đền Nguyễn Nhữ Lãm.
- Thiết kế sản phẩm: tập san ảnh, Video về nghệ thuật xây dựng đền Nguyễn
Nhữ Lãm, một tập san ảnh có phụ đề.
- Chuẩn bị không gian cho cả lớp báo cáo, đại diện các nhóm lên trình bày.
- Tập thể lớp và giáo viên đưa ra các câu hỏi trao đổi về nội dung báo cáo.
Bước 5: Đánh giá về hoạt động giáo dục trải nghiệm
Có nhiều cách để đánh giá hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo của
học sinh: có thể cho bản thân học sinh tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau hoặc giáo
viên đánh giá năng lực của học sinh.
2. 3. 3. 2. Kết quả cụ thể của từng nhóm.
Nhóm 1. Giới thiệu về quê hương và Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm
Tứ Trụ là vùng đất thuộc làng Thịnh Mỹ xưa, nay thuộc xã Thọ Diên, tỉnh
Thanh Hoá. Thời hậu Lê, Thịnh Mỹ thuộc huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoa.
Thời Nguyễn, nơi đây thuộc huyện Lôi Dương, tổng Diên Hào. Tứ Trụ (Thịnh
Mỹ) là một vùng quê có bề dày lịch sử và truyền thống văn hoá lâu đời. Đây
chính là đất "địa linh nhân kiệt", là nơi phát tích của hai triều đại phong kiến
trong lịch sử Việt Nam: Tiền Lê và Hậu Lê; đã sinh ra nhiều nhân tài, tướng giỏi
cho đất nước và tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầu TK XV (1418) như:
Nguyễn Nhữ Lãm, Đỗ Đại, Trần Vận, Lê Trinh .... khiến giặc Minh bạt vía kinh
hồn.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế
(1428), lập ra một nhà nước Đại Việt độc lập, tự chủ và ban tước cho các khai
quốc công thần tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thịnh Mỹ (Tứ Trụ ) có bốn
vị khai quốc được ban tước và giữ chức vị cao trong triều đình: Nguyễn Nhữ
Lãm (Lê Nhữ Lãm), Đỗ Đại (Đỗ Khuyển), Trần Vận, Lê Trinh. Đây chính là Tứ
Trụ triều đình (đất Tứ Trụ có bốn vị khai quốc làm quan trong triều đình), họ là

những người có công lao to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, đưa đất
nước Đại Việt phát triển bền vững và hưng thịnh. Không những thế, Thịnh Mỹ
còn là nơi sinh ra Cung từ Quốc Thái mẫu Trần Thị Ngọc Trần (vợ vua Lê Thái
8


Tổ, mẹ vua Lê Thái Tông) và cũng là quê hương của Linh từ Quốc thái mẫu
Trịnh Thị Ngọc Lung (bà là chính phi của Tây vương Trịnh Tạc). Một vùng đất
văn hoá lâu đời, nhiều nơi không thể có được:
" Cảnh quan di tích một làng quê
Thịnh Mỹ hậu Lê sự tích đề
Bia đá lịch sử vang vọng mãi
Lịch truyền văn hoá nét son phê".
Nguyễn Nhữ Lãm sinh năm 1378 chính quán xã Văn Xá, huyện Thanh
Liêm, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam. Theo gia phả họ Nguyễn thì thân sinh của
Nguyễn Nhữ Lãm tên là Công Thân làm quan cuối thời Trần, vì cảnh đời nhiễu
nhương nên ông đã từ quan về quê, mẹ là Lê Thị Lịch một người phụ nữ hiền
thục được nhiều người quý mến. Khi Lãm lớn lên dáng người cao đen, học giỏi,
có tài biện luận, gặp lúc vận suy, quân Minh xâm lược đất nước, muốn tìm nơi
ẩn thân dấu tiếng, Nhữ Lãm bí mật đem cả gia quyến đến dựng nhà, mở trại tại
Thịnh Mỹ, huyện Cổ Lôi. Ông xin nhập tịch làm dân địa phương và bỏ tiền giúp
đỡ dân nghèo, những người gặp cảnh khó khăn, cơ nhỡ vùng Lương Giang
không kể dân cày hay chài lưới đều được nương nhờ họ Nguyễn Nhữ. Được ít
lâu, Nhữ Lãm mới tìm đến Lam Sơn cầu thân Lê Lợi, ông gia nhập lực lượng
nghĩa quân và dự hội thề Lũng Nhai. Năm 1418, ông trong số những người tham
gia khởi nghĩa Lam Sơn cùng Lê Lợi từ những ngày đầu, phụ trách việc rèn vũ
khí và quân lương cho nghĩa quân.
Ngày mùng 2 tháng giêng năm Mậu Tuất (1428) Lê Lợi dựng cờ khởi
nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm là một trong những người được phong
chức thừa tướng chia nhau đốc xuất quân ra đối địch với quân Minh. Trong

cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm từng làm sứ giả tới các nước Ai
Lao, Chiêm Thành vận động vua nước làng giềng giúp voi, ngựa và lương thực.
Nhờ tài ngoại giao của ông, các nước đã đồng tình giúp đỡ.
Lê Thái Tổ lên ngôi lấy niên hiệu là Thuận Thiên năm thứ nhất (1428).
Ngày mùng 3 tháng 5 năm 1429 Lê Lợi xét công, ban thưởng cho các tướng
lĩnh. Nguyễn Nhữ Lãm, được ban quốc tính lấy họ vua (Lê Nhữ Lãm) Vinh
thăng Suy trung phụ quốc công thần nhập nội thượng thư lệnh, Kiểm giáo Thái
bảo Đình thượng hầu. Ngày 25 tháng 5 năm 1437 Nguyễn Nhữ Lãm mất và
được truy tặng: Nhập nội Thái bảo, thuỵ Trung Tĩnh.
Quê hương, con người Tứ Trụ - Thọ Xuân thật đáng tự hào, chúng ta là
thế hệ con cháu, phải sống sao cho xứng đáng với công lao cha ông đã vun đắp.
Nhóm 2: Trình bày đặc điểm của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của
ngôi đền.
Đền thờ Nguyễn Nhữ Lãm nằm trên địa bàn làng Thịnh Mỹ, xã Thọ Diên,
huyện Thọ Xuân, cách khu di tích lịch sử Lam Kinh khoảng 6 km về phía Đông
Nam, theo quốc lộ 47 cũ (nay là quốc lộ 506). Từ huyện lị Thọ Xuân theo hướng
Tây đi gần đến km 9 rẽ phải khoảng 500m là đền thờ Nguyễn Nhữ Lãm.
Là kiến trúc thời Nguyễn, Tự Đức năm thứ 3 (1851), được di chuyển từ bờ
sông Chu vào địa điểm hiện nay. Đền thờ Nguyễn Nhữ Lãm có diện tích 62,4m
9


vuông gồm tiền đường và hậu cung. Kiến trúc vì kèo ở tiền đường được tạo bởi
4 hàng chân cột, với “vì kèo suốt”. Ngăn cách giữa nhà từ đường và hậu cung là
sân “thiên tỉnh”. Nhà chính tẩm được chia làm hai cung, cung trong cùng là
cung cấm – nơi đặt bàn thờ, long ngai và bài vị của Nguyễn Nhữ Lãm. Cung
ngoài là nơi thờ hội đồng gia tộc. Sự phân chia các cung được tạo bởi một bức
tường với ba cửa ra vào được dựng khá chắc chắn. Mặt trước của chính tẩm
cũng được trổ ba cửa vào. Phía trên ở ngoài được đắp nổi hình hổ phù và long
hóa đăng đối. Cũng như nhà tiền đường, vì kèo gỗ được cấu trúc thông thường

theo lối nhà dân gian truyền thống.
Trước cổng có hai trụ đá gần vuông, bốn chiều tương đối bằng nhau, được
khắc chữ Hán hai mặt. Hai pho tượng võ sỹ được tạo tác trang phục võ quan, mũ
giáp trụ. Mỗi pho tượng có chiều cao 1,03m, rộng 0,85m được tạo tác bằng một
khối đá nguyên, đứng trên một đế cao 30cm, rộng 60cm; cùng với sập đá, chó
đá, voi đá, long ngai, bài vị bằng đá xanh.... được chạm khắc tunh xảo, là những
tác phẩm nghệ thuật đặc biệt có giá trị, giúp các nhà nghiên cứu mĩ thuật tìm
hiểu một giai đoạn phát triển của nền mĩ thuật Việt Nam thời Lê sơ.
Với những giá trị to lớn về lịch sử và nghệ thuật, khu di tích đền thờ và
lăng mộ Nguyễn Nhữ Lãm đã được Nhà nước xếp hạng là di tích quốc gia.
Nhóm 3: Trực tiếp quay một đoạn video, nhóm trưởng Lê Thị Ngọc Anh
đóng vai là một hướng dẫn viên du lịch giới thiệu về di tích đền Nguyễn
Nhữ Lãm
Kính thưa quí khách!
Đến với vùng đất Thọ Xuân – Thanh Hóa, tìm về cội nguồn lịch sử không
thể không nhắc đến khu di tích Lam Kinh, gắn liền với chiến công chống giặc
Minh oanh liệt một thời của vị anh hùng Lê Lợi. Nhưng cũng là thiếu sót nếu
như chúng ta không nhắc đến các vị khai quốc công thần, góp sức không nhỏ
vào trang sử vẻ vang đó. Hôm nay quí khách sẽ được tới thăm một ngôi đền nằm
bên bờ sông Lương Giang thờ một trong số các vị khai quốc công thần, đó là
Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm.
Đền thờ Nguyễn Nhữ Lãm nằm trên địa bàn làng Thịnh Mỹ, xã Thọ Diên,
huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Cách khu di tích lịch sử Lam Kinh khoảng
6km về phía Đông Nam, theo Quốc lộ 47 cũ (nay là Quốc lộ 506). Từ huyện lỵ
Thọ Xuân theo hướng Tây đi gần đến km9 rẽ phải khoảng 500m là đến đền thờ
Nguyễn Nhữ Lãm.
Nguyễn Nhữ Lãm chính quán người xã Vân Xá, huyện Thanh Liêm, phủ
Lý Nhân, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Theo gia phả dòng họ
Nguyễn, ông thân sinh Nhữ Lãm là công thần làm quan cuối đời Trần, vì chán
cảnh đời nhiễu nhương nên từ quan về quê. Là gia đình giàu có, vợ ông là Lê

Thị Lịch, một phụ nữ hiền thục, được mọi người quý mến. Mãi ngoài 40 tuổi bà
Lịch mới sinh được một cậu con trai, ông bà đặt tên là Nhữ Lãm. Nhữ Lãm lớn
lên dáng người cao đen, học giỏi lại có tài biện luận, gặp lúc vận nước suy, quân
Minh xâm lược, muốn tìm nơi ẩn thân dấu tiếng. Nghe nói đất Lam Sơn, xứ
Thanh Hoa, có hào trưởng Lê Lợi, mấy lần quân Minh trao cho quan chức mà
10


không nhận. Nhữ Lãm nghĩ chắc là bậc hào kiệt ngầm nuôi chí lớn, bí mật đem
cả gia quyến đến dựng nhà, mở trại tại làng Mỹ Thịnh, huyện Cổ Lôi (nay thuộc
xã Thọ Diên - Thọ Xuân).
Khi ở Lam Sơn, Lê lợi giấy nghĩa, giữa lúc nhân tài như lá mùa thu, tuấn
kiệt như sao buổi sớm, Nguyễn Nhữ Lãm là một trong số 51 tướng lĩnh đã sớm
đúng dưới cờ Bình Định Vương. Mặc dù ông không trực tiếp xông pha chiến
trận như các tướng văn, võ khác mà chuyên phụ trách đội quân thuyền chài vận
tải, tiếp tế binh lương, khí giới. Đặc biệt, trong những ngày tháng nghĩa quân
Lam Sơn phải đối mặt với nhiều gian nan thử thách, tưởng chừng như không thể
vượt qua, phải ba lần rút lên núi Chí Linh ẩn náu. Tại núi rừng Chí Linh, binh sỹ
mệt mỏi, lương thực khô cạn, phải ăn măng với rau củ dại, vua đành phải giết
voi, ngựa để làm thức ăn cho binh lính. Trước tình hình đó, Nguyễn Nhữ Lãm đã
trở về phường Đa Mỹ cùng với đội quân thuyền chài dùng thuyền đánh cá bí mật
chở gạo, muối tiếp tế cho nghĩa quân. Nhờ đó mà binh lính nhanh chóng được
tiếp thêm sức mạnh để giáng cho quân Minh những đòn chí mạng.
Sau 10 năm kháng chiến đầy gian khổ, đất nước được thanh bình, vua
luận công để phong tặng chức tước, đại ban cho ông quốc tính (mang họ vua),
vinh thăng Thôi Trung Phụ Quốc công thần, Nhập nội Thượng thư lệnh Nhập
nội thuyên hiệu Thái bảo Đình huyện hầu.
Thuận thiên năm thứ 4 (1431), sau khi ổn định xong đất nước Thái tổ Cao
Hoàng đế Lê Lợi sai tránh xứ Nguyễn Nhữ Lãm sang nhà Minh cầu phong. Vua
Minh bằng lòng sai xứ mang ấn sắc sang phong cho Lê Lợi là An Nam quốc

vương, thừa nhận Đại Việt là quốc gia độc lập. Đây là một thắng lợi của vua tôi
nhà Lê. Sau sự kiện này Nguyễn Nhữ Lãm được thăng Hữu bộc xạ - một chức
quan đại thần tham dự triều chính, hàm ngang Thượng thư. Vua còn ban cho
Nguyễn Nhữ Lãm chữ Mậu, từ đó dòng họ Nguyễn Mậu ra đời.
Đến thời Thái Tông năm Ất Mão (1435), Nguyễn Nhữ Lãm lại có công
trong việc bình thường hóa quan hệ với Chiêm Thành, củng cố uy tín của vương
triều Lê. Trong thời gian này, vua Lê Thái Tổ còn sai Nguyễn Nhữ Lãm đến
Lam Kinh dựng miếu thờ Thái Mẫu.
Kính thưa quí khách!
Có thể nói, Nguyễn Nhữ Lãm không những là nhà chính trị ngoại giao đại
tài mà còn là một kiến trúc sư giỏi, được coi là người đầu tiên vẽ bản thiết kế
xây dựng điện miếu Lam Kinh.
Nguyễn Nhữ Lãm được mang họ vua, lúc mất (1437) khi đang giữ trọng
trách Thượng thư lệnh, Tham Tri Chính sự, Tri Bắc đạo quân dân bạ tịch sự, tước Đình Thượng Hầu. Do có công lao, ông đã được truy tặng Nhập Nội Thái
Bảo, thuỵ là Trung Tín, tước Thàng Quốc Công. Đến đời vua Lê Thánh Tông
năm Hồng Đức thứ 15 (1448), ông lại được truy phong Khang Tế Hầu.
Sau khi Nguyễn Nhữ Lãm mất, nhà vua đã sắc dụ cho dân phường Đa Mỹ
cùng các làng lân cận của ba tổng Diên Hào, Bất Náo, Kiên Thạch và con cháu
dòng họ Nguyễn Mậu an táng và xây đền thờ, lăng mộ ở chính quê ông.

11


Là kiến trúc thời Nguyễn, Tự Đức năm thứ 3 (1851), được di chuyển từ
bờ sông Chu vào địa điểm hiện nay (thuộc làng Thịnh Mỹ, xã Thọ Diên). Đền
thờ Nguyễn Nhữ Lãm có diện tích 62,4m2, gồm tiền đường và hậu cung. Kiến
trúc vì kèo ở tiền đường được tạo bởi 4 hàng chân cột, với "vì kèo suốt". Ngăn
cách giữa nhà từ đường và hậu cung là sân "thiên tỉnh". Nhà chính tẩm được
chia thành 2 cung: Cung trong cùng là cung cấm - nơi đặt bàn thờ, long ngai và
bài vị của Nguyễn Nhữ Lãm. Cung ngoài là nơi thờ hội đồng gia tộc.

Trước cổng có 2 trụ đá gần vuông, bốn chiều tương đối bằng nhau, được
khắc chữ Hán 2 mặt. Hai pho tượng võ sỹ được tạo tác trang phục võ quan, mũ
giáp trụ. Mỗi pho tượng có chiều cao 1,03m, rộng 0,85m được tạo tác bằng một
khối đá nguyên, đứng trên một đế cao 30cm, rộng 60cm; cùng với sập đá, chó
đá, voi đá, long ngai, bài vị thờ bằng đá xanh... được chạm khắc tinh xảo, là
những tác phẩm nghệ thuật đặc biệt có giá trị giúp các nhà nghiên cứu mỹ thuật
tìm hiểu một giai đoạn phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam thời Lê Sơ.
Để tưởng nhớ các bậc tiền nhân có công lao to lớn trong sự nghiệp bình
ngô, cũng là thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, 28/7/2000, khu di tích
đền thờ và lăng mộ Nguyễn Nhữ Lãm đã được nhà nước xếp hạng là di tích lịch
sử - văn hóa cấp Quốc gia. Nguyễn Nhữ Lãm – khai quốc công thần nhà Hậu
Lê, sau khi mất người đời đã tặng ba chữ “Đức, Kì, Thịnh” – giàu đức một thời
sẽ còn sáng mãi đến muôn đời.
Kính thưa quí khách, với khoảng thời gian không nhiều nhưng tôi hi vọng
quí khách hài lòng khi đến thăm di tích đền Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm.
Chúc quí khách có một chuyến đi thú vị.
Nhóm 4: Hoàn thành tập san ảnh về đền thờ Nguyễn Nhữ Lãm.
2. 3. 3. 3. Kết quả hoạt động học tập trải nghiệm tại đền thờ Thứ quốc công
Nguyễn Nhữ Lãm:
Tinh thần học tập của học sinh rất sôi nổi, các em cũng say sưa với việc
quan sát những hàng chân cột, vì kèo suốt, hình hổ phù và long hóa đăng đối,
hai pho tượng võ sỹ chạm khắc tinh xảo. Phần lớn đều cảm thấy hào hứng khi
khám phá từng chi tiết trong ngôi đền. Các em đều chủ động trong việc chụp
ảnh, ghi chép thông tin về ngôi đền để phục vụ cho bài tập của nhóm. Riêng
nhóm 3 đã hoàn thành một phần bài tập với ý tưởng đóng vai làm hướng dẫn
viên du lịch giới thiệu về ngôi đền. Nhóm 4 cũng đã hoàn thành tập san ảnh về
đền thờ Nguyễn Nhữ Lãm.
Khi tham quan ngôi đền các em cũng đã đặt ra rất nhiều câu hỏi: tại sao
ngôi đền làm bằng gỗ, được xây dựng từ rất sớm, đền đã được trùng tu vậy có
còn giữ nguyên kết cấu ban đầu? Các em cũng đặt ra vấn đề tìm giải pháp cho

việc bảo tồn và quảng bá di tích lịch sử.
2. 3. 4. Hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo tại làng nghề bánh gai Tứ
Trụ - Thọ xuân” theo phương pháp dạy học dự án.
Giáo viên xây dựng dự án “Những giải pháp bảo tồn và phát triển làng bánh
gai Tứ Trụ - Thọ Xuân”.
2. 3. 4. 1. Mục tiêu
12


- Kiến thức:
+ Biết được nguồn gốc của làng nghề.
+ Biết được qui trình làm ra một chiếc bánh gai.
+ Biết được thực trạng sản xuất của làng bánh gai hiện nay.
+ Đưa ra được các giải pháp để bảo tồn và phát triển làng nghề.
- Kĩ năng:
+ Điều tra, khảo sát về làng nghề.
+ Phân tích, đánh giá, tổng hợp tài liệu.
+ Viết và trình bày báo cáo về thực trạng của làng nghề
+ Rèn luyện kĩ năng giao tiếp: làm việc tập thể, ngoại giao để tìm kiếm thông
tin, kĩ năng trình bày, diễn thuyết trước tập thể từ đó rèn luyện tính tự tin.
- Thái độ:
+ Có ý thức gìn giữ và phát huy những giá trị của làng nghề truyền thống.
+ Trân trọng những thành quả của người lao động.
+ Tự hào về quê hương Tứ Trụ - Thọ Xuân.
- Định hướng phát triển năng lực: tự học, giải quyết vấn đề, giao tiếp.
Đối tượng thực hiện dự án: học sinh lớp 12 A5, sĩ số 47.
Thời gian dự kiến: 2 tuần
Ý nghĩa của dự án: Giúp học sinh hiểu được vai trò của làng nghề đối với
đời sống của nhân dân địa phương, từ đó nâng cao ý thức về việc bảo tồn và
phát triển làng nghề.

2. 3. 4. 2. Các bước tiến hành
Bước 1: Xác định chủ đề, mục đích dự án.
Giáo viên đưa ra câu hỏi khái quát: Trong cuộc sống hiện đại, khi chất
lượng cuộc sống con người ngày một nâng cao, mặt hàng bánh kẹo trên thị
trường đa dạng về chủng loại, phong phú mẫu mã, vậy thì chiếc bánh gai làng
quê sẽ có vị trí như thế nào? Chúng ta cần làm gi để bảo tồn và phát triển nghề
làm bánh gai?
Giáo viên xác định dự án: “Với vai trò là các nhà nghiên cứu kinh tế, các
em hãy tìm hiểu về các giải pháp để bảo tồn và phát triển nghề làm bánh gai.”
Giáo viên chia học sinh trong lớp thành nhiều nhóm.
Bước 2: Các nhóm xây dựng kế hoạch làm việc.
- Lựa chọn địa điểm thực hiện dự án: làng bánh gai Tứ Trụ - Thọ Xuân.
- Dự kiến công việc và xác định phương pháp tiến hành:
Nhóm 1: Tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của làng bánh gai
Tứ Trụ - Thọ Xuân.
Nhóm 2: Tìm hiểu quy trình làm bánh.
Nhóm 3: Tìm hiểu về tình hình phát triển làng nghề hiện nay.
Nhóm 4: Tìm hiểu những giải pháp bảo tồn làng nghề.
- Giáo viên hướng dẫn lập kế hoạch nhóm, kế hoạch làm việc của cả lớp trong
thời gian thực hiện dự án.
Bước 3: Thực hiện.
- Ban tổ chức lên kịch bản.
13


- Ban chuyên môn sưu tầm, thu thập tài liệu về nội dung bài học và đề xuất nội
dung sẽ trình bày trong “hội thảo” tại lớp thể hiện chủ đề lớn của bài học.
- Nhóm tuyên truyền viết một tờ poster thể hiện được mục đích chính của cuộc
hội thảo.
- Nhóm dẫn chương trình viết lời dẫn xây dựng các câu hỏi giao lưu với “khán

giả”(là các thành viên trong lớp). Sản phẩm của các nhóm được khuyến khích
làm theo nhiều hình thức thể hiện sự sáng tạo riêng.
Bước 4: Giới thiệu sản phẩm trước lớp.
Thành phần tham gia: Ban tổ chức (mỗi nhóm có một đại diện), báo cáo
viên, người tham gia hội thảo. Mỗi nhóm cử một đại diện trình bày vấn đề đã
tìm hiểu và các giải pháp đề xuất. Cả lớp thảo luận, góp ý.
Bước 5: Đánh giá hoạt động
- Tổ chức cho học sinh tự đánh giá hoặc đánh giá lẫn nhau về kết quả làm việc
của từng nhóm.
- Giáo viên tổng kết, đánh giá về phương pháp tiến hành, nội dung và kết quả
của các vấn đề đã được nghiên cứu và trình bày của từng nhóm.
2. 3. 4. 3. Kết quả cụ thể của từng nhóm:
Nhóm thứ nhất. Tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của làng bánh
gai Tứ Trụ và vai trò của chiếc bánh trong cuộc sống.
Đất nước Việt Nam có muôn nghìn hoa lá, cây trái khác nhau và cũng có
vô vàn loại bánh khác nhau. Hoa quả bánh trái cũng phong phú diệu kỳ như
thiên nhiên vậy. Trong số đó có loại bánh gai thường được làm ở nhiều nơi,
nhưng thơm ngon mang đậm hương vị quê hương, người khắp vùng gần xa ai
cũng khen ngợi, được ăn một lần sẽ nhớ mãi đến già là bánh gai làng Mía, xã Tứ
Trụ, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Để truy tìm nguồn gốc ra đời của món quà ngon bánh gai Tứ Trụ là điều
không dễ. Nhưng có một điều chắc chắn, món ăn này từng là đặc sản tồn tại gần
600 năm trước, dùng để dâng lên vua Lê. Trong mỗi dịp giỗ, tết những cặp bánh
gai gói bằng lá chuối khô bên ngoài buộc lạt đỏ là vật phẩm cúng tế không thể
thiếu của người dân địa phương.
Bánh gai Tứ Trụ cùng với chè Sánh, chè Lược và cá rô Đầm Sét đã tạo
nên thứ đặc sản của vùng đất Thọ Xuân. Bánh gai thường được làm để thết đãi
khách sau mỗi lần giỗ tết, đình đám. Sau khi ăn cỗ người ta mang các loại bánh
ra để mời khách “tráng miệng”, thời phong kiến mỗi khi có việc làng, nhà nào
sang phải có sáu loại bánh tráng miệng: bánh khoai, bánh cốm, bánh gai, bánh

nhãn, bánh sắn bột lọc, bánh trắng. Bánh gai còn để cúng tiến trong các ngày lễ
tết, ngày hội, ngày giỗ húy nhật của thành hoàng, đặc biệt là ngày “hăm mốt Lê
Lai, hăm hai Lê Lợi".
Gọi là bánh gai Tứ Trụ vì nó do người làng Mía làm và được sản xuất tại
làng Mía, xã Tứ Trụ - thuộc tổng Diên Hào - một làng cổ có hàng nghìn năm bên
bờ sông Chu nay thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân. Làng Mía cách trung tâm
huyện Thọ Xuân 9 km về phía Tây, thuộc hữu ngạn sông Chu. Chếch về phía
Tây Bắc của xã chừng 1,5 km đường chim bay, về phía tả ngạn là khu di tích
14


lịch sử Lam Kinh, nơi phát tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn quê hương của
Bình Định vương Lê Lợi và của nhiều bậc khai quốc công thần triều Lê. Hiện
nay xã có 10 thôn, đến giờ mặc dù ranh giới làng không còn rõ nữa, không còn
những mái đình cây đa để níu giữ chân người, nhưng trong tiềm thức người dân
ở đây vẫn rạch ròi có 4 làng: làng Mau, làng Mía, làng Quần Đội, làng Quần
Lai. Tứ Trụ chỉ là một thị tứ nhỏ nằm giữa làng Mau và làng Mía. Tứ Trụ
thường là nơi bày bán, lưu chuyển đi khắp nơi, từ vùng đất này đến vùng đất
khác sản phẩm bánh gai của người làng Mía. Đó cũng là một lý do để người đời
quen gọi là bánh gai Tứ Trụ.
Nhóm thứ hai: Tìm hiểu quy trình làm bánh.
Bánh gai làm rất công phu, kỳ công ở tất cả các công đoạn. Đòi hỏi người
làm bánh phải tỉ mẩn và tinh tế, có những thao tác phải thành thạo, điêu luyện
như một thứ gia truyền.
Lá gai được thu hái tận trong rừng hoặc trồng ở bãi bồi ven sông Chu hái
về, rồi tước nhặt bỏ phần cuống lá, gân lá, xơ lá, đem phơi cho thật kỳ khô. Lá
gai khô đem ngâm nước, rửa cho thật sạch rồi bó thành từng bó đổ cho ngập
nước đem luộc thật kỹ. Vớt ra tiếp tục rửa sạch rồi lại thay nước tiếp tục luộc,
xong vắt khô kiệt để cho không còn nước, bỏ vào cối đại giã cho kỳ nhuyễn, giã
đến khi nào lấy hai đầu ngón tay xe thấy mát mịn mới được. Cái mát mịn mềm

mại như da thịt. Công việc này thường giao cho các chàng trai cùng các cô gái
để họ vừa nói chuyện vừa giã sao cho đừng sốt ruột. Không ít nam thanh, nữ tú
tâm đầu ý hợp kết duyên chồng vợ từ mùa làm bánh gai. Lá gai giã kỹ bao nhiêu
thì bánh ngon hấp dẫn bấy nhiêu. Bây giờ để bớt khó nhọc và để sản xuất được
thật nhiều người ta đưa lá vào ép cho kiệt nước rồi đem nghiền. Cách làm tân
tiến này đỡ phần khó nhọc được cái lợi về số lượng nhưng giảm về chất lượng.
Để bánh được thơm ngon phải có nhiều lá gai, vì lá gai là nguyên liệu chính nên
gọi bánh gai là vì vậy.
Nguyên liệu đi cùng với lá gai là gạo nếp, thứ nếp được xay bằng cối đá
bắc hoặc cho vào cối đá giã nhỏ rồi dùng rây bột gạn đi những hạt to. Ngày nay
người ta dùng máy để nghiền. Thứ gạo để làm bột tốt nhất là nếp nương hoặc
nếp hoa cau. Phần không thể thiếu được để chiếc bánh thơm ngon là nhân bánh.
Nhân bánh được làm từ đậu xanh, dầu chuối, đường và thịt lợn nạc. Đậu xanh
đem cà vỡ đôi vỡ ba, ngâm tróc vỏ đãi sạch, nấu như nấu cơm hoặc đồ lên,
không được nấu nhão, và nhớ rắc vào nồi đậu vài hạt muối khi đậu vừa sôi. Khi
đậu chín, cho vào cối giã cùng với đường sao cho đường và đậu nhỏ mịn thấm
đều vào nhau. Đây là thành phần chính của nhân bánh; để cho nhân có mùi vị
đặc trưng, ngọt thanh, cần có thịt lợn nạc (khoảng từ 200 đến 300g cho 100
nhân), một thìa cà phê nước mắm ngon và một ít dầu chuối. Dầu chuối cho đủ
độ, nếu nhiều sẽ bị đắng, cho ít quá thì không dậy mùi. Bột lá gai, bột nếp, trộn
cùng mật mía cho thật kỹ đều rồi ủ trong một đêm.
Khâu giã bánh góp phần quyết định chất lượng của bánh. Thường khi xưa
giã bằng cối đại hai người nhún và một người trực ở cối đá để đảo trộn cho thật
đều. Khâu này bây giờ cũng được dùng bằng máy có lắp mô tơ chạy với vận tốc
15


lớn. Đây là công đoạn khó, đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tiễn. Công đoạn
này nếu xử lý không tốt sẽ dẫn đến tình trạng hoặc là nhão quá hoặc là cứng quá,
không thành bánh. Lấy bột này đem nặn từng cục tròn rồi dàn mỏng trên lòng

bàn tay, lấy nhân cho vào giữa, vê lại sao cho nhân nằm gọn giữa lòng chiếc
bánh. Khi đã xoa cho bánh tròn thì lăn bánh trên mâm đồng đã rải đều hạt vừng.
Dùng lá chuối khô vuốt phẳng gói lại cho khéo thành từng chiếc bánh
vuông vắn, quấn một chiếc lạt giang bên ngoài. Gói bánh cũng đòi hỏi nghệ
thuật. Gói bánh gai nhất thiết phải bằng lá chuối khô, nhà cầu kỳ phải lên rừng
lấy cho được loại lá chuối tiêu già thì bánh mới thật thơm ngon. Lá chuối phải
được đệm nhiều lượt một phần để tạo mùi thơm đặc trưng của bánh, một phần
để cho bánh định hình. Đây cũng là cách tốt nhất để bảo vệ bánh được lâu và giữ
được hương vị. Người thưởng thức thấy bánh nhiều lá mà hiểu rằng họ độn lá
vào cho bánh to để chiêu khách, nói vậy là phụ công người làm bánh nhiều lắm.
Sau cùng là phần hấp bánh (người làng Mía gọi là đồ bánh) cũng là công
đoạn đòi hỏi thực tiễn. Thứ thực tiễn được trả giá bằng quyết tâm sống chết với
nghề. Bánh gai hấp không chín, đem hấp lại sẽ không được nữa. Bánh chín được
vớt ra nia rồi mở ra (mở chứ không phải bóc) cho ráo, để cho bánh nguội tự
nhiên và ráo nước. Công đoạn này còn phải làm động tác vuốt lại bánh để bánh
nhẵn và đẹp (bánh có hình gộp rùa là đẹp). Khi bánh nguội hẳn dùng lạt giang
đã nhuộm phẩm đỏ thay cho lạt khi luộc, gói từng bó 5 chiếc một cho vuông
vắn, rồi xếp hai bó loại 5 chiếc lại thành 10 chiếc để tiện lợi khi dùng hoặc khi
trao đổi mua bán.
Người làm bánh đã rất công phu, người thưởng thức bánh cũng phải sành
điệu. Thường ăn bánh sau khi hấp khoảng 10 tiếng đồng hồ. Lần lượt nhẹ nhàng
bóc hết các lần lá bên ngoài, ở lần lá trong cùng, người ăn phải xé nhỏ từng sợi
lá, kiên trì cho đến khi còn lại một phần lá, ta cuốn lại cầm bánh ăn, có như vậy
bánh mới không dính vào tay, ăn đến đâu xé và bóc đến đấy cho đến lúc ăn hết.
Các cụ ta khi xưa dạy “học ăn học nói, học gói học mở” vận vào với bánh gai
thật đúng là vậy. Khi ăn người ta ăn từ tốn nhấm nháp, thưởng thức; phần có
nhiều nhân bánh người ta nhai chậm, miệng khép, như vậy hương vị của bánh
mới có điều kiện lan tỏa, tác động vào khứu giác, tạo cảm giác thú vị khi thưởng
thức.
Bánh gai thành phẩm phải mịn và thơm ngon, phải có được vị dẻo thơm

của lá gai, của gạo nếp và có được hương thơm ngất ngây của dầu chuối, hương
vị tự nhiên khó tả của lá chuối khô, vị ngọt mát của mật mía, mùi thơm thanh
dịu của đậu, vị béo ngậy của thịt, mùi thơm thoảng của vừng, ăn một miếng mà
dư vị còn đọng nơi đầu môi, chót lưỡi mới đạt.
Giờ thì bánh gai đã theo chân người du lịch đi xa tận chót mũi Cà Mau, tít
tắp địa đầu Móng Cái, nhiều khi còn vượt biên sang nước bạn, có mặt trên nhiều
tờ báo, có trong danh mục ẩm thực xứ Thanh. Về tham quan khu di tích lịch sử
Lam Kinh ra về không thể nào không mua dăm chục bánh gai về làm quà.
Người dân làng Mía yêu cái nghề làm bánh vinh dự, tự hào với nghề và biết ơn

16


vị tổ nghề đã giúp dân làng xóa đói từ những ngày xa xưa, giờ đang góp phần
giúp họ xóa nghèo, giữ lấy hương vị đậm đà bản sắc quê hương, bản sắc dân tộc.
Nhóm thứ ba: Tìm hiểu về tình hình phát triển làng nghề hiện nay
Xã Thọ Diên có bốn làng, nhưng duy nhất làng Mía là làm được món
bánh gai thơm ngon đặc biệt, đã được UBND tỉnh Thanh Hóa cấp chứng nhận
làng nghề năm 2015. Xã có 370 hộ/1.420 người, trong đó có 79 hộ chuyên sản
xuất bánh gai, cả năm làm ra khoảng 20.340 cái bánh, doanh thu gần 12,4 tỷ
đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 24 triệu đồng/người/năm. Được sản
xuất với số lượng lớn mỗi năm và đã có mặt ở hầu hết các thị trường trong và
ngoài tỉnh như Hà Nội, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, TP Hồ Chí Minh….
Trên thị trường có nhiều loại bánh gai của các làng nghề nổi tiếng Bà Thi
(Nam Định), Ninh Giang (Hải Dương), thế nhưng bánh gai Tứ Trụ vẫn có vị thế
riêng của mình. Sản phẩm của làng nghề được đông đảo người tiêu dùng đón
nhận vì bánh đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Sau khi ra lò, bánh gai
Tứ Trụ được thương lái đến lấy và mang đi tiêu thụ ở nhiều địa điểm trong và
ngoài tỉnh như các nhà ga tàu ở Thanh Hóa, các đại lí lớn trên các tuyến có xe
khách Bắc – Nam chạy qua và đặc biệt là cảng hàng không Thọ Xuân.

Ông Lê Hữu Lâm, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề bánh gai Tứ Trụ, chia sẻ:
“Làng nghề làm bánh gai không biết có từ bao giờ, chỉ biết khi tôi sinh ra đã
thấy ông cha hàng ngày giã gạo, giã đậu xanh để làm bánh. Và rồi đam mê và
gắn bó với nghề bao giờ không ai hay, hiện mỗi nhân công có thu nhập 4- 4,5
triệu đồng/tháng”. Còn theo ông Lê Hữu Tùng, Chủ tịch UBND xã Thọ Diên,
thu nhập của làng nghề chiếm 1/3 tổng thu nhập của toàn xã (50 - 60 tỉ
đồng/năm).
Nhóm thứ tư: Tìm hiểu những giải pháp bảo tồn làng nghề.
Trải qua gần 600 năm, bánh gai Tứ Trụ đã thể hiện thế mạnh của mình khi
ngày càng có nhiều người tiêu dùng trong nước biết đến. Để phát triển bền vững
làng nghề, chính quyền cũng như các cấp, ban ngành cần có chính sách phù hợp,
ngăn chặn vấn nạn hàng nhái, hàng giả làm mất uy tín, thương hiệu của làng
nghề.
Nguồn nguyên liệu tại chỗ không đảm bảo được nhu cầu. Các nguyên vật
liệu chính đều phải thu mua từ nơi khác về như: gạo nếp mua từ Lào, lá gai từ Nam
Định, lá chuối từ Nghệ An… với giá không ổn định. Từ đó đội chi phí sản xuất lên
cao, dẫn lợi nhuận thấp. Theo tính toán của Phòng Công Thương huyện Thọ Xuân,
mỗi chiếc bánh gai có chi phí trung bình là gần 3.900 đồng, với giá bán 4.500 đồng
hiện tại, thì lợi nhuận mang lại rất thấp, chỉ khoảng 600 đồng/chiếc. Huyện cần có
những cơ chế chính sách để tạo điều kiện tốt nhất cho người dân tham gia chuyển
đổi cây trồng truyền thống sang trồng cây nguyên liệu.
Thị trường đầu ra. Thị trường đầu ra của bánh gai Tứ Trụ lâu nay chủ yếu
“dò dẫm đi” thông qua kênh “quà biếu” mà chưa có một kênh tiêu thụ, phân
phối cố định nào. Cần mở rộng thị trường qua nhiều kênh khác nhau: quảng cáo,
trưng bày, hội chợ….
Giải pháp thương hiệu. Mặc dù sản phẩm bánh gai Tứ Trụ đã có mặt trên
17


thị trường từ rất lâu, nhưng đến nay vẫn chưa được bảo hộ thương hiệu để bảo

vệ lợi ích chính đáng cho người sản xuất và người tiêu dùng. Vì vậy việc phát
triển thương hiệu và xây dựng nhãn hiệu cho sản phẩm đã và đang được chú
trọng. Đăng ký thương hiệu cho sản phẩm sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
cho các cơ sở sản xuất, người lao động và người tiêu dùng.
2. 3. 4. 4. Kết quả hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo tại làng nghề
bánh gai Tứ Trụ - Thọ xuân”
Trước hết các em đã biết được lịch sử hình thành làng nghề, sự phát triển
của làng nghề từ khi hình thành đến nay. Các em biết được các công đoạn làm ra
một chiêc bánh gai. Từ đó các em thấy được sự khéo léo của người thợ làm
bánh. Các em tự tay làm thử một số công đoạn dưới sự hướng dẫn của những
người thợ làng nghề, từ đó các em cảm nhận sâu sắc được sức lao động cần cù,
khâm phục khả năng sáng tạo của những người nông dân - nghệ nhân, hiểu rõ
hơn giá trị của từng sản phẩm mà trước khi đến làng nghề các em không có cơ
hội trải nghiệm thì không thể cảm nhận được.
Chuyến trải nghiệm đã gợi ý để các em hứng thú tiếp tục tìm hiểu những
vấn đề liên quan xung quanh làng nghề. Các em cũng so sánh đời sống của
người thợ làm bánh với các ngành nghề khác.
Sau buổi trải nghiệm các nhóm đều có bài thu hoạch của nhóm để trình
bày trước lớp: một đoạn phim nhóm 2 thực hiện về qui trình làm bánh, bài viết
cảm nhận về hương vị chiếc bánh gai.(Xem phần phụ lục 5)
Thông qua hoạt động học tập trải nghiệm tại làng nghề bánh gai Tứ Trụ Thọ xuân học sinh không chỉ biết về sự hình thành phát triển của một làng nghề
ở địa phương, nắm được qui trình làm bánh mà còn phát triển năng lực sử dụng
công nghệ thông tin, năng lực thu thập và xử lí thông tin. Bồi đắp tình yêu và
lòng tự hào về quê hương, hiểu được giá trị của lao động.
2. 3. 4. 5. Đánh giá chung:
Như vậy, qua cả hai buổi thực nghiệm, tôi đã nhận thấy ngoài những kết
quả có thể “đong, đếm” được bằng bài kiểm tra, bài viết, ấn phẩm, video thì cái
mà quan trọng đó là tình cảm, thái độ và hành vi ứng xử của các em có những
chuyển biến tích cực và rất đáng mừng đó là khả năng sáng tạo ở các em.
Chính các em là người thiết kế, tổ chức hoạt động và thầy cô chỉ là người

hỗ trợ. Các em biết chia sẻ, biết hợp tác và mạnh dạn, tự tin hơn. Các em có thái
độ tôn trọng hơn với người lao động, nhận ra nhiều điều về giá trị sống sau khi
“tiếp xúc” với thực tiễn cuộc sống.
2. 3. 5. Kết quả đối chứng.
Cũng với 92 học sinh đã được điều tra, tôi lại tiếp tục phát phiếu điều tra
sau khi các em được học tập trải nghiệm sáng tạo qua hai buổi (câu hỏi điều tra
về cơ bản như câu hỏi ban đầu).
Kết quả thu được là đa số học sinh đều có một câu trả lời chung: rất hứng
thú với học tập trải nghiệm và rất mong muốn được tiếp tục học tập bộ môn Lịch
sử dưới hình thức trải nghiệm. Vì hình thức học tập này làm cho bài học trở nên
nhẹ nhàng, hấp dẫn, các em được làm việc, được thiết kế tự tìm ra cách tiếp cận
18


riêng để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Ngoài ra những kiến thức thực tế giúp ích
rất nhiều cho các em trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống.
Cụ thể:
+ Kết quả cho thấy phần lớn học sinh ở hai lớp 10C9 và 12A5 đều yêu thích
môn Lịch sử. Số học sinh tỏ ra chưa thực sự yêu thích môn học này chỉ chiếm
khoảng 10%).
+ Đa số học sinh đều đánh giá được tầm quan trọng của môn học. Có tới 92% số
học sinh được khảo sát cho rằng Lịch sử là môn học quan trọng, không có ý kiến
nào cho rằng đây là môn học không quan trọng.
+ Về mức độ cần thiết khi tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong
học tập lịch sử thì kết quả thu được là 95% học sinh đồng ý cần thiết và chỉ có
5% học sinh cho rằng không cần thiết.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục:
Học tập trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Lịch sử ở trường Lam Kinh
chủ yếu được tổ chức dưới hình thức ngoại khóa hay ngoài giờ lên lớp theo chủ

đề mà nhà trường xây dựng từ đầu năm học còn nghèo nàn và đơn điệu. Bởi vậy
khi làm quen với cách học này các em đều rất hào hứng, nhiệt tình tham gia và
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thông qua hoạt động trải nghiệm, học sinh đã nhận thấy những kiến thức
lịch sử không còn nặng nề, hàn lâm mà rất gần gũi, thiết thực với chính các em;
nhiều năng khiếu của học sinh đã được bộc lộ, bồi dưỡng cho các em tình yêu
quê hương, nơi mình sinh ra và lớn lên.
Phần lớn học sinh đều có mong muốn được học lịch sử dưới hình thức trải
nghiệm.
2.4.2. Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục của bản thân:
Bản thân tôi nhận thấy rằng: cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng
tạo rất đa dạng, phong phú. Giáo viên cần tùy thuộc vào những đặc trưng về
văn hóa, khí hậu, đặc điểm vùng miền, điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi địa
phương mà lựa chọn nội dung và hình thức tổ chức sao cho việc thực hiện được
linh hoạt, sáng tạo và sử dụng có hiệu quả thời gian, các yếu tố nhân, vật lực ở
điạ phương mình.
Thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo tôi nhận rõ vai trò của mình là
người hướng dẫn và tổ chức, từng cá nhân học sinh là chủ thể của hoạt động,
qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng
sáng tạo của các em.
Khi thực sự là người định hướng các hoạt động mà thông qua đó hình
thành các kỹ năng sống, rèn luyện nhân cách, kỹ năng thì tôi nhận thấy nếu giáo
viên không thực sự tâm huyết, không dung hòa được giữa nhu cầu của người
học và định hướng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo, không đủ bản lĩnh và
kiến thức để giải đáp những thắc mắc của học sinh thì không thể có hiệu quả
như mong muốn được.
2. 4. 3. Đối với đồng nghiệp và nhà trường
19



Qua đề tài này, mỗi cán bộ giáo viên trong nhà trường đều nhận thấy ưu
điểm rất lớn cũng như những khó khăn của hoạt động học tập trải nghiệm sáng
tạo. Đều có nhận thức đúng về bản chất của hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Với
nội dung và phương thức tổ chức như trên, mọi người đều hiểu là không cần
phải có giáo viên chuyên "dạy" trải nghiệm sáng tạo, bởi chủ thể trải nghiệm là
học sinh và không "dạy" được. Giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn
học sinh thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện của học sinh.
Mỗi giáo viên và tổ, nhóm bộ môn đều có thể và có trách nhiệm tham gia
xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ đề hoạt động trải nghiệm sáng tạo phù
hợp với yêu cầu của bộ môn. Trên cơ sở đó nhà trường căn cứ vào yêu cầu của
chương trình giáo dục phổ thông xây dựng được các chủ đề hoạt động tích hợp,
liên môn để tổ chức cho học sinh thực hiện.
Như vậy có thể hình dung với cơ cấu giáo viên như hiện nay, việc thực
hiện các hoạt động trải nghiệm sáng tạo đã có thể được thực hiện tốt. Trong đó
giáo viên các bộ môn tham gia xây dựng các chủ đề hoạt động, chịu trách nhiệm
đưa ra mục tiêu, nội dung, phương thức và sản phẩm hoạt động; tham gia đánh
giá kết quả hoạt động của học sinh.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một mô hình học tập hiện đại, có ưu thế
rất lớn trong việc phát triển năng lực học sinh, giúp các em liên hệ kiến thức đã
học vào hoạt động thực tế. Thông qua các hoạt động như đóng vai, dự án, tham
quan, tình huống…. sẽ phát triển được khả năng sáng tạo, tự lực học tập của học
sinh, qua đó tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập lịch sử.
Đối với hoạt động trải nghiệm sáng tạo khi học tập Lịch sử địa phương
Thọ Xuân ở trường THPT Lam Kinh, ngoài những hiệu quả đạt được nói chung
thì các em còn được bồi đắp thêm kiến thức về quê hương bằng chính sự khám
phá của bản thân. Từ đó, các em yêu mến hơn, tự hào hơn khi được sinh ra trên
mảnh đất với bề dày truyền thống lịch sử.

Kiến nghị.
Cần tăng cường những tiết dạy thực hành cho học sinh để học sinh có thể
tham gia những hoạt động trải nghiệm một cách chủ động, sáng tạo.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh tốn kém, cần kinh phí nhưng
nhà trường không thể đáp ứng tất cả nên rất cần công tác xã hội hóa đặc biệt với
các huyện còn nghèo.
Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục cần đẩy mạnh trong thời gian
tới để cân bằng với hoạt động dạy chữ. Do đó, các nhà trường cần tập huấn, xây
dựng mục tiêu, nội dung hoạt động, kế hoạch triển khai, đánh giá kết quả. Với
cán bộ quản lý, phải xây dựng kế hoạch nhà trường cụ thể, khi nào tổ chức hoạt
động gì, dành cho đối tượng học sinh nào, sẽ diễn ra ở đâu.

20


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tôi viết,
hoàn toàn không sao chép của bất kì ai.
( Kí và ghi rõ họ tên)

Đoàn Thị Hương

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện

giáo dục và đào tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam (2013).
2. Kĩ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong
trường trung học. Bộ giáo dục và Đào tạo (2015), tài liệu tập huấn.
3. Quan niệm về Hoạt động trải nghiệm sáng tạo và một số hình thức tổ chức
hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ thông, Nguyễn Thị Hằng,
Nguyễn Thị Kim Dung, Hà Nội, tháng 8 năm 2014.
4. “Luật Giáo dục”, Bộ giáo dục và Đào tạo (2005), NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Nguồn internet.
6. “Thiết kế các bài học lịch sử địa phương ở trường THPT bằng phương pháp
DHDA”, báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp trường,
ĐHSPHN, Phạm Thị Kim Anh (2012).

22


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đoàn Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường THPT Lam Kinh – Thọ Xuân.
Cấp đánh
Kết quả đánh
giá xếp
Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
loại
đánh giá

(A, B, hoặc
(Phòng,
xếp loại
C)
Sở, Tỉnh...)
1. Một vài biện pháp giáo dục đạo Cấp tỉnh
C
2011 – 2012
đức cho học sinh lớp 12A8
2.

trường THPT Lam Kinh.
Một vài biện pháp sử dụng di

Cấp tỉnh

C

2012 – 2013

Cấp tỉnh

C

2015 – 2016

tích lịch sử trên địa bàn huyện
Thọ Xuân trong dạy học Lịch
sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ
3.


X đến thế kỉ XV, lớp 10.
Một số biện pháp giáo dục lòng
yêu quê hương thông qua tiết
dạy Lịch sử địa phương “Vị thế
của thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ
trong lịch sử dân tộc” cho học
sinh Trường THPT Lam Kinh.

* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
----------------------------------------------------

23



×