Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Nâng cao kết quả học tập môn lịch sử lớp 12, giai đoạn 1919 1930 ở trường THPT như xuân 2 thông qua việc hướng dẫn học sinh tự học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.9 KB, 13 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN LỊCH SỬ LỚP 12, GIAI
ĐOẠN 1919 – 1930 Ở TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN 2 THÔNG QUA
VIỆC HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC

Người thực hiện: Phan Ngọc Thản
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Lịch sử

THANH HOÁ NĂM 2016


MỤC LỤC

1

Mở đầu....................................................................... .........................
1
1. Lí do chọn đề tài.................................................
.........................
2. Mục đích nghiên cứu ......................................... 1
3.
Đối
cứu.........................................
4.
Phương


cứu....................................

tượng

nghiên .........................
1

pháp

nghiên .........................
1
.........................
1

2

Nội dung.................................................................... .........................
1
2.1. Cơ sở lí luận....................................................
.........................
2.2.
Thực
trạng
vấn 1
đề............................................
.........................
2.3. Giải pháp sử dụng........................................... 2
2.4. Hiệu quả thu được........................................... .........................
3
.........................

8

3

Kết luận, kiến nghị................................................... .........................
9

4

Tài liệu tham khảo.................................................... .......................1
1


1. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền giáo dục nước nhà đang từng bước đổi mới mà cốt lõi là lấy học sinh
làm trung tâm. Học sinh chủ động tiếp cận, lĩnh hội tri thức, từ đó hình thành ý
thức học tập suốt đời. Đó là mục tiêu quan trọng của quá trình đổi mới dạy học.
Lịch sử là bộ môn của sự kiện, không gian, thời gian và con người. Kỹ năng
quan trọng khi học lịch sử là phân tích, đánh giá. Điều này chỉ có thể hình thành
nếu học sinh biết cách tự học.
Là một giáo viên giảng dạy lịch sử ở trường THPT Như Xuân 2, tôi luôn
trăn trở trong mỗi tiết dạy, nhưng không phải bài học nào, tiết học nào cũng đem
lại hiệu quả theo ý muốn, đặc biệt là đối với những phần nhiều dung lượng kiến
thức cần có sự kết hợp đa phương pháp giảng dạy. Tôi nhận thấy việc sử dụng
phương pháp hướng dẫn học sinh tự học ở nhà trong môn Lịch sử là rất cần
thiết, giải quyết được những vấn đề đã nêu.
Xuất phát từ thực tế trên, nắm bắt yêu cầu đổi mới phương pháp nhằm nâng
cao hiệu quả, chất lượng môn học và phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: “ Nâng cao kết quả học tập môn

Lịch sử lớp 12, giai đoạn 1919-1930 ở trường THPT Như Xuân 2 thông qua
việc hướng dẫn học sinh tự học ".
Với kinh nghiệm giảng dạy của mình, tôi hy vọng đây là những tìm hiểu
bước đầu đóng góp một phần nhỏ trong việc đổi mới phương pháp Dạy học lịch
sử, nâng cao chất lượng giảng dạy phần lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
2. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất phương pháp hướng dẫn học sinh tự học
môn lịch sử giúp các em có được niềm đam mê lịch sử, hiểu được bức tranh quá
khứ thật chân thực và sinh động, hình thành thói quen “tự học”, “chịu khó tìm
tòi”, đức tính “chia sẻ thông tin, cùng hoạt động”, giúp HS tự tin và nâng cao ý
thức trách nhiệm, từ đó kết quả học tập được nâng cao hơn.
Đề tài góp phần bổ sung và đem lại hiệu quả cao hơn nữa chất lượng dạy - học
môn lịch sử ở trường THPT Như Xuân 2
3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh 12 trường THPT Như Xuân 2
4. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp dạy học điều tra, thực
nghiệm khoa học, phân tích và tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng kĩ xảo, là tự mình
động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ cùng các phẩm chất động cơ,
tình cảm để chiếm lĩnh tri thức biến nó thành sở hữu của chính bản thân người
học. Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm
bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình
huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử
nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học.

1


Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để
khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích

ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. .. Nếu rèn luyện cho
người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những
điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập
sẽ ngày càng được nâng cao.
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, phương pháp hướng dẫn học
sinh tự học môn lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng, giúp học sinh không chỉ nắm
bắt được các sự kiện hiện tượng lịch sử mà còn phát triển tư duy và hoạt động
thực tiễn của học sinh, bồi dưỡng năng lực tự học lịch sử là phương cách tốt
nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập môn lịch sử, giúp cho
học sinh có thể chủ động học tập suốt đời, khẳng định năng lực phẩm chất và để
cống hiến. Chính vì những lẽ đó mà việc hướng dẫn học sinh tự học lịch sử là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc dạy học lịch sử trong trường
THPT Như Xuân 2.
Khái niệm tự học luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự giác.
Kiến thức lịch sử của mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy
hiệu quả thông qua các hoạt động tự giác ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn thiện
thì phải tự thân tiếp nhận tri thức lịch sử từ nhiều nguồn, tự thân rèn luyện các kĩ
năng, tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc.
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, phương pháp hướng dẫn học
sinh tự học môn lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng, là mục tiêu cơ bản của quá
trình dạy học, không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức lịch sử có sẵn,
chỉ cần yêu cầu học sinh ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức
cho học sinh tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính ... của các sự kiện
lịch sử đó. Giúp học sinh không chỉ nắm bắt được tri thức lịch sử mà còn biết
cách tìm đến những tri thức lịch sử ấy và áp dụng nó vào thực tiễn.
Bồi dưỡng năng lực tự học lịch sử là phương cách tốt nhất để tạo ra động
lực mạnh mẽ cho quá trình học tập môn lịch sử, có hứng thú người học mới có
được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá những sự kiện hay hiện
tượng lịch sử. Hứng thú học tập là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của
con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú

với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập môn lịch sử
nói riêng các môn học nói chung.
Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp
tự học trong môn lịch sử, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo
sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học
2.2 Thực trạng vấn đề
Đối với giáo viên:
Mặc dù nhận thức được sự cần thiết của phương pháp tự học nhưng giáo
viên ở đơn vị rất ít khi sử dụng phương pháp này hoặc có sử dụng nhưng không
hướng dẫn chi tiết nên phương pháp tự học chưa thực sự có hiệu quả .

2


Đối với học sinh:
Phần lớn các em rất ngại học lịch sử vì nhiều số liệu lịch sử, không biết
vận dụng so sánh sự kiện và hiện tượng lịch sử, không có khả năng sử dụng khái
niệm lịch sử trong bài học cũng như trong thực tiễn, kỹ năng thực hành bài tập
lịch sử rất kém...
Thực trạng trên đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu các phương pháp hướng
dẫn học sinh tự học môn Lịch sử ở trường THPT Như Xuân 2, giúp giáo viên có
nhận thức đầy đủ, sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khi thực hiện công việc
này để giờ học đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt, tôi mong muốn rèn cho học sinh
khối 12 phương pháp tự học để nâng cao hiệu quả giảng dạy lịch sử trong từng
tiết học, để khơi gợi niềm ham mê lịch sử cho học sinh, giúp học sinh hiểu được
bức tranh quá khứ thật chân thực và sinh động. Và nguồn nhân lực này có khả
năng “làm việc, làm người, cùng chung sống”...
Với cơ sở lí luận và thực tiễn nêu trên, tôi thấy rằng nghiên cứu phương
pháp hướng dẫn học sinh tự học môn Lịch sử ở trường THPT Như Xuân 2 là cần
thiết, tạo ra môi trường học tập sinh động, hứng thú hơn cho các em

2.3.Giải pháp đã sử dụng
2.3.1- Phân loại phương pháp hướng dẫn học sinh tự học môn lịch sử
Trong bộ môn lịch sử các phương pháp tự học không tách rời nhau mà có
quan hệ chặt chẽ hợp thành hệ thống bổ sung hỗ trợ cho nhau. Học sinh phải
nắm được hệ thống các biện pháp này vì sẽ giúp học sinh hiểu các sự kiện lịch
sử đầy đủ, chính xác hơn. Vì vậy, việc phân loại các biện pháp tự học là vô cùng
cần thiết trong việc học lịch sử. Có các cách phân loại như sau:
- Phương pháp tự học trên lớp gồm: Nghe giảng, ghi chép, làm bài tập.
- Phương pháp tự học ngoài lớp gồm: Đọc sách và tài liệu tham khảo, làm
đề cương cho thảo luận nhóm, lớp và ôn tập, làm bài tập thực hành ...
2.3.2- Một số điểm cần chú ý khi hướng dẫn học sinh tự học phần “Lịch sử
Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930”- lớp 12 THPT.
Khi hướng dẫn học sinh tự học trong phần “ Lịch sử Việt Nam từ Năm
1919 đến năm 1930 ”- lớp 12 THPT cần chú ý những điểm sau:
Thứ nhất, nội dung được lựa chọn để hướng dẫn học sinh tự học phải
gắn liền với chương trình, Sách giáo khoa, phù hợp với mục tiêu bài học.
Mỗi một bài học hay mỗi tiểu mục của bài đều có nội dung riêng theo yêu
cầu của chuẩn kiến thức kỹ năng. Do đó, việc hướng dẫn học sinh tự học trong
phần “Lịch sử Việt Nam từ Năm 1919 đến năm 1930”- lớp 12 THPT, về cơ bản
cũng không được thoát ly khỏi nội dung, phạm vi, yêu cầu của chuẩn kiến thức
kỹ năng. Việc hướng dẫn học sinh tự học trong môn Lịch sử ở trường THPT
Như Xuân 2 nhằm thực hiện các chức năng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển
của bộ môn, đòi hỏi học sinh phải có sự hiểu biết, sự hứng thú đối với giờ học
thì mới có thể nắm vững các kiến thức và dựa trên những kiến thức ấy, kết hợp

3


với những tài liệu mà giáo viên cung cấp giúp học sinh hiểu một cách sâu sắc
nội dung bài học.

Thứ hai, việc hướng dẫn học sinh tự học và những vấn đề giáo viên yêu
cầu học sinh tìm hiểu phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, đồng
thời phải đảm bảo kiến thức cơ bản trong thời gian quy định.
Trong một bài học lịch sử có rất nhiều kiến thức nên khi hướng dẫn, giáo
viên không thể yêu cầu cho học sinh làm hết tất cả các nội dung mà phải căn cứ
vào từng chương, bài, mục cụ thể. Cần có sự định hướng cho phù hợp với mục
tiêu, nội dung bài học, tránh ôm đồm, “giao khoán” dẫn đến tình trạng quá tải,
làm hạn chế tác dụng của việc tự học, không phát huy được tính tích cực, sáng
tạo của học sinh.
Đặc biệt, khi hướng dẫn tự học trong phần “Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến
1930” - lớp 12 THPT, giáo viên cần chú ý đến đặc điểm tâm lý, lứa tuổi học
sinh, tùy từng đối tượng cụ thể mà có cách sử dụng sao cho hiệu quả. Làm được
điều đó, nghĩa là chúng ta đã đảm bảo tính vừa sức trong dạy học. Và suy cho
cùng, đổi mới việc dạy học nhằm mục đích cuối cùng là để nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn, nhưng “ Mọi cố gắng của thầy giáo, tất cả những ước nguyện
cao cả đều trở nên vô ích nếu ta làm một việc không vừa sức học sinh ”.
Ngoài ra, cần phải kết hợp giữa tính vừa sức với việc truyền thụ các kiến
thức cơ bản và đảm bảo đúng thời gian quy định của một tiết học.
Thứ ba, hướng dẫn tự học trong môn Lịch sử phải đảm bảo đặc trưng của
lịch sử.
Mỗi một môn học đều có những đặc trưng riêng không giống nhau, môn
Lịch sử cũng vậy. Đối tượng của môn Lịch sử là quá trình phát triển của xã hội
loài người từ xưa đến nay, Vì vậy, trong một giờ học lịch sử dù là tự học thì
cũng phải đảm bảo kiến thức trọng tâm, cơ bản để bài học có hiệu quả.
Thứ tư, ngoài việc hướng dẫn học sinh tự học ở nhà,giáo viên cần kết
hợp các hình thức, biện pháp dạy học khác nhau để đạt hiệu quả tối ưu. Việc
hướng dẫn học sinh tự học ở nhà trong môn Lịch sử ở trường THPT Như Xuân
2 là phương pháp cần thiết để phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh
trong học tập lịch sử và để sử dụng phương pháp đó đạt hiệu quả cao thì cần kết
hợp hài hòa với các hình thức, biện pháp dạy học khác như đồ dùng trực quan,

dạy học nêu vấn đề, tổ chức hoạt động nhóm… Việc kết hợp một cách hài hòa,
linh hoạt các hình thức, biện pháp dạy học như vậy sẽ làm cho giờ học lịch sử
trở nên sinh động, hấp dẫn, thu hút được sự chú ý nghe giảng của học sinh và
góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học lịch sử trong nhà trường.
2.3.3- Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học phần “ Lịch sử Việt Nam từ
năm 1919 đến năm 1930 ” – lớp 12 THPT.
Thông thường giáo viên lên lớp theo quán tính và trình bày theo ý đồ của
mình đã được “ kết tinh ” trong giáo án, khiến học sinh có phần bị động. Khi
giáo viên phát vấn các em lúng túng, loay hoay tìm kiếm câu trả lời trong sách
giáo khoa, mà hầu như không biết vận dụng kiến thức...Học sinh chỉ chờ đợi
giáo viên ghi, rồi chép bài vào vở và về nhà học thuộc . Với cách đó học sinh dễ

4


quên và khó tạo được biểu tượng lịch sử về sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài
học. Vì thế trong mỗi giờ dạy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phương pháp tự
học để các em làm quen, tiếp xúc và nhận dạng được kiến thức, có như vậy các
em mới tích cực, chủ động và hào hứng trong học tập, từ đó mới mong cải thiện
được kết quả giờ học và giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu lịch sử. Vậy làm thế
nào để thực hiện được phương pháp này một cách có hiệu quả, theo tôi cần thực
hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất: Giáo viên cần giới thiệu cho học sinh một số sách tham khảo có
liên quan đến giai đoạn để các em thuận lợi hơn trong việc tự học, để có thể dễ
dàng trả lời những câu hỏi khó mà sách giáo khoa không có đáp án.
Thứ hai: Học sinh cần tích cực, chủ động tự nghiên cứu bài mới theo sự
hướng dẫn cụ thể của giáo viên, ngoài ra các em cần luyện viết bài, làm bài tập
hoàn chỉnh để rèn luyện thêm kĩ năng diễn đạt.
Thứ ba: Khi chuẩn bị bài mới nên chia vở thành hai cột theo tỉ lệ 7/3 . Cột
bên trái ghi phần tự học ở nhà, cột bên phai ghi phần bổ sung tại lớp. Phần tự

học ghi ngắn gọn, theo nội dung tiêu đề mà giáo viên yêu cầu.
Thứ tư: Trước giờ học các em có thể chia ra từng cặp để trao đổi, ôn luyện
và dò bài nhau. Trong giờ học phải tích cực thảo luận, trao đổi. Sau phần giáo
viên chốt kiến thức học sinh tự đối chiếu với phần ghi ở nhà, nếu có chỗ nào
chưa chính xác thì tự điều chỉnh bổ sung ở cột kế bên tương ứng, nếu còn thắc
mắc thì chủ động trao đổi với giáo viên và bạn bè để hiểu và nắm vững kiến
thức.
Thứ năm: Tự học ở nhà là nhiệm vụ chính của học sinh, tuy nhiên phải làm
thế nào để quá trình tự học của các em có hiệu quả điều đó phụ thuộc rất lớn vào
giáo viên. Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể nội dung, yêu cầu học sinh trả lời câu
hỏi tìm hiểu kiến thức của bài học như nội dung chính, xác định trọng tâm, ý
nghĩa của sự kiện ... Sau khi chốt ý trên lớp, giáo viên cho học sinh nhắc lại và
đối chiếu với cột tự học ở nhà để các em bổ sung. Đồng thời giáo viên cần
hướng dẫn học sinh sử dụng triệt để sách giáo khoa bằng cách dùng viết chì
gạch chân những ý quan trọng trong sách giáo khoa, như thế sẽ giúp học sinh
tiết kiệm được thời gian trên lớp và có thể ôn tập dễ dàng trong các kì thi.
- Tổ chức thực hiện phương pháp hướng dẫn học sinh tự học ở nhà phần “
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 đến 1930 ” –lớp 12 THPT.
Việc rèn luyện ý thức tự học và phát huy tính tích cực của học sinh không
phải là một phương pháp dễ dàng, nên để thực hiện tốt phương pháp này cần
phải có sự hợp tác từ hai phía giáo viên và học sinh, trong đó nhiệm vụ chính là
của học sinh nhưng vai trò định hướng của giáo viên là vô cùng quan trọng
nhằm giúp học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức, nhất là đối với những bài
có kiến thức nền tảng cho nội dung toàn chương, toàn phần.
Ví dụ: Trong bài 12: “ Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919
đến 1925 ”:
Ở mục I. “ Những chuyển biến mới về kinh tế,chính trị,văn hóa,xã hội ở
Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất ”. Giáo viên cần hướng dẫn cho học

5



sinh tìm hiểu về hoàn cảnh, mục đích, nội dung và tác động của chương trình
khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân pháp. Khi các em tìm hiểu được nội
dung này trước ở nhà thì lúc đến lớp được Giáo viên phân tích, giảng giải sẽ dễ
hiểu hơn về việc tại sao Pháp lại tiến hành khai tác thuộc địa lần thứ hai ở Đông
Dương và Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất, với quy mô lớn, tốc độ
nhanh nhưng chỉ tập trung vào nông nghiệp và công nghiệp nhẹ... Đặc biệt giáo
viên cần định hướng và nêu vấn đề để thu hút sự tò mò và khả năng tư duy của
học sinh về tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần hai của thực dân
pháp đối với kinh tế, xã hội nước ta, nhất là sự phân hóa giai cấp trong xã hội để
các em biết và hiểu, phân tích được khả năng, thái độ cách mạng của các giai
cấp, tầng lớp. Đó cũng là cách để học sinh nắm rõ về lực lượng cách mạng trong
phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam lúc bấy giờ. Đồng thời nêu vấn đề cho
học sinh tại sao trong các giai cấp thì chỉ có giai cấp công nhân mới có khả năng
lãnh đạo cách mạng chứ không phải là giai cấp nông dân, tư sản hay tiểu tư
sản... Hoặc yêu cầu các em xác định được những mâu thuẫn cơ bản trong lòng
xã hội Việt Nam lúc này và mâu thuẫn nào là cơ bản nhất... Từ những yêu cầu và
vấn đề được giao các em sẽ tự nghiên cứu sách giáo khoa, hoặc trao đổi thao
luận với nhau hay tham khảo thêm tài liệu để tìm hiểu vấn đề. Như thế học sinh
sẽ hiểu ra vì sao từ năm 1919-1925 ở Việt Nam lại diễn ra phong trào dân tộc
dân chủ.
Tương tự như thế cho mục II: “ Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
(1919-1925) ”. Giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào câu hỏi có trong Sách
giáo khoa để tự tìm hiểu nội dung bài học:
Như câu hỏi số 2 Sách giáo khoa trang 82 : Hãy lập niên biểu về những
hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919-1925 theo mẫu sau: Thời gian, nội
dung hoạt động, ý nghĩa lịch sử của các hoạt động đó.
Với câu hỏi 3 Sách giáo khoa trang 82: Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận
xét về phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong những năm 1919-1925 theo

các ý : mục tiêu đấu tranh, hình thức đấu tranh, lực lượng, kết quả, ý nghĩa, tính
chất của các phong trào đấu tranh... Trong đó cần nhấn mạnh để học sinh thấy
sự xuất hiện của phong trào đấu tranh theo khuynh hướng mới – khuynh hướng
cách mạng vô sản - trong phong trào dân tộc dân chủ ở giai đoạn này.
Đối với bài 13: “ Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 19251930 ”
Đây là dạng bài cung cấp kiến thức mới với dung lượng lớn, và phức tạp với
nhiều tổ chức, khuynh hướng, phong trào cách mạng khác nhau...làm học sinh
rối và khó phân biệt. Chẳng hạn ba tổ chức cách mạng với ba tổ chức cộng sản;
khuynh hướng cách mạng tư sản với khuynh hướng cách mạng vô sản; phong
trào yêu nước với phong trào công nhân. Do đó học sinh rất cần được hướng để
nắm bắt vấn đề một cách thấu đáo và tránh sự nhầm lẫn. Mặt khác thực tiễn của
cuộc đấu tranh trong phong trào dân tộc dân chủ giai đoạn này là sự thử thách
nghiêm khắc, sự sàng lọc cặn kẽ để lựa chọn sứ mệnh lịch sử giữa các tổ chức,
khuynh hướng cách mạng đó đối với dân tộc. Cuối cùng thì Đảng Cộng Sản Việt

6


Nam do Nguyễn Ái Quốc sáng lập qua quá trình sàng lọc nghiêm khắc đã được
lịch sử chọn lựa giữ ngọn cờ tiên phong duy nhât, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo
phong trào giải phóng dân tộc. Để thấu đáo hết nội dung này thì chỉ với thời gian
trên lớp thôi rất khó có thể giúp học sinh nắm vững được vấn đề. Giáo viên cần
vận dụng tốt các phương pháp, trong đó phương pháp tự học ở nhà là hết sức
cần thiết giúp học sinh vững vàng tiếp thu kiến thức.
Ví dụ ở mục I. “ Sự ra đời và hoạt động của các tổ chức cách mạng ”. Theo
chương trình giảm tải phần I.2 Tân Việt Cách mạng Đảng và I.3 Việt Nam Quốc
Dân Đảng chỉ yêu cầu đọc thêm, nhưng giáo viên cũng cần yêu cầu học sinh tìm
hiểu về sự ra đời, thành phần, khuynh hướng và hoạt động của nó để có thể so
sánh với Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh niên, qua đó giúp HS hiểu rằng, tại
sao trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể lúc đó, chỉ có Hội Việt Nam Cách Mạng

Thanh niên là có thể nắm giữ ngọn cờ giải phóng dân tộc, cũng như sự tất yếu
phân hóa các tổ chức cách mạng để trở thành 3 tổ chức tiền thân của Đảng.
Đặc biệt ở mục II. “ Đảng Cộng Sản Việt Nam Ra Đời ” phần II.1 “ Sự xuất
hiện của ba tổ chức cộng sản năm 1929 ”. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh về
quá trình hình thành của ba tổ chức cộng sản, cần giúp các em thấy rằng quá
trình hình thành đó là tất yếu, kiểu gì cũng sẽ xảy ra trong hoàn cảnh đó, qua đó
khuyến khích học sinh tìm hiểu thêm về hoàn cảnh lịch sử cụ thể, lưu ý học sinh
chỉ cần nắm chắc về thời gian hình thành và tên gọi, lần lượt là Đông Dương –
An Nam – Liên Đoàn... Khi các em đã chuẩn bị và biết trước về nội dung này sẽ
rất thuận lợi cho giáo viên trong quá trình lên lớp, không mất thời gian để giới
thiệu nhiều chỉ cần tập trung phân tích ý nghĩa và tác động của sự kiện.
Còn ở phần II.2 “ Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ”. Đây là
kiến thức căn bản trọng tâm của bài và liên quan rất lớn đến các nội dung tiếp
theo nên yêu cầu học sinh phải nắm chắc. Giáo viên sẽ yêu cầu học sinh tìm hiểu
trước về hoàn cảnh và nội dung hội nghị, đặc biệt là ý nghĩa lịch sử của viêc
thành lập Đảng. Ở phần này giáo viên nên khai thác tư duy của học sinh bằng
cách nêu vấn đề yêu cầu học sinh tự tìm hiểu theo nhóm (Nhóm 1: Tại sao hội
nghị thành lập Đảng lại diễn ra suôn sẻ và hợp nhất dễ dàng ? Nhóm 2: Vai trò
của Nguyễn Ái Quốc trong hội nghị này như thế nào ? Nhóm 3: Tại sao nói
Đảng Cộng sản ra đời là bước ngoặt Vĩ đại của cách mạng Việt Nam ? Nhóm
4: Tìm hiểu quy luật ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam?) Đồng thời giáo viên
có thể kích thích thêm sự hứng thú của học sinh bằng những câu hỏi về nhà như:
Tại sao lại đặt tên là Đảng cộng sản Việt Nam mà không phải Đảng Cộng Sản
Đông Dương? Qua đó càng thấy rõ hơn vai trò to lớn, khả năng sáng tạo cũng
như sự nhạy bén chính trị của Nguyễn Ái Quốc... Với phương pháp này chắc
chắn sẽ hỗ trợ rất tốt cho tiết học, tạo được sự hứng thú và tích cực cho học sinh.
Đồng thời giúp các em rèn luyện được kĩ năng vận dụng và trình bày vấn đề.
Phần thực nghiệm sư phạm
- Mục đích thực nghiệm sư phạm:
Thực nghiệm sư phạm nhằm khẳng định mục đích nghiên cứu của đề tài

là thiết thực, khả thi, đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng học tập môn

7


lịch sử của học sinh trường THPT Như Xuân 2; Xác định mức độ phù hợp, hiệu
quả và tính khả thi của việc hướng dẫn học sinh tự học trong phần “ Lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến năm 1930 ” – lớp 12 THPT ở trường THPT Như Xuân 2;
Khẳng định được tính khoa học và hiệu quả của đề tài về phát triển năng lực tư
duy, sáng tạo cho học sinh THPT Như Xuân 2.
- Nội dung thực nghiệm
- Điều tra và phân tích kết quả điều tra về đặc điểm của học sinh lớp 12
của trường THPT Như Xuân 2.
- Thiết kế 1 giáo án có sử dụng các biện pháp hướng dẫn học sinh tự học
trong phần “ Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930 ” –lớp 12 THPT.
- Xây dựng đề kiểm tra và đáp án cho lớp đối chứng và lớp thực nghiệm.
- Đánh giá sự phù hợp về nội dung, mức độ của đề kiểm tra trong giảng
dạy.
- Đánh giá về hiệu quả của biện pháp hướng dẫn học sinh tự học trong
phần “ Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930” – lớp 12 THPT theo
phương pháp dạy học tích cực.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Xây dựng nội dung và kế hoạch thực nghiệm.
- Tiến hành thực nghiệm theo nội dung và kế hoạch đã định.
- Thu thập thông tin và xử lí số liệu thực nghiệm.
- Phân tích, đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Tổ chức thực nghiệm
+ Đối tượng và phạm vi thực nghiệm
Tên trường


Tên lớp

THPT Như Xuân 2

12A (lớp thực nghiệm)
12B (lớp đối chứng)

Số học
sinh
35
35

Tên giáo viên
Phan Ngọc Thản
Phan Ngọc Thản

+ Dạy thực nghiệm
Để phần dạy thực nghiệm khách quan và hiệu quả, tôi mời các đồng
nghiệp trong tổ bộ môn tham gia dự giờ trong tiết dạy thực nghiệm để khảo sát,
phân tích và rút ra kết luận.
Trong năm học 2015 – 2016, sau khi dạy thực nghiệm, chúng tôi đã thực
hiện một số hình thức kiểm tra, khảo sát dựa trên câu hỏi cuối bài đối với học
sinh lớp 12 ở trường THPT Như Xuân 2 và thu được kết quả như sau:
Lớp
12A
12B

Số
HS
35

35

Giỏi
SL
25
05

%
71,4
14,2

Khá
SL
10
20

%
28,6
57,2

TB
SL
0
10

Yếu
%
0
28,6


SL
0
0

%
0
0

2.4- Hiệu quả lợi ích thu được
8


Dựa trên các kết quả thực nghiệm sư phạm và thông qua việc xử lý số liệu
thực nghiệm sư phạm thu được, chúng tôi nhận thấy chất lượng học tập của học
sinh ở lớp thực nghiệm (12A) cao hơn hẳn ở lớp đối chứng (12B), đặc biệt là tỷ
lệ bài khá giỏi tăng lên đáng kể, vì trong quá trình học tập các em được chủ
động lĩnh hội kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nên các em tiếp thu
bài giảng một cách hứng thú, nắm kiến thức tại lớp và ghi nhớ lâu hơn. Còn tại
các lớp đối chứng số bài trung bình còn nhiều, thậm chí có cả bài yếu, số bài khá
giỏi có tỷ lệ ít hơn rất nhiều, vì thế học sinh không hiểu sâu kiến thức và sẽ
không hứng thú học tập môn lịch sử nếu như tình trạng dạy “chay” diễn ra
thường xuyên.
Như vậy, phương án thực nghiệm không những giúp cho bài giảng của
thầy thêm sinh động, hấp dẫn, tránh đơn điệu khô khan mà còn giúp cho học
sinh hứng thú hơn với giờ học, giúp các em chủ động lĩnh hội tri thức, qua đó
phát triển khả năng nhận thức và năng lực tư duy, sáng tạo, tiếp thu bài giảng
một cách nhẹ nhàng, nhanh chóng và ghi nhớ lâu, góp phần giảm tỷ lệ học sinh
yếu kém, trung bình và tăng tỷ lệ học sinh khá, giỏi.
Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:
+ Góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở bậc THPT.

+ Rèn luyện kĩ năng tư duy độc lập, tìm tòi sáng tạo của học sinh.
+ Nâng cao năng lực sư phạm và uy tín trước học sinh của giáo viên, tạo
hứng thú học tập cho các em, từ đó các em hiểu chính xác, sâu sắc các sự kiện,
hiện tương lịch sử đang học, khơi dậy trong tâm hồn các em những xúc cảm lịch
sử, đó là cơ sở để giáo dục tình cảm, đạo đức, bồi dưỡng thái độ yêu ghét đúng
đắn, có tác dụng giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng cho các em.
+ Có thể áp dụng cho các môn khoa học khác như: Vật lí, Văn học, Địa
lý, Giáo dục công dân...
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết Luận:
Qua nhiều năm tham gia giảng dạy, Tôi nhận thấy rằng để nâng cao hiệu
quả dạy học môn lịch sử cần chú ý những vấn đề sau:
- Phải nắm chắc nội dung toàn bộ khoá trình, phân loại theo từng giai
đoạn, chủ đề, vấn đề.
- Khi soạn bài cần xác định chính xác nội dung, trọng tâm, trọng điểm của
từng tiết, từng bài để phân bố thời gian hợp lí, sử dụng hiệu quả, sáng tạo, linh
hoạt các phương pháp và phương tiện trực quan, trong đó có biện pháp hướng
dẫn học sinh tự học trong phần “ Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930”
–lớp 12 THPT.
- Giáo viên phải thực sự đầu tư thời gian, tâm huyết cho việc thiết kế bài
dạy và chú ý tới biện pháp hướng dẫn học sinh tự học nhất là trong giai đoạn

9


bùng nổ của công nghệ thông tin, nếu phương pháp giảng dạy của thầy cứng
nhắc, máy móc, nhàm chán sẽ không gây được hứng thú học tập cho học sinh,
giáo viên sẽ không đạt được mục tiêu giáo dục.
- Hướng dẫn học sinh tự học có ý nghĩa quan trọng sẽ đem lại hiệu quả
cao về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển cho học sinh. Ngoài ra nó còn

có tác dụng giúp giáo viên tự học tập, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm.
Kiến nghị:
- Sở giáo dục cần thiết bổ sung tài liệu phục vụ cho môn học lịch sử ở
trường THPT, cần có chính sách hỗ trợ thiết bị dạy học bộ môn lịch sử cho các
trường THPT đóng trên địa bàn vùng đặc biệt khó khăn, xa khu vực thành thị và
nơi không có các di tích lịch sử;
- Góp ý cho việc chỉnh sửa nội dung, cấu trúc bộ môn Sử trong hệ thống
giáo dục phổ thông cho phù hợp với việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục theo Nghị quyết số 29- NQ/TW;
- Tăng cường việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá môn lịch sử ở
trường THPT.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người Viết SKKN

Phan Ngọc Thản

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng, Hướng dẫn sử
dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 10. NXB Đại học sư phạm,
2012.
2. Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng, Nguyễn Thị Thế

Bình, Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 11 THPT,
NXB Đại học sư phạm, 2012.
3. Th.S Trương Ngọc Thơi, Bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử 10, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, 2012.
4. Th.S Trương Ngọc Thơi, Bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử 11, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, 2012.
5. Trang Website: Google
6. Thư viện bài giảng điện tử Violet
7. Sách giáo khoa Lịch sử 12- NXB Giáo dục, 2008

11



×