PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhằm đưa
đất nước trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, với những mục tiêu khoa
học – xã hội mang tính ưu việt thì để thực hiện tốt những mục tiêu trên Đảng và
Nhà nước ta cần phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, huy động mọi
nguồn lực và nhân lực, khơi dậy và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, hiện đại.
Nhằm phục vụ cho các chiến lược kinh tế - xã hội. Trong đó nhân tố con người
vừa là động lực, vừa là mục tiêu cần được bồi dưỡng đào tạo và phát huy. Vì thế
vấn đề xây dựng nhân cách, giáo dục con người cũng như đào tạo một đội ngũ
cán bộ, công nhân lao động trẻ phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ được coi
là nhân tố quyết định trong công cuộc đổi mới đất nước. Nhằm thực hiện được
nhiệm vụ to lớn và cấp bách đó thì giáo dục đã trở thành quốc sách hàng đầu
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với mục tiêu của giáo
dục đại học là: “tạo ra những cán bộ có trình độ khoa học kỹ thuật cao, tay nghề
vững vàng, có đạo đức, nhân cách tốt, có thể lực và sức mạnh trí tuệ, có năng
khiếu thẩm mỹ và lòng yêu nước, trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” thì công tác GDTC được Đảng và Nhà
nước luôn luôn quan tâm và xác định rõ vị trí đặc biệt quan trọng của thể thao
trường học đối với thế hệ trẻ và hơn thế nữa GDTC được coi là bộ phận quan
trọng của hệ thống giáo dục quốc dân. [1], [2]
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X và chỉ thị 17/CTTW của
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu rõ: “Công tác thể dục, thể thao góp phần
khôi phục và tăng cường sản xuất của nhân dân, mở rộng và nâng cao chất
lượng phong trào TDTT quần chúng từng bước đưa việc rèn luyện thân thể
thành thói quen hàng ngày của nhân dân, trước hết là của thế hệ trẻ. Nâng cao
chất lượng GDTC trong trường học ”. Điều đó có thể nói GDTC là một mặt
của giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên. GDTC là một lĩnh vực sư phạm
chuyên biệt, nó có tác dụng tích cực đối với việc rèn luyện và bồi dưỡng những
1
phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ trong việc hình thành nhân
cách thế hệ trẻ - học sinh, sinh viên. [10], [11], [12]
Trường đại học sư phạm TDTT Hà Nội là trường đào tạo giáo viên
GDTC cho nhà trường phổ thông các cấp. trong những năm qua nhà trường đã
thực hiện chương trình đào tạo chuyên nghành hẹp, dưới hình thức đào tạo này
cùng với sự phát triển mạnh mẽ về số lượng sinh viên như hiện nay, vấn đề đảm
bảo chất lượng giáo dục đang gặp phải những khó khăn nhất định. Viêc giảng
dạy và huấn luyện thể lực ở giai đoạn này có nhiêm vụ phát triển toàn diện và
củng cố sức khỏe, nâng cao khả năng chức phận và các tố chất vận động, việc
giải quyết các nhiệm vụ này được thực hiện trong quá trình thao tác huấn luyện
thể lực chung và thể lực chuyên môn. Để giải quyết tốt việc phát triển thể lực
cần được quan tâm không chỉ trong các giờ học chính khóa mà còn cả trong các
hoạt động ngoại khóa.
Với gần 50 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học sư phạm TDTT
Hà Nội luôn luôn đề cao mục tiêu trong sự nghiệp đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng
thanh niên – sinh viên của mình là: “hình thành một lớp thanh niên nam, nữ ưu
tú vững vàng về chính trị, kiên định con đuờng xã hội chủ nghĩa tiêu biểu cho
thế hệ trẻ có hoài bão lớn, tự cường dân tộc, năng động, sáng tạo trở thành
những giáo viên TDTT giỏi, sánh vai cùng thanh niên các nước trên thế giới”.
[7]
Năm 1980 Trường phát triển thành Trường Cao đẳng Sư phạm Thể dục
Nhạc Hoạ Trung ương. Đến năm 1985, do yêu cầu phát triển Chính phủ quyết
định tách thành 2 trường: Cao đẳng Sư phạm Nhạc hoạ Trung ương và Cao đẳng
Sư phạm Thể dục Trung ương số 1. Địa điểm khai sinh đầu tiên của trường tại
km số 9 Thanh Xuân Hà Nội, dành cho Trường Cao đẳng Sư phạm Nhạc Hoạ
Trung ương.
Từ đó đến nay dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cùng với tinh thần đoàn kết
và quyết tâm phấn đấu hết lòng vì sự nghiệp của tập thể CB, GV, CNV, sinh
viên Trường CĐSP Thể dục TW1 đã không ngừng vươn lên và đạt được nhiều
2
thành tựu quan trọng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, luôn luôn
được Đẳng và Nhà nước tin cậy, được Bộ Giáo dục và đào tạo đánh giá cao, tin
tưởng giao thêm nhiệm vụ giáo dục quốc phòng cho sinh viên Thủ đô Hà Nội
(tháng 10/1994). Tháng 5 năm 2003 Nhà trường được Chính phủ ra quyết định
nâng cấp thành trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Tây. Ngày
14/11/2008, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định đổi tên trường thành Trường
Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội. Với mục tiêu như vậy, Đại học Sư
phạm TDTT Hà Nội đã trở thành một trong những trường đại học đào tạo có uy
tín về TDTT đào tạo các nhà sư phạm giỏi cho thành phố Hà Nội nói chung và
cho đất nước. Song song với việc nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn thì
nhà trường luôn chú trọng đến vấn đề sức khoẻ - công tác GDTC cho sinh viên.
Nhằm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng trong công tác định hướng phát
triển TDTT trong giai đoạn mới là: “Phát triển TDTT là một bộ phận không thể
thiếu được trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta”,
[7] thì Đảng uỷ và các cấp lãnh đạo Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội nhận thấy
bên cạnh việc thực hiện chương trình GDTC nội khoá cho sinh viên một cách
đầy đủ thì công tác tổ chức hoạt dộng thể thao ngoại khoá cho sinh viên là một
việc vô cùng cấp bách và cần thiết; nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà thể
lực của phần lớn sinh viên còn chưa tương xứng với yêu cầu phát triển thể lực
và tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Đồng thời qua xem xét thực tế, chúng tôi nhận
thấy số lượng câu lạc bộ của nhà trường còn ít (01 câu lạc bộ võ thuật cổ truyền,
01 câu lạc bộ khiêu vũ thể thao) mà hoạt động ngoại khoá của sinh viên đều là
tự phát và chưa thu hút được đông đảo số người tham gia tập luyện hình thức
hoạt động thể thao ngoại khoá còn chưa phong phú, các thầy cô thuộc các bộ
môn thì tập trung hướng dẫn nhiều vào các đội tuyển thi đấu. Đặc biệt là qua
theo dõi kiểm tra thể lực cho sinh viên, Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội
chúng tôi thấy rằng có sự khác biệt lớn trong thể lực của sinh viên đang học
TDTT nội khoá (ở năm thứ nhất K43 và thứ hai K42) với những sinh viên đã
từng học TDTT nội khoá (năm cuối K40). Chính vì những lý do trên, mà Đảng
3
uỷ và các cấp lãnh đạo nhà trường đã giao cho Đoàn Thanh niên với nhiệm vụ
và chức năng của mình, cần phải lựa chọn những hình thức, nội dung, phương
pháp tổ chức và tập luyện ngoại khoá phù hợp với đặc điểm, giới tính, nguyện
vọng và sở thích của sinh viên nhằm tăng cường thời gian hoạt động, vận động
thể chất và nâng cao thể lực, đồng thời ngoài mục đích trên thì thông qua các
hoạt động TDTT ngoại khoá, Đoàn Thanh niên tiếp tục công tác tìm và phát
hiện những năng khiếu thể thao cho nhà trường.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa tầm quan trọng tính bức thiết của vấn đề
chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
“Nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp tổ chức hoạt động ngoại khoá
nâng cao thể lực cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng công tác giảng dạy cho sinh viên
Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội, tiến hành lựa chọn nâng cao thể lực
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cho sinh viên nhà trường.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Để giải quyết mục đích đã được đặt ra, đề tài tiến hành giải quyết hai
nhiệm vụ:
Mục tiêu 1: Nghiên cứu thực trạng hoạt động thể thao ngoại khoá của
sinh viên Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội.
Mục tiêu 2: Lựa chọn và ứng dụng một số biện pháp nâng cao hoạt động
thể thao ngoại khoá, góp phần nâng cao thể lực cho sinh viên Trường Đại học
Sư phạm TDTT Hà Nội.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tìm hiểu chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về GDTC và
thể thao trong các Trường Đại học.
Quá trình xây dựng và trưởng thành của TDTT luôn gắn liền với sự vận
dụng sáng tạo chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Hơn nửa thế kỷ qua sự nghiệp TDTT nước ta không ngừng phát
triển và góp phần đắc lực vào mục đích tăng cường sức khoẻ đấu tranh Cách
mạng và giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
Những tư tưởng của Bác còn được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát
triển qua các thời kỳ, được thể hiện tập trung qua các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước có liên quan đến công tác này. Hiện nay mục đích cao cả và
bao trùm của các ngành công nghiệp và nông nghiệp, quốc phòng an ninh, giáo
dục, khoa học kỹ thuật, đối ngoại, văn hoá (trong đó có TDTT)…là góp phần
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc theo mục đích và
chức năng cụ thể của mình. Ngành TDTT có nhiệm vụ tổ chức, quản lý, hướng
dẫn các hoạt động TDTT nhằm mục đích là tăng cường thể chất cho nhân dân.
Xét về mục đích, đó là đặc trưng cơ bản nhất trong TDTT so với các bộ phận
khác trong nền văn hoá chung, đồng thời việc nâng cao trình độ thể thao để đề
cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc cũng rất quan trọng. Là một bộ phận của nền
văn hoá, TDTT không chỉ có tác dụng đến sức khoẻ, thể chất mà còn góp phần
nâng cao sức khoẻ về tinh thần, làm phong phú đời sống văn hoá, văn minh
chung của toàn xã hội. Phát triển TDTT trong từng thời kỳ phát triển kinh tế xã
hội sẽ góp phần thúc đẩy các sự nghiệp khác phát triển và nguợc lại. Bởi vậy
TDTT nước ta có những nhiệm vụ chính sau đây:
Nâng cao thể chất và sức khoẻ cho nhân dân.
Nâng cao trình độ thể thao của đất nước, từng bước vươn lên những đỉnh
cao Quốc tế, trước hết là khu vực.
5
Góp phần làm phong phú, lành mạnh đời sống văn hoá, tinh thần và giáo
dục con người mới.
Những quan điểm phát triển TDTT trong thời kỳ đổi mới là những định
hướng cơ bản để xác định vị trí và các mối quan hệ của toàn bộ sự nghiệp TDTT
đối với đời sống kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc luôn được xác định trong
nhiều văn kiện Đại hội Đảng, trong các chỉ thị của Trung ương Đảng về công tác
TDTT qua các thời kỳ phát triển đất nước.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1980) Đảng đã xác định
quan điểm, chủ trương về phát triển TDTT là:
… “Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng, từng
bước đưa việc rèn luyện thân thể thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân
dân, trước hết là của thế hệ trẻ. Nâng cao chất lượng GDTC trong các trường học.
Củng cố và mở rộng hệ thống trường, lớp, năng khiếu thể thao, phát triển lực lượng
vận động viên trẻ. Lựa chọn và tập trung nâng cao thành tích một số môn thể thao.
Coi trọng việc giáo dục đạo đức, phong cách thể thao xã hội chủ nghĩa. Cố gắng
đảm bảo các điều kiện về cán bộ, khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất và nhất là về tổ
chức, quản lý cho công tác TDTT” [9].
Thực hiện đường lối đổi mới về TDTT do Đại hội Đảng VI đề ra, Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Chỉ thị 112 – CP ngày 9/5/1989
nhằm mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động TDTT theo tinh thần xã hội hoá,
chuyển một bộ phận hoạt động TDTT sang các tổ chức xã hội, liên đoàn. Đặc
biệt trong Chỉ thị đã nhấn mạnh: “nâng cao thể chất cho học sinh các trường
học, duy trì và phát triển phong trào TDTT trong các lực lượng vũ trang, trong
công nhân, viên chưc và trong nhân dân…” [14]
Trong thời kỳ đổi mới, Nghị quyết TW lần thứ 4 (khoá VII) xác định
“Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng” và con người Việt
Nam phải là “Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” càng đòi hỏi TDTT với nhận thức mới
mang tính thời đại. Vì vậy, đồng chí Đỗ Mười khi là Tổng Bí thư Ban chấp hành
6
TW Đảng đã nói “Phát triển TDTT được coi là biện pháp hàng đầu để tăng
cường sức khoẻ, nâng cao khả năng chống đỡ bệnh tật của con người…”.[9]
Xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng đối với sự nghiệp TDTT việc
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý TDTT là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng. Nhà nước có nhiệm vụ chăm lo phát triển TDTT. Thủ tướng
Võ Văn Kiệt đã nói rõ trong bức thư gửi ngành TDTT năm 1992 trong dịp kỷ
niệm “Ngày thể thao Việt Nam”: “TDTT là lĩnh vực liên quan chặt chẽ đến việc
nâng cao thể lực toàn dân, phát huy bản sắc truyền thống dân tộc, góp phần lành
mạnh hoá xã hội, xây dựng kinh tế đất nước và giao lưu quốc tế.”
Khi phân tích về các lợi thế và nguồn nhân lực của đất nước. Đại hội lần
thứ VII của Đảng đã xác định: “…Nguồn lao động dồi dào và con người Việt
Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, cần có nền tảng văn hoá, giáo
dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ…, đó là nguồn nhân lực
quan trọng nhất”, đồng thời cũng chỉ rõ ràng “Người Việt Nam đang có những
hạn chế về thể lực, kiến thức, tay nghề”. Khắc phục được những nhược điểm đó
thì nguồn nhân lực và nhân tố con người mới thực sự trở thành thế mạnh của đất
nước. Như vậy có thể nói phát triển TDTT để tăng cường sức khoẻ, nâng cao thể
chất của nhân dân là một yêu cầu khách quan, không những đó là chính sách xã
hội mà còn là biện pháp tích cực chuẩn bị và bồi dưỡng con người sẵn sàng lao
động có hiệu quả và tham gia bảo vệ Tổ quốc. [11]
TDTT ngày nay đã và đang ngày càng thu hút được rất nhiều đối tượng
tham gia tập luyện, để thực hiện tốt công tác chỉ đạo các hoạt động rộng rãi
trong cả nước ngày 24/3/1994 Ban Bí thư TW Đảng cộng sản Việt Nam ra Chỉ
thị số 36/CTTW về công tác TDTT trong giai đoạn mới, đề cập một hệ thống
các quan điểm của Đảng về TDTT, các mục tiêu và nội dung chỉ đạo phát triển
TDTT có ý nghĩa toàn diện và lâu dài với một số nội dung cơ bản sau:
“…Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển
kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát triển nhân tố con
người; công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo
7
dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh; làm phong phú đời sống văn hoá,
tinh thần của nội dung; nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến
đấu của các lực lượng vũ trang…” [1].
Chỉ thị đã nêu nhiệm vụ cơ bản của ngành TDTT:
“…Thực hiện GDTC trong tất cả các hệ thống trường học, làm cho việc
tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên,
thanh niên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, cán bộ công nhân viên chức và một
bộ phận nhân dân…” [1]
Để quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị 36-CTTW, Ban khoa giáo TW đã có
công văn hướng dẫn (số 222-KG/TW) tiến hành một số công việc sau:
“…Hình thành hệ thống phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng thể thao
“câu lạc bộ thể thao lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng; trường lớp năng khiếu thể
thao…” hoàn thiện hệ thống thi đấu nâng cao chất lượng Hội khoẻ Phù Đổng,
Đại hội TDTT các cấp, các địa phương…” [1]
“…Củng cố tổ chức TDTT, đặc biệt hình thành các tổ chức xã hội về
TDTT (các hội, liên đoàn, CLB, hội động TDTT…)” [1]
Trong phần phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 1993-2000 của văn kiện Đại hội còn đề ra chỉ tiêu về công tác TDTT là:
“…đạt 8 – 10% dân số tập luyện TDTT thường xuyên, 50% trường học các cấp
thực hiện GDTC có nề nếp, hình thành hệ thống đào tạo tài năng quốc gia, nâng
cao thành tích các môn thể thao. Xây dựng quy hoạch và xúc tiến đầu tư phát
triển các cơ sở vật chất về TDTT cho các trường học và các địa bàn dân cư. Xây
dựng các trung tâm thể thao quốc gia. Tăng cường đào tạo cán bộ và nghiên cứu
khoa học của ngành TDTT” [1]
Trong cuộc họp lãnh đạo ngành Giáo dục - Đạo tạo và TDTT về công tác
TDTT Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã đặt ra yêu cầu “…Sự nghiệp TDTT
phải đảm bảo phục vụ nâng cao đời sống tinh thần, sức khoẻ của nhân dân, góp
phần tạo nên sức mạnh về thể lực và trí tuệ của dân tộc…” Phó Thủ tướng còn
nêu rõ nhiệm vụ của ngành TDTT là “…TDTT là một yếu tố tích cực tăng
8
cường khối đại đoàn kết toàn dân cũng như tiếp tục nêu cao và khẳng định vị thế
Việt Nam trong xu thế mở rộng giao lưu, hợp tác quan hệ Quốc tế…”
Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng – Nhà nước đối với công tác TDTT nói
chung và GDTC đối với học sinh, sinh viên nói riêng là một chủ trương thống
nhất nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho Đất nước phục vụ sự nghiệp xây dựng
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi hoàn chỉnh pháp luật
về TDTT, Thường vụ Quốc hội đã xem xét quyết định ban hành pháp lệnh
TDTT.
Tại pháp lệnh TDTT số 28/200/PL-UBTVQH10 ngày 9/10/2000 điều 14 đã
nêu rõ:
“-Thể dục, thể thao trường học bao gồm giáo dục thể chất và hoạt động
thể dục, thể thao ngoại khoá cho người học.
- Giáo dục thể chất cho người học là chế độ giáo dục bắt buộc nhằm tăng
cường sức khoẻ, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học.
- Nhà nước khuyến khích thể thao ngoại khoá trong nhà trường.”
Ngày 26/3/2002 Uỷ ban TDTT đã phát động phong trào “Toàn dân tập
luyện TDTT theo gương Bác Hồ vĩ đại” trong cả nước. Lễ phát động luyện tập
TDTT cũng lần lượt được tổ chức trong cả nước trên 61 tỉnh thành và đã được
kết quả đáng kể.
Theo số liệu thống kê năm 2001 cả nước đã có 14,8% dân số tập luyện
TDTT thường xuyên, có 79,2% số trường học thực hiện chương trình GDTC, có
7 -8% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao, có khoảng 13.000 câu lạc bộ
TDTT. Cuộc vận động tập luyện TDTT đã tạo nên một quy mô mới trong TDTT
quần chúng và cả nước, sự kết hợp các hoạt động văn hoá TDTT ngày càng
được thể hiện rõ rệt ở các cơ sở trên địa bàn cả nước.
Một trong những yêu cầu tiếp tục đổi mới công tác phát triển TDTT quần
chúng được Ban Bí thư đề ra “…Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá TDTT, đổi mới
cơ bản các hình thức và biện pháp quản lý Nhà nước về TDTT, chuyển giao
9
phần lớn việc điều hành các hoạt động TDTT cho các tổ chức xã hội về TDTT,
tạo cơ sở phát triển về kinh tế TDTT.” [1]
Như trên đã đề cập quan điểm, đường lối phát triển TDTT của Đảng và
Nhà nước ta luôn luôn nhất quán nhằm tăng cường sức khoẻ, phát triển thể chất,
bồi dưỡng nhân cách đạo đức và xây dựng đời sống văn hoá cho nhân dân để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tất cả các nghị quyết và Chỉ thị của Đảng khi đề
cập đến TDTT bao giờ cũng nhấn mạnh vấn đề GDTC cho học sinh, sinh viên,
với yêu cầu ngày càng cao về phát triển thể chất góp phần đào tạo toàn diện cho
đội ngũ cán bộ khoa học tương lai.
GDTC trong trường học là mặt quan trọng nhằm đào tạo, bồi dưỡng thế
hệ tương lai của đất nước, cung cấp nguồn nhân lực có sức khoẻ, học vấn và đạo
đức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cung cấp tài năng thể
thao cho Quốc gia.
Bởi vậy ngay trong những năm xây dựng miền Bắc XHCN vấn đề GDTC
cho học sinh, sinh viên đã được Đảng ta chính thức đưa vào nghị quyết TW8
khoá III năm 1961: “Bắt đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn thể thao cần
thiết vào chương trình học tập của các trường phổ thông, Chuyên nghiệp và Đại
học”. Trong giai đoạn này việc GDTC và vệ sinh học đường được gắn kết với
phong trào hai tốt “học tốt, dạy tốt”, phong trào Thể dục vệ sinh yêu nước trong
các trường học phát triển mạnh mẽ.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Đảng đã ban hành chỉ
thị 221-CT/TW ngày 17/06/1975 về “Công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày
hoàn toàn giải phóng”. Lúc này phong trào TDTT trong các trường học đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trên cả nước. Công tác TDTT đã được
học sinh, sinh viên hưởng ứng và tham gia sôi nổi, nhiều hoạt động thi đấu thể
thao được tổ chức trong trường học các cấp.
Nhà nước đã quan tâm đặc biệt đến vấn đề quan hệ hợp tác Quốc tế về
TDTT đối với sinh viên nên từ năm 1982 Chính phủ đã cho phép thành lập Hội
thể thao Đại học và chuyên nghiệp Việt Nam, từ đó hàng năm nhiều đoàn thể
10
thao của sinh viên đã tham gia các giải thể thao sinh viên Quốc tế, góp phần mở
rộng quan hệ Quốc tế của các trường Đại học chuyên nghiệp, hội thể thao Đại
học chuyên nghiệp Việt Nam đã phát triển nhanh chóng trong nhiều trường Đại
học và giữ vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức, luyện TDTT để tăng cường
sức khoẻ, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh trong học đường, góp
phần bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ vận động viên trong các trường Đại học, Cao
đẳng, Chuyên nghiệp.
Năm 1993 TW Đảng đã ban hành Nghị quyết về cải cách giáo dục, trong
đó nhấn mạnh vấn đề đào tạo học sinh, sinh viên có kiến thức, trí tuệ và thể lực
cường tráng chuẩn bị hành trang cho nguồn lực của đất nước.
Tại Chỉ thị 36CT/TW ngày 24/3/1994 Ban chấp hành Trung ương Đảng
đã nhận định “Hiện quả giáo dục thể chất trong trường học và trong các lực
lượng vũ trang còn thấp” vì vậy chỉ thị đã đề ra bốn quan điểm cơ bản đối với
TDTT:
- Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển
kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng nâng cao sức khoẻ, thể
lực; giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh; làm phong phú đời sống
văn hoá tinh thần của nhân dân; nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến
đấu của các lực lượng vũ trang.
- Phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó
ngành TDTT giữ vai trò nòng cốt. Xã hội hoá tổ chức hoạt động TDTT dưới sự
quản lý thống nhất của Nhà nước. [1]
Trong những năm 1995 – 1996 Chính phủ rất quan tâm đầu tư cho Giáo
dục – Đào tạo, coi Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong hoạt động TDTT
Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 133/TTg (năm 1995) và Chỉ thị 274/TTg (năm
1996) về quy hoạch phát triển sự nghiệp TDTT và quy hoạch đất dành cho hoạt
động TDTT, trong đó nhấn mạnh cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, sân bãi,
nhà tập thể thao cho các trường Đại học, Cao đẳng và chuyên nghiệp. Thực hiện
11
chủ trương này hiện nay hầu hết cơ sở vật chất phục vụ cho việc học tập GDTC
và hoạt động TDTT của các trường Đại học, Cao đẳng và chuyên nghiệp được
cải tạo, nâng cao, trang bị mới khang trang tạo điều kiện thuận lợi hoạt động
GDTC và TDTT phát triển. [15]
Qua nghiên cứu đặc điểm và yêu cầu đào tạo chuyên môn cho thấy: Đối
với giáo dục Đại học, nhà trường phải có biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo
nâng cao chất lượng GDTC cho sinh viên, tổ chức quá trình đào tạo hợp lý có
hiệu quả với việc sử dụng các hình thức hoạt động thể thao ngoại khoá. Điều đó
góp phần nâng cao tính tích cực, đưa hoạt động của sinh viên trở thành nề nếp,
thường xuyên để giúp cho các em khả năng tự rèn luyện, nâng cao sức khoẻ,
phát triển được tốt các năng lực tố chất vận động. Sinh viên Đại học ở các
chuyên ngành khoa học, kỹ thuật, xã hội khác nhau, với đặc điểm nghề nghiệp
chuyên môn đa dạng, bởi vậy mức độ lao động trí óc của sinh viên không giống
nhau. Xu hướng học tập đa ngành cả ngoại ngữ, tin học và nhiều lĩnh vực mới
để tự củng cố và trang bị cho mình hành trang kiến thức ngày càng phổ biến
trong sinh viên đã tạo ra sự quá tải trong lao động trí óc, sự mất cân đối trong
đời sống sinh hoạt của sinh viên. Mặt khác, thời gian học trên lớp (các môn
khoa học, xã hội…) chiếm từ 4 đến 6 giờ, thời gian học ở nhà (tự túc) trung bình
từ 2 đến 3 giờ mỗi ngày, đặc biệt vào thời gian ôn thi cuối kỳ đỏi hỏi thời gian
đầu tư vào vấn đề học tập tăng hơn. Nếu sức khoẻ của sinh viên không được duy
trì tốt thì tất yếu sẽ dẫn đến sự giảm sút trí lực và ảnh hưởng đến kết quả học
tập. Sự mệt mỏi quá mức chủ yếu do quá trình hoạt động liên tục căng thẳng của
bộ não trong thời gian dài ảnh hưởng xấu đến chất lượng học tập, sức khoẻ và
quá trình phát triển thể chất của sinh viên. Rõ ràng vấn đề cải tiến việc giảng dạy
môn học GDTC và hoạt động TDTT trong các trường Đại học, Cao đẳng là một
yêu cầu cấp bách.
Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 36/CT-TW đối với công tác
GDTC trong nhà trường các cấp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có thông tư số
12
11/TT-GD-ĐT trong phần: “Nội dung và biện pháp của công tác TDTT trong
giai đoạn mới” đã chỉ rõ:
“…Nghiên cứu xây dựng điểm tiến tới phát triển thành hệ thống các CLB,
trung tâm TDTT của học sinh, sinh viên và của địa phương mình…”[5]
Ngay sau khi Tổng cục TDTT được thành lập lại (7/1992) vấn đề GDTC
cho sinh viên được hai ngành TDTT và GD-ĐT quan tâm đặc biệt. Trong Thông
tư liên bộ Giáo dục và Đào tạo và Tổng cục TDTT số 04/93/GD-ĐT/TDTT về
việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng GDTC học sinh sinh viên trong những
năm 1993-1996 đã đặt ra:
Để triển khai Thông tư liên Bộ nói trên Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến
hành một số nội dung trọng tâm dưới đây:
- Từng bước đầu tư và đào tạo bổ sung giáo viên TDTT cho các truờng
Đại học.
- Đầu tư cải tạo sân bãi, xây dựng mới nhiều công trình TDTT tại các
trường Đại học.
- Tăng cường tổ chức các giải thể thao cho sinh viên của các trường Đại
học hàng năm.
- Gia tăng kinh phí cho hoạt động GDTC và thể thao.
- Kiện toàn và phát triển Hội thể thao Đại học, phát triển thêm cơ sở Hội
tại các trường học.
- Tổ chức đào tạo, tập huấn đội tuyển của sinh viên Việt Nam dự thi các
giải thể thao với sinh viên Quốc tế.
Bộ Giáo dục & Đào tạo và Tổng cục TDTT nay là Bộ văn hoá thông tin
Thể thao và Du lịch đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ để thống nhất của chủ
trương, giải pháp phát triển TDTT, nâng cao GĐTC trong các trường Đại học.
Trong bài phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị tư vấn về
các vấn đề giáo dục – đào tạo năm 1998 có đoạn: “Ngành Giáo dục - Đạo tạo
cần coi trọng chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng việc “dạy làm người”, bồi
dưỡng nhân cách cho học sinh, sinh viên. Thủ tướng lưu ý cần quan tâm hơn
13
nữa đến việc GDTC bởi kết quả điều tra cho thấy tầm vóc, thể lực của trẻ em
Việt Nam từ 1 đến 10 tuổi không thua kém các nước Thái Lan, Nhật Bản,…
nhưng từ 11 đến 17 tuổi thì chiều cao của trẻ em Việt Nam lại thấp so với trẻ em
các nước khác 5cm, thể lực kém hơn. Cần tiếp thu kinh nghiệm của Nhật Bản
coi GDTC là vấn đề quốc gia liên tục trong 10 đến 20 năm nhằm tạo ra sự thay
đổi rõ rệt…”
Khi đất nước bước vào thế kỷ 21, tại Chỉ thị 17/CT/TW ngày 23/10/2002
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã tiếp tục yêu cầu Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục
và Đào tạo tăng cường công tác GDTC cho sinh viên trước yêu cầu mới của
công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Triển khai và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng – Nhà nước về
nâng cao chất lượng GDTC cho sinh viên các trường Đại học, trong những năm
gần đây các trường Đại học đã có nhiều chuyển biến tích cực, cụ thể là:
- Cơ sở vật chất, sân bãi nhà tập của hầu hết các trường Đại học được gia
tăng. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo hầu hết các trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ cho đến các trường
thuộc các chuyên ngành như Thuỷ sản, Nông nghiệp, Sư phạm, Công đoàn,…
đều được xây dựng sân bãi, nhà tập thể thao.
- Nghiên cứu cải tiến tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho sinh viên các
trường Đại học.
1.2. Xã hội hoá sự nghiệp TDTT
TDTT là một bộ phận không thể thiếu trong nền văn hoá dân tộc cũng
như nền văn minh của nhân loại. Trình độ thành tích thể thao là một trong những
dấu hiệu thể hiện trình độ văn hoá và năng lực sáng tạo của dân tộc, là phương
tiện để giao lưu văn hoá, mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Các hoạt động TDTT quần chúng cũng như các phong trào,
các giải thi đấu TDTT ngày càng trở thành nhu cầu cao trong đời sống xã hội
của mỗi nguời dân, mỗi tổ chức. Các hoạt động TDTT không chỉ là một hình
thức nghỉ ngơi thư giãn, giải trí mà trước hết nhằm nâng cao sức khoẻ làm giảm
14
stress đồng thời là cơ hội tăng cường sự đoàn kết hiểu biết lẫn nhau giữa các dân
tộc.
Ở nước phát triển sự nghiệp TDTT được coi là một chính sách xã hội của
nhà nước. Vai trò quan trọng của Nhà nước trong lĩnh vực này không có nghĩa là
Nhà nước hoàn toàn bao cấp và điều hành hoạt động mà Nhà nước phải định
hướng bằng những chính sách và luật pháp đảm bảo những điều kiện cơ bản cho
sự phát triển TDTT (như cán bộ, cơ sở vật chất, KHKT…) thực hiện sự kiểm
soát và thống nhất quản lý công tác này ở các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội.
Xây dựng các tổ chức xã hội là một nội dung quan trọng để thể hiện xã
hội hoá công tác TDTT. Một giải pháp có ý nghĩa chiến lược để phát triển nền
TDTT nước ta hiện nay là xã hội hoá. Tổ chức xã hội hoá một cách đa dạng mới
có khả năng tuyên truyền thu hút đông đảo quần chúng tham gia hoạt động
TDTT, mới tổ chức và điều hành được hoạt động TDTT muôn hình muôn vẻ ở
các cấp cơ sở, mới phát huy được năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng và
lôi cuốn các tổ chức kinh tế xã hội, tham gia điều hành các hoạt động này, thực
hiện dân chủ hoá trong quản lý TDTT. Mặt khác bằng cách đưa quần chúng vào
tổ chức thì mới thực hiện được sự lãnh đạo của Đảng, sự kiểm soát và quản lý
của Nhà nước, ngăn chặn tính tự phát và khuynh hướng lệch lạc trong các phong
trào TDTT.
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá TDTT
Quan điểm cơ bản về xã hội hoá của Đảng và Nhà nước ta là “Sự nghiệp
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Trong lĩnh vực TDTT cụm từ “Xã hội
hoá” dùng trong tổ chức và hoạt động TDTT được nêu trong Chỉ thị 36/TW
ngày 24/3/1994: “Xã hội hoá tổ chức hoạt động dưới sự quản lý thống nhất của
Nhà nước”.
Trong dịp tổng kết ba năm thực hiện Chỉ thị 36/CT-TW, năm 1998 đồng
chí Nguyễn Phú Trọng - Uỷ viên Bộ Chính trị đã khẳng định: “Nói một cách
chung nhất, xã hội hoá TDTT là coi TDTT là sự nghiệp của nhân dân, của toàn
xã hội, nhân dân là người sáng tạo, là người thực hiện và thưởng thức các thành
15
quả của hoạt động TDTT. Phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp Uỷ Đảng,
cơ quan chính quyền, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội, là nhiệm vụ của
toàn xã hội trong đó ngành TDTT giữ vai trò nòng cốt”.
Năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định về chính sách khuyến khích
xã hội hoá với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục – văn hoá – y tế. TDTT,
nêu rõ: “Xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, thể thao và vận động và tổ
chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển của sự
nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá,
thể thao trong sự nghiệp phát triển về vật chất và tinh thần của nhân dân” (Nghị
định 73/1999 NĐ-CP ngày 19/8/1999) và gần đây Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết 05/2005 ngày 8/4/2005 “Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá trong giáo dục, văn
hoá, y tế, TDTT” Uỷ ban TDTT đã quy hoạch phát triển xã hội hoá TDTT từ
năm 2000 đến năm 2010 và ngành TDTT đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn
về thực hiện chủ trương xã hội hoá trong lĩnh vực GD-ĐT, trong đó có các hoạt
động của Hội Thể thao Đại học và chuyên nghiệp Việt Nam.
Chủ trương xã hội hoá, vấn đề thành lập các tổ chức xã hội và câu lạc bộ
TDTT có các thành phần xã hội tham gia tổ chức, điều hành là vô cùng quan
trọng.
Bởi vậy trong bất kỳ điều kiện nào cũng cần chủ động phát triển các hoạt
động TDTT trong nhân dân và hướng mọi hoạt động TDTT vào những mục tiêu
chủ yếu là nâng cao sức khoẻ, xây dựng con người mới, làm phong phú đời sống
văn hoá, tinh thần của nội dung góp phần mở rộng giao lưu Quốc tế, phục vụ
tích cực những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng của đất nước.
Trong tình hình hiện nay Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát
triển của sự nghiệp TDTT. Từng bước xây dựng phát triển các tổ chức xã hội để
thực hiện xã hội hoá TDTT. Các tổ chức xã hội về TDTT được hiểu không chỉ là
các tổ chức của quần chúng mà còn là các tổ chức liên hiệp, các hội đồng. Đặc
trưng chủ yếu của các tổ chức xã hội là tính tự nguyện, tự quản, hoạt động trong
khuôn khổ luật pháp của Nhà nước và theo những nguyên tắc, quy chế, thể lệ
16
hoàn toàn mang tính chất quản lý xã hội. Việc xây dựng và phát triển các tổ
chức xã hội về TDTT cần phải tiến hành từng bước tuỳ thuộc vào trình độ phát
triển của phong trào, xây dựng từ nhỏ đến lớn và hoạt động thực tế, với những
hình thức và quy mô đa dạng, tiến hành các hoạt động, hoàn thiện các quy chế,
thể lệ của một tổ chức, tạo ra các nguồn tài chính. Các tổ chức xã hội về TDTT
có những hình thức và quy mô đa dạng. Nhưng ngay từ đầu phải có tính thống
nhất toàn quốc, phải chịu sự quản lý của Nhà nước, phải kết hợp chặt chẽ với
các tổ chức TDTT của Nhà nước. Đề phòng và chống lại khuynh hướng buông
lỏng, phân tán, tình trạng chồng chéo, đối lập giữa các tổ chức.
Đi đôi với việc xây dựng và hoàn thiện các tổ chức Nhà nước và tổ chức
xã hội, cần đổi mới và hoàn thiện các hình thức, phương pháp quản lý TDTT và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
Bổ sung, hoàn thiện các hình thức và biện pháp hành chính Nhà nước trước
hết là hình thành các hệ thống, văn bản chính sách, quy chế, luật pháp của Nhà
nước đối với công tác TDTT ở các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội. Chuyển giao
việc ban hành các luật lệ chuyên môn cho các tổ chức xã hội.
Chủ động nghiên cứu áp dụng các đòn bẩy kinh tế và cơ chế thị trường
thích hợp trong một số hoạt động TDTT đảm bảo sự quản lý và kiểm soát của
Nhà nước, không để tạo ra hỗn loạn tự phát, mở rộng được tính quần chúng, tính
xã hội và đảm bảo thực hiện được những mục tiêu cơ bản của TDTT.
Xây dựng câu lạc bộ TDTT ở các trường học để từng bước hình thành các
cơ sở TDTT có tổ chức hoạt động theo phương thức độc lập, tự chủ, có sự quản
lý của cơ quan Nhà nước là một vấn đề cấp bách hiện nay. Chuyển dần việc tổ
chức dịch vụ TDTT công ích sang dịch vụ có hạch toán để nâng cao hiệu quả
dịch vụ TDTT.
Xã hội hoá TDTT là huy động tính tự giác tham gia các hoạt động TDTT
tại cơ sở của các thành phần, các đoàn thể, các thầy, các cô giáo. Hội sinh viên
làm cho TDTT trong các trường Đại học trở thành trách nhiệm chung của nhà
17
trường. Trên cơ sở đó đóng góp trí lực, vật lực, tài lực cho hoạt động TDTT
ngày càng đa dạng phong phú đem lại lợi ích thiết thực cho nhà trường.
Tổ chức các đội thể thao đại diện cho phong trào TDTT của các trường
Đại học – Cao đẳng có sự đầu tư chăm lo của nhà trường mà còn đẩy mạnh sự
tham gia của các thành phần xã hội vào việc tổ chức các giải thể thao nội bộ nhà
trường và toàn ngành GD-ĐT.
Tiến hành xã hội hoá TDTT có quy hoạch, có trọng tâm, trọng điểm phù
hợp với khả năng và điều kiện tổ chức quản lý của cơ sở.
1.2.2. Xã hội hoá hoạt động TDTT trong ngành giáo dục và đào tạo
Chúng ta đã biết TDTT quần chúng là hoạt động tập luyện và thi đấu của
các tầng lớp nhân dân, với mục đích rèn luyện thể lực, tăng cường sức khoẻ. Đối
tượng của TDTT quần chúng là của tất cả mọi người mà sản phẩm của TDTT
quần chúng là: Sức khoẻ - thể chất – tinh thần…góp phần làm tăng một cách
gián tiếp sản phẩm vật chất, tinh thần và ổn định xã hội.
Trong đó công tác GDTC và hoạt động TDTT trong ngành Giáo dục và
Đào tạo bao gồm hai hệ thống:
- Hệ thống tập luyện bắt buộc: hệ thống này được thực hiện trong các
trường học và lực lượng vũ trang. Hệ thống này đòi hỏi Nhà nước phải có sự
đầu tư về cơ sở vật chất, cán bộ giáo viên và phải có nội dung, chương trình
thống nhất và mang tính hệ thống cao phù hợp cho từng đối tượng, lứa tuổi.
- Công tác GDTC trong trường học là quy chế bắt buộc và Nhà nước có
trách nhiệm chỉ đạo, quản lý và đầu tư các điều kiện đảm bảo như giáo viên, sân
bãi, nhà tập, kinh phí. Tuy nhiên, hoạt động TDTT mang tính chất xã hội rộng
lớn cho nên trong hệ thống giáo dục – đào tạo cần chủ trương xã hội hoá trong
các hoạt động TDTT. Thực hiện chủ trương này các trường Đại học, Cao đẳng
vừa nâng cao chất lượng việc giảng dạy chính khoá bao giờ cũng coi trọng công
tác xã hội hoá, trọng tâm là xây dựng các chi hội thể thao tự nguyện và các Câu
lạc bộ TDTT trong ngành, trường.
18
Hội Thể thao Đại học và Chuyên nghiệp – hình thức tổ chức xã hội thích
hợp trong ngành Giáo dục – Đào tạo theo tinh thần chủ trương xã hội.
Hội thể thao đại học và chuyên nghiệp Việt Nam tiền thân là Hội thể thao
Đại học Việt Nam được thành lập năm 1982 (Quyết định số 230/HĐBT ngày
6/11/1982) là tổ chức xã hội của TDTT trong hệ thống giáo dục Đại học – Cao
đẳng và Trung học chuyên nghiệp, nhằm động viên, cổ vũ và lôi cuốn đông đảo
cán bộ, học sinh, sinh viên tham gia các hoạt động TDTT để nâng cao chất
lượng GDTC, phát triển phong trào TDTT, xây dựng đời sống văn hoá, tinh thần
trong các nhà trường.
Từ sau khi thành lập, hoạt động của Hội đã được ủng hộ đông đảo của các
thầy cô giáo, cán bộ và học sinh, sinh viên các trường Đại học – Cao đẳng và
chuyên nghiệp. Hội đã tích cực triển khai các chủ trương, chính sách phát triển
TDTT của Bộ GD-ĐT trong toàn ngành, tổ chức liên tục các giải thể thao của
sinh viên trên toàn quốc và thành lập các đội thể thao sinh viên tham gia các giải
thi đấu Quốc tế.
Tổ chức Hội ngày càng phát triển, giai đoạn 1992-1996 đã có 5 hội cấp
tỉnh, thành phố, khu vực với 56 chi hội. Năm 2001 đã phát triển lên 8 Hội cấp
khu vực và 117 các trường có chi hội thể thao cơ sở.
Đến nay trong ngành GD-ĐT đã có 12 đến 15 môn thể thao được tổ chức
thi đấu định kỳ từ cấp khu vực đến toàn quốc.
Trong báo cáo Ban chấp hành Trung ương Hội thể thao Đại học và
Chuyên nghiệp Việt Nam lần thứ V (nhiệm kỳ 2002-2007) đã tổng kết hoạt động
TDTT của hội (nhiệm kỳ 1997-2002) đã nêu:
“…Câu lạc bộ TDTT của các trường trong những năm gần đây đã có
chiều hướng phát triển tốt. Có 80% các trường Đại học và Cao đẳng, Trung học
chuyên nghiệp - dạy nghề đã tổ chức Đại hội TDTT thường kỳ từ 1 đến 2 năm
với nội dung bao gồm nhiều môn…Nhiều trường đã tuỳ theo điều kiện cụ thể
chủ động dành quỹ - đất, kinh phí để xây dựng, duy trì các hoạt động của câu lạc
19
bộ về một số môn thể thao thành lập và tổ chức cho một số đội tuyển tham gia
các giải của địa phương, của khu vực trường và toàn ngành.”
Cũng tại Đại hội này trong báo cáo tại phần II (mục tiêu hoạt động đến
năm 2007 và biện pháp thực hiện). Trong phần công tác chuyên môn hội đã xác
định mục tiêu chung của TDTT là:
“Góp phần nâng cao chất lượng công tác GDTC và thể thao, phát triển hài
hoà về thể chất, thể lực, bồi dưỡng năng lực và kỹ năng vận động nhằm tăng
cường hiệu quả học tập, lao động và sẵn sàng bảo vệ tổ quốc của cán bộ, học
sinh, sinh viên trong các trường Đại học và chuyên nghiệp.
Xây dựng nếp sống tập luyện TDTT một cách tự giác trong học sinh, sinh
viên nhằm nâng cao sức khoẻ, giảm tỷ lệ bệnh tật phát triển các tố chất thể lực
theo yêu cầu của tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi Nhà nước quy định”
[2]
Và Hội đã đề ra một số chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2007 là:
“Vận động, tổ chức hướng dẫn và kiểm tra định kỳ hàng năm, phấn đấu
100% đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể (trong đó 80-85% sinh viên đại học đạt
tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cấp I)”
“…Phấn đấu đến năm 2007 đưa tổng số trường, cơ quan đạt tiêu chuẩn
đơn vị tiên tiến về TDTT lên 90% (trong đó 50% đạt đơn vị tiên tiến xuất sắc)
và 60 – 70% các trường đạt trường có hoạt động TDTT nề nếp.”
“Các trường Đại học, Cao đẳng. Hiện nay có 90% số trường, phấn đấu
đến năm 2006 có 40% trường có câu lạc bộ TDTT. Đưa số sinh viên tham gia
lên từ 30% lên 50%.”
“Các trường trung học chuyên nghiệp - dạy nghề. Hiện nay 31% số
trường phấn đấu đến 2006, có 60% trường học có câu lạc bộ TDTT. Đưa số học
sinh, sinh viên tham gia hoạt động từ 30% lên 50%.”
“Tiếp tục duy trì và phát triển phong trào TDTT quần chúng về một số
môn thể thao phù hợp với điều kiện trường học”
20
1.2.3. Tổ chức câu lạc bộ TDTT
Nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn và quy hoạch phát triển TDTT ở nước
ta cũng như các nước trên thế giới trước đây cũng như hiện nay danh từ và khái
niệm câu lạc bộ đã trở thành tiềm thức, một khái niệm thông thường của xã hội.
Các hình thức tổ chức câu lạc bộ đã phát triển rộng rãi khắp nơi, muôn hình
muôn vẻ, trong mọi lĩnh vực và hoạt động của xã hội.
Câu lạc bộ là tổ chức xã hội gồm một tập hợp người nhất định trên cơ sở
tự nguyện, tự giác và ham thích về một mặt hoạt động nào đó. Mặt hoạt động
này trước hết phục vụ trực tiếp về đời sống tinh thần cũng như vật chất cho cá
nhân người tham gia đồng thời phục vụ cho toàn xã hội. Nguyên tắc hoạt động
của Câu lạc bộ là tham gia tự nguyện, hoạt động trong tổ chức (hoặc nghiệp dư,
hoặc mang tính chuyên nghiệp). Mọi người đến Câu lạc bộ không chuyên
nghiệp nhằm mục đích là để trao đổi, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ
chuyên môn nghệ thuật nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh thần vật chất, nghỉ
ngơi giải trí sau giờ làm việc căng thẳng trong xã hội. Có câu lạc bộ tự phát do
một số người đứng ra tổ chức, có những câu lạc bộ được Nhà nước bảo trợ
khuyến khích nó hoạt động theo sự quản lý của Nhà nước. Trong chế độ xã hội
chủ nghĩa Nhà nước khuyến khích, bảo trợ các câu lạc bộ hoạt động để phục vụ
lợi ích của đông đảo quần chúng. Những người ham thích tập luyện TDTT tham
gia trong tổ chức câu lạc bộ gọi là câu lạc bộ TDTT.
Vậy câu lạc bộ TDTT quần chúng là một tổ chức hoạt động xã hội về
TDTT. Mọi người (không phân biệt tuổi tác, giới tính, trình độ, nghề nghiệp…)
đều có thể tham gia với nhu cầu và mục đích riêng của mình. Trong sinh hoạt
câu lạc bộ TDTT quần chúng mọi người được lựa chọn các môn TDTT để tập
luyện. Được câu lạc bộ tổ chức, hướng dẫn hoạt động (tập luyện) theo nguyên
tắc (quy định, nội quy) chung mà câu lạc bộ đã đề ra.
Từ khi Chính phủ ban hành nghị định về chính sách khuyến khích xã hội
hoá thì các loại hình câu lạc bộ TDTT của nhiều ngành, nhiều cơ quan đoàn thể,
21
các doanh nghiệp kể cả tư nhân phát triển mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của
uỷ ban TDTT năm 2002 cả nước có hơn 13 ngàn câu lạc bộ TDTT các loại ở cơ
sở. Pháp lệnh TDTT tại Điều 34 ban hành năm 2000 xác định câu lạc bộ TDTT
được thành lập bao gồm ba điều kiện:
- Có cán bộ, nhân viên chuyên môn về TDTT
- Có cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết
- Có phương án hoạt động được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
Trong những năm gần đây, trong hệ thống các trường Đại học Cao đẳng
đã thành lập những câu lạc bộ TDTT là cơ sở TDTT do Chi hội thể thao hoặc
Công đoàn nhà trường tổ chức. Theo số liệu thống kê của Hội thể thao Đại học
và Chuyên nghiệp Việt Nam nhiệm kỳ 2001-2005 đã có trên 60 câu lạc bộ
TDTT ở cơ sở do các trường quản lý chỉ đạo, Câu lạc bộ TDTT thực sự là nơi tổ
chức các hoạt động TDTT của Giáo viên, sinh viên có hiệu quả. Một số thạc sĩ
là giáo viên TDTT của các trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Huế và thành phố
Hồ Chí Minh đã có công trình nghiên cứu về tổ chức Câu lạc bộ TDTT trong
các trường Đại học, cao đẳng. Các luận văn khoa học và các báo cáo về công tác
TDTT của nhiều trường Đại học, Cao đẳng đã cho thấy vai trò tác dụng của câu
lạc bộ TDTT đối với phong trào TDTT và tạo ra môi trường TDTT sôi nổi trong
nhà trường.
1.3. Các loại hình hoạt động thể thao ngoại khoá ở các trường Cao đẳng và
Đại học.
Hoạt động ngoại khoá thể thao ở các Trường Cao đẳng và Đại học TDTT
ngày càng được coi trọng bởi hai lý do sau:
+ Thứ nhất là: Ngoại khoá là một hình thức tự đào tạo rất quan trọng để
học sinh ôn tập củng cố, nâng cao các kiến thức đã học được trong giờ chính
khoá.
Đặc biệt trong xu thế nâng cao quá trình tự đào tạo của giáo dục hiện nay
thì hoạt động ngoại khoá lại càng có vị trí quan trọng hơn.
22
+ Thứ hai là: Trong những năm gần đây do đời sống vật chất của nhân
dân nói chung và của sinh viên nói riêng được nâng cao. Do vậy nhu cầu tập
luyện TDTT để giải trí, tăng cường sức khoẻ mọi người. Trong đó có sinh viên
TDTT cũng được nâng cao. Rõ ràng việc tập luyện ngoại khoá của sinh viên
không chỉ còn mang ý nghĩa đơn thuần để phụ đạo, nâng cao trình độ chuyên
môn, mà nó còn là sự thể hiện trình độ xã hội hoá TDTT ở mỗi trường học, một
biện pháp quan trọng được nâng cao thể chất cho sinh viên, để có thể sử dụng
ngoại khoá như một biện pháp quan trọng thúc đẩy sự phát triển thể lực nâng
cao trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ của sinh viên.
1.3.1.Các khái niệm cơ bản:
1.3.1.1. Hoạt động ngoại khoá giáo dục thể chất Scakib BaBaski.
Theo các nhà giáo dục học và lý luận học TDTT nuớc ngoài như: Từ Gia
Kiệt, Dương Vọng Hiếu (TQ), Kely (Mỹ) thì tất cả các hoạt động TDTT của học
sinh, sinh viên có tổ chức hoặc không có tổ chức tiến hành ngoài giờ lên lớp
chính khoá được coi là hoạt động thể thao ngoại khoá. Nó bao gồm 4 hình thức
cơ bản:
Tập luyện ngoại khoá với các bài tập mà giáo viên cho trước được gọi là
bài tập thể dục ngoại khoá, bài tập giúp đỡ sinh viên có thể tạo thành thói quen
tập luyện TDTT. Thầy cô giáo thể dục giúp đỡ sinh viên có thể tạo thành thói
quen tập luyện TDTT tốt đẹp, củng cố và nâng cao tri thức kỹ thuật và kỹ năng
đã học trên lớp mà bố trí một số nhiệm vụ học tập sau khi kết thúc giờ học chính
khoá. Cá biệt cũng bố trí một số bài tập đơn giản để phát triển một số bài tập
phát triển thể lực. Cũng theo nhà khoa học giáo dục học TDTT thì yếu tố cơ bản
đối với hoạt động ngoại khoá này là:
Biện pháp thứ nhất: làm cho sinh viên có thể tiến hành tập luyện một cách
hiệu quả các giờ ngoại khoá, thầy cô cần dạy cho sinh viên phương pháp tập
luyện chính xác cũng như phương pháp bảo hiểm và tự bảo hiểm để tránh xảy ra
các sự cố ngoài ý muốn.
23
Biện pháp thứ hai: các bài tập thể dục ngoại khoá bố trí yêu cầu không
được quá cao, nên xuất phạt từ tình hình thực tế của sinh viên.
Biện pháp thứ ba: cố gắng hết sức tăng cường sự chỉ đạo của người thầy
đối với các bài tập thể dục ngoại khoá của sinh viên, kịp thời phát hiện vấn đề và
giải quyết vấn đề ngoại khoá của sinh viên để tránh rơi vào chủ nghĩa hình thức.
Biện pháp thứ tư: bài tập thể dục ngoại khoá nên kết hợp với việc rèn
luyện TDTT ngoại khoá ở tổ, ở lớp, rèn luyện thể thao ngoại khoá.
1.3.1.2. Khái niệm rèn luyện thể chất ngoại khoá.
Ngoại khoá được khái niệm là một hình thức tập luyện thể chất ngoài giờ
chính khoá để rèn luyện, nâng cao kỹ năng chuyên môn TDTT mình yêu thích,
sinh viên có thể tập luyện và thi đấu các môn thể thao yêu thích. Yêu cầu cơ bản
với hoạt động này là sinh viên phải nắm bắt được trình độ kỹ thuật thể lực của
bản thân mình để khống chế lượng vận động tập luyện. Thứ hai là cần nâng cao
ý thức hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình tập luyện. Thứ ba là cố gắng phát huy vai
trò của cán bộ cốt cán TDTT. Thứ tư là giáo viên cũng nên có vai trò nhất định
trong các hoạt động này.
Cũng theo các nhà Giáo dục TDTT Nga, Trung Quốc, Mỹ thì phụ đạo
TDTT ngoại khoá là sự chỉ đạo của người thầy đối với các hoạt động của sinh
viên, sinh viên tiến hành củng cố và vận dụng các tri thức kỷ luật và kỹ năng
TDTT trong giờ thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ hoặc cá biệt và phụ đạo tập
thể. Nó là phần kéo dài và bổ sung các giờ thể dục. Khi giáo viên tiến hành phụ
đạo ngoại khoá nên chú ý dùng các phương pháp khác nhau đối với các lứa tuổi
khác nhau. Đối với lứa tuổi nhỏ cần có giáo viên hướng dẫn để phù hợp với tâm
lý lứa tuổi. Ở giai đoạn sinh viên Cao đẳng và Đại học có thể thông qua học
sinh, sinh viên hoặc các chi đội ở các lớp, ở các môn thể thao khác nhau, để tổ
chức hoạt động, còn giáo viên tham dự và có chỉ đạo cần thiết. Để làm tốt công
tác chỉ đạo ngoại khoá còn cần phải bồi dưỡng một số cán bộ lớp, để giúp đỡ
giáo viên triển khai công việc, đồng thời còn nên xây dựng một số chế độ cần
thiết bao gồm các quy định tham gia rèn luyện thể thao ngoại khoá, thể dục thể
24
thao giữa giờ, chế độ thi đấu TDTT…Giáo viên dựa vào kế hoạch chung của
công tác TDTT trường học cũng như điều kiện sân bãi, dụng cụ, thời tiết khí hậu
để đặt ra kế hoạch thể dục thể thao ngoại khoá.
1.3.1.3. Khái niệm hoạt động thể thao ngoại khoá
Tên gọi chung các hoạt động TDTT được triển khai ngoài giờ lên lớp
chính khoá của nhà trường là một biện pháp có hiệu quả để củng cố và nâng cao
trí thức kỹ năng đã được học trong giờ thể dục, đồng thời tạo ra thói quen tập
luyện TDTT làm phong phú cuộc sống văn hoá ngoài giờ, rèn luyện ý chí bồi
dưỡng năng lực tổ chức hoạt động.
Thi đấu thể thao trong trường ở các trường Đại học, Cao đẳng có thể dùng
đơn vị lớp, khối. Các trường phổ thông có thể dùng đơn vị lớp khối làm đơn vị
nội dung tổ chức kéo co, nhảy dây, các môn bóng…Mỗi một học kỳ nên sắp xếp
từ 2-3 lần thi đấu.
Huấn luyện đội tuyển các trường cơ sở rèn luyện TDTT của các lớp và
khoá của toàn trường chọn ra một số em có tính chất thể lực tốt để đưa vào đội
tuyển, có kế hoạch huấn luyện ngoài giờ hàng năm, có thể đại diện cho nhà
trường tham gia thi đấu giữa các trường và hội khoẻ Phù Đổng. Đồng thời làm
cho các em trở thành người cán bộ cốt cán của hoạt động TDTT quần chúng của
nhà trường.
1.3.1.4. Huấn luyện thể thao ngoài giờ
Là quá trình giáo dục lợi dụng thời gian ngoài giờ để tiến hành tập luyện
một cách hệ thống cho sinh viên có trình độ kỹ thuật, chiến thuật tương đối tốt
nhằm nâng cao thành tích chuyên môn để tham gia vào các đội tuyển, câu lạc bộ
trong giờ học các cấp.
Nhiệm vụ chủ yếu của nó là:
Thông qua huấn luyện thể lực toàn diện nhằm nâng cao chức năng các hệ
thống các cơ quan, cơ thể, phát triển các tố chất thể lực và tăng cường các tố
chất.
25