Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sử dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.76 KB, 20 trang )

Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá
Trường THPT Hoằng Hoá 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
LỚP 12 THPT
------------ @@@ -------------

Người thực hiện: Lê Thị Hồng
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Đơn vị công tác: Tổ Sử - Địa – GDCD
SKKN thuộc môn: Lịch sử

Thanh Hoá năm 2016

1


MỤC LỤC

Trang

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I-Lý do chọn đề tài.
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí, chức năng và nhiệm vụ quan
trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Nhưng hiện nay học sinh lại chưa
chú trọng học môn này. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân gây nên. Nhưng phải
thừa nhận một nguyên nhân rất quan trọng là do kết quả, chất lượng giảng dạy của
chính những giáo viên dạy lịch sử hiện nay, đặc biệt là việc duy trì kiểu dạy truyền
thống “thầy đọc, trò chép”, nhồi nhét kiến thức, học sinh thụ động trong tiếp thu


kiến thức. Từ đó có thể thấy việc xây dựng và phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo cho học sinh qua những giờ học lịch sử rõ ràng là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng và cũng hết sức nặng nề của người giáo viên dạy môn lịch sử.
Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử là một vấn đề quan trọng hiện nay
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả bài học.Trong dạy học nói chung và dạy học
Lịch sử nói riêng có nhiều đồ dùng trực quan với các cách sử dụng khác nhau,
nhưng đều có tác dụng nâng cao hiệu quả bài học. Sơ đồ hóa kiến thức trong dạy
2


học Lịch sử là một phương pháp trực quan nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng
những hình học đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị,
một vấn đề lịch sử, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử… giúp cho học sinh ghi
nhớ và hiểu bài một cách nhanh chóng .
Hiện nay thực trạng nhiều học sinh học bài còn rất thụ động, học bài theo
kiểu học thuộc lòng, học vẹt, quên kiến thức rất nhanh chóng, không đọng lại được
gì. Nhiều học sinh nhớ kiến thức một cách mơ hồ, đọc tủ một vấn đề nào đó từ đầu
đến cuối, nhưng yêu cầu trình bày một đoạn nhỏ trong vấn đề đó thì tỏ ra lúng túng
vì các em quen đọc vẹt, đọc liền mạch, mà không nhớ được bao quát của vấn đề.
Vì vậy, việc giúp các em nhớ được kiến thức nhanh và lâu là một việc làm quan
trọng.
Sơ đồ hóa kiến thức Lịch sử sẽ giúp học sinh hình dung bao quát được bài
học hoặc một vấn đề. Học sinh nhớ được kiến thức một cách nhanh chóng và lâu
bền hơn sẽ góp phần làm cho bài giảng một cách nhẹ nhàng và hiệu quả.
Qua nhiều năm dạy và bồi dưỡng học sinh khối C, bản thân thấy rất nhiều học sinh
chăm chỉ học, tích cực học hỏi và sưu tầm tài liệu nhưng kiến thực đọng lại rất ít
ỏi. Nhiều em chỉ một thời gian ngắn là quên hết kiến thức đã học. Một bộ phận
nắm được kiến thức nhưng khi làm bài thì sa vào trình bày lộn xộn, thiếu tuần tự.
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi chọn đề tài “ Sử dụng sơ đồ trong dạy học
Lịch sử lớp 12 THPT”. Tuy nhiên, vận dụng sơ đồ vào dạy học lịch sử có thể áp

dụng ở nhiều cấp học, nhiều bài học.
II. Phạm vi , đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Một số bài học trong chương trình Lịch sử
Việt Nam lớp 12.
Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp lịch sử, ngoài ra còn sử dụng
phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp, tích hợp.
III. Mục đích nghiên cứu
Nhằm góp một phần giúp các em học sinh có những kiến thức lịch sử nhất
định để trang bị cho những kỳ thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi tinh, thi ĐHCĐ cho
học sinh ban C; Khắc phục tình trạng “ học vẹt” lịch sử. Mục đích chuyển từ quan
niệm “ giáo viên là trung tâm” sang quan niệm “ lấy học sinh làm trung tâm”.
Giúp các em hình thành và phát huy tư duy tự học, tự tìm hiểu và giải quyết
vân đề liên quan đến lịch sử, nhất là những vấn đề mà giáo viên cũng như học sinh
thường sa vào phân tích chính trị, nặng về giáo điều lý luận.
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu một nội dung mới, người giáo viên chỉ đóng vai trò
hướng dẫn và kết luận. Sơ đồ để dạy học cũng có thể xem là những phiếu học tập.
3


Khi tiến hành dạy bài mới giáo viên phát cho học sinh những sơ đồ “câm”, giáo
viên giảng bài và hướng dẫn học sinh trả lời các thông tin trên sơ đồ. Giáo viên có
thể vẽ sơ đô bài học lên bảng và gọi đại diện các nhóm hoặc các tiểu nhóm lên
trình bày. Sau đó giáo viên nhận xét và kết luận.
V. Điểm khó của đề tài.
Ngoài việc soạn giáo án, giáo viên phải thiết kế sơ đồ để vận dụng. Vì vây, đòi
hỏi giáo viên phải đầu tư một khối lượng thời gian tương đối lớn.
Muốn thiết kế sơ đồ yêu cầu người giáo viên phải cơ bản biết sử dụng máy vi
tính. Phải có sự kiên trì. Phải bỏ ra một số kinh phí nhất định để in và photo sơ đồ

cho các nhóm học sinh.
B. NỘI DUNG
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Lịch sử là một dòng chảy không bao giờ ngưng nghỉ. Học quá khứ để nhận
thức hiện tại và phán đoán tương lai, đó là đặc thù của môn lịch sử. Muốn học tốt
lịch sử phải tường minh ba vấn đề: Thời gian, không gian và con người. Đặc trưng
nối bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì
thuộc về quá khứ. Lịch sử không phải là một bộ môn chính trị, nhưng lịch sử gần
với chính trị.
Hướng dẫn học sinh tự học, tự tiếp cận vấn đề là một trong những đặc trưng
của phương pháp dạy học tích cực. Mỗi một tiết dạy, giáo viên có một phương
pháp riêng, tìm ra những con đường để học sinh tiếp nhận nội dung bài học một
cách thoải mái, tự giác, tích cực. Trong chương trình lịch sử lớp 12 rất nhiều bài
học giáo viên có thể vận dụng sơ đồ để dạy học theo phương pháp nhóm.
2. Thực trạng của vấn đề
Học sinh THPT hiện nay tuyệt đại đa số không muốn tiếp xúc với môn học
này. Khi học một giờ lịch sử, nhiều học sinh xem đó là một giờ “ tra tấn tinh thần
và thể xác”. Nào là “ chủ trương”, nào là “chính sách”, nào là “đường lối”, nó
chẳng khác gì cán bộ đi học Nghị quyết.
Mặc dù đội ngũ giáo viên dạy sử ở các trường phổ thông đang rất cố gắng đổi
mới phương pháp để nâng cao hiệu quả của bài học nhưng kết quả không có mấy
chuyển biến. Khi hỏi về một nhân vật lịch sử Việt Nam, một bộ phim lịch sử Việt
Nam học sinh trở nên “ mù tịt”, nhưng khi nói về một bộ phim lịch sử Trung Quốc
thì có nhiều học sinh kể vanh vách. Học xong bài học là trả lại cho thầy cô.Thật là
một thực trạng đáng báo động.
4


Một hiện tượng phổ biến bây giờ của học lịch sử là chủ yếu học thuộc lòng,

ghi nhớ một cách máy móc , đối phó với thi cử: thiếu kỹ năng miêu tả, phân tích,
tổng hợp, đánh giá về một sự kiện lịch sử.
Trong các cuộc thi như “ Đường lên đỉnh Ôlimpia”, các chương trình vui chơi
giải trí trên truyền hình như: “ Đấu trường 100”, “ Ai là triệu phú”...các thí sinh và
những người chơi đa số mất điểm ở câu hỏi liên quan đến lịch sử.
3. Nguyên nhân
Có rất nhiều cuộc họp, rất nhiều Hội thảo bàn về cách dạy và học Lịch sử đã
diễn ra trong mấy năm lại đây để tìm ra nguyên nhân, tìm biện pháp khắc phục. Và
rất nhiều nguyên nhân được đề cập. Theo tôi thì do những nguyên nhân sau đây:
Một là, hiện nay nhu cầu xã hội giành cho học sinh theo học các môn khoa
học xã hội rất ít. Các trường đại học, cao đẳng mọc lên ngày càng nhiều nhưng chủ
yếu là giành cho các học sinh theo học các môn khoa học tự nhiên. Vì vậy, số học
sinh có nhu cầu theo học các môn khoa học xã hội tại các trường THPT là rất ít.
Thậm chí có nhiều trường không duy trì được lớp khối C.
Hai là, học sinh theo học các ngành xã hội tại các trường Đại học, Cao đẳng
sau khi ra trường mặc dù có bằng tốt nghiệp khá và giỏi nhưng vẫn không xin được
việc làm, nhất là ngành lịch sử. Thực tế là những ngành khoa học xã hội đa số
thuộc biên chế của nhà nước, cho nên nhu cầu sử dụng lao động rất ít. Nếu có việc
làm thì lương cũng rất thấp. Vì vậy, đa số phụ huynh và học sinh quay lưng với
môn học này.
Ba là, môn Lịch sử trong các trường THPT, THCS vẫn được xem là môn phụ.
Còn học sinh và phụ huynh thì có suy nghĩ đơn giản rằng học Lịch sử chẳng sẽ có
ích gì, vì nó không phục vụ cho việc thi cử và kiếm tiền sau này. Trong các kỳ thi
tốt nghiệp mấy năm lại đây, môn Lịch sử ít được lựa chọn là một môn thi. Ngược
lại, môn Địa lý trở thành môn thi liên tục.
Bốn là, còn nhiều vấn đề về chương trình, sách giáo khoa, đội
ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy. Nội dung sống động
nhất của lịch sử là phải gắn với cuộc sống, cuộc sống qua các thời
kỳ lịch sử và cuộc sống hôm nay, lại chưa được quan tâm và phát
huy. Tóm lại là cách trình bày lịch sử khô khan, đánh giá lịch sử

còn áp đặt chủ quan, nặng về lý luận, ít có các câu chuyện sinh
động về một sự kiện lịch sử, về một nhân vật lịch sử và như vậy,
học sinh không thích học là hệ quả tất yếu.
Và cuối cùng, phương pháp dạy học còn nhiều vấn đề. Đây là
nguyên nhân dễ nhận thấy nhất và cũng được nói đến nhiều nhất
nhưng mặt khác đó cũng lại là nguyên nhân khó khắc phục nhất.
Khi nhắc đến nguyên nhân này, người ta chỉ làm một việc đơn
giản duy nhất là đổ lỗi cho giáo viên. Nhưng suy cho cùng thì giáo
viên cũng chỉ là người chịu hậu quả của một nền giáo dục lạc hậu
5


đã kéo dài mà thôi. “Thay đổi một quan niệm khó hơn phá vỡ một
quả bom nguyên tử”. Tất cả giáo viên đều biết rất rõ về điều này
nhưng với hoàn cảnh hiện nay họ gần như không có lựa chọn
khác.
Trước nhiều nguyên nhân trên, Nhà nước, Bộ giáo dục và đào tạo đang có rất
nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách để khắc phục. Còn những người trực tiếp dạy
lịch sử như chúng tôi cũng đang cố gắng gạt qua sự “mặc cảm” để cố gắng tìm ra
phương pháp dạy học đưa lại hiệu quả tốt nhất, làm cho học sinh phát huy được
tính chủ động, sự hứng thú, nhất là đối với lịch sử dân tộc ta. Vì thế, tôi chọn đề tài
“ Sử dụng sơ đồ trong dạy học Lịch sử ” nhằm góp phần cải thiện cách dạy và học
môn Lịch sử hiện nay.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TRONG DẠY HỌC LỊCH
SỬ LỚP 12
Chương trình lịch sử lớp 12 gồm 2 phần:
- Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000
- Lịch sử việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000
Nội dung học khá dài so với chương trình lớp 11, các phần này kế tiếp
chương trình lớp 11. Khi học tập đòi hỏi học sinh không chỉ nắm những kiến thức

từng giai đoạn, từng nội dung cụ thể, mà còn phải tìm hiểu mối quan hệ giữa các
sự kiện trong sự phát triển chung. Học sinh phải biết sử dụng kiến thức đã học để
tiếp nhận kiến thức mới, biết quá khứ để tìm hiểu hiện tại. Yêu cầu học sinh phải
nắm vững kiến thức cơ bản, bao gồm những sự kiện, nhân vật lịch sử, không gian,
thời gian … Để sử dụng phương pháp trực quan bằng việc sơ đồ kiến thức lịch sử,
trước hết, giáo viên cần xác định được trọng tâm của một mục, một tiết dạy. Trên
cơ sở đó tiến hành sơ đồ hóa kiến thức phù hợp.
Tuy nhiên việc tiến hành sơ đồ hóa kiến thức của một vấn đề, một mục, hoặc
một bài phải linh hoạt, phù hợp với đặc trưng của một bài học, thời lượng của tiết
học.
Giáo viên có thể đưa hình thức sơ đồ hóa vào cuối một bài, một mục, hoặc
lồng ghép các mục có mối quan hệ với nhau. Để có được một sơ đồ hóa kiến thức,
giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo, có sự sắp xếp kiến thức, số lượng câu chữ
phù hợp, đồng thời phải đảm bảo về tính thẩm mĩ.
Dưới đây là một số sơ đồ kiến thức lịch sử được sử dụng ở một bài hoặc
một mục:
1. Khi dạy phần I. Hội nghị Ianta(2/1945) và những thỏa thuận của ba
cường quốc - Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới lần
thứ hai (1945 - 1949), SGK Lịch sử 12 Cơ bản, giáo viên sử dụng sơ đồ hóa kiến
6


thức H.1. kết hợp với những câu hỏi phù hợp học sinh dễ dàng nắm được kiến thức
về Hội nghị Ianta.

VẤN ĐỀ CẤP BÁCH CỦA THẾ GIỚI

TIÊU DIỆT PHÁT XÍT NHANH

THIẾT LẬP TRẬT TỰ THẾ

GIỚI

PHÂN CHIA THÀNH QUẢ
CHIẾN TRANH

HỘI NGHỊ IANTA
(04-11/2/1945)

MỤC TIÊU TIÊU DIỆT PHÁT
XÍT

THÀNH LẬP LIÊN HỢP
QUỐC

GIẢI GIÁP PHÁT XÍT
PHẠM VI ẢNH HƯỞNG

TRẬT TỰ HAI CỰC IANTA

H.1. Sơ đồ kiến thức Hội nghị Ianta
Ở phần II. Sự thành lập Liên Hợp Quốc, giáo viên cũng có thể sử dụng sơ đồ
hóa kiến thức và kết hợp với những câu hỏi phù hợp để học sinh nắm được toàn bộ
kiến thức về tổ chức Liên Hợp Quốc. Kết hợp với việc dùng sơ đồ Bộ máy tổ chức
Liên Hợp Quốc giáo viên có thể trình bày thêm về sáu quan cơ chính và các tổ
chức chuyên môn khác giúp việc cho Liên Hợp Quốc. Đó cũng là những điểm
trọng tâm trong phần tổ chức Liên Hợp Quốc. Cũng thông qua sơ đồ Bộ máy tổ
chức Liên Hợp Quốc, giáo viên yên cầu học sinh nêu nhận xét vai trò của Liên
Hợp Quốc để hoàn thành sơ đồ kiến thức Liên Hợp Quốc.
7



LIÊN HỢP QUỐC
(24/10/1945)

MỤC ĐÍCH

PHÁT TRIỂN QUAN
HỆ HỮU NGHỊ,

DUY TRÌ HÒA
BÌNH

NGUYÊN TẮC HOẠT
ĐỘNG

BÌNH ĐẲNG CHỦ
QUYỀN, TỰ QUYẾT DÂN
TỘC

TOÀN VẸN LÃNH THỔ,
ĐỘC LẬP CHÍNH TRỊ

GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ
CHUNG SỐNG HÒA BÌNH,
NHẤT TRÍ 5 NƯỚC LỚN

KHÔNG CAN THIỆP
CÔNG VIỆC NỘI BỘ


VAI TRÒ

DUY TRÌ HÒA
BÌNH, AN NINH

THÚC ĐẨY
QUAN HỆ HỮU
NGHỊ, HỢP

GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP,
XUNG ĐỘT

GIÚP ĐỠ
CÁC DÂN
8


H.2. Sơ đồ Về tổ chức Liên Hợp Quốc

2. Khi dạy mục 3 : Những chuyển biến về kinh tế và giai cấp xã hội ở Việt Nam
(Bài 12. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925)
Sử dụng sơ đồ ( trang 10)
Trước khi khai thác nội dung của mục này, giáo viên phát cho mỗi bàn một sơ
đồ để trống. Tiếp theo, gọi một học sinh đọc các nội dung trong SGK, sau đó giáo
viên hướng dẫn các em điền các thông tin vào sơ đồ: Các ô còn để trống và được
mã hóa bằng số (1), (2)...thể hiện thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các
giai cấp. Ô có đường kẻ đậm là ô có nội dung quan trọng nhất.
Cuối cùng, gọi đại diện các nhóm trả lời và nhận xét. Có thể, giáo viên vẽ sơ
đồ lên bảng, rồi gọi hai hoặc ba học sinh lên điền các thông tin. Giáo viên bổ sung

và nhận xét.
3. Khi dạy Mục II: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, (Bài 13. Phong trào dân
tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930 ) Sử dụng sơ đồ (trang 12)
Giáo viên cũng thực hiện theo tuần tự như ở phần 1.1. Nhấn mạnh: Dưới tác
động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, phong trào dân tộc dân chủ ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Thực tế này đòi hỏi, VNCMTN phải “lột xác”, tức là
phải thành lập một đảng vô sản để lãnh đạo quần chúng. Nhưng, chỉ có một số hội
viên của VNCMTN nhận thức được yêu cầu này. Từ đó làm cho VCMTN bị phân
liệt.
Ảnh hưởng ngày càng lớn của VNCMTN làm cho đảng Tân Việt bị phân hóa.
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ để thể hiện nội dung của mục 1
và 2. Từ đó học sinh sẽ dễ nắm kiến thức về quá trình thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, cúng như nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của
Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
4. Khi dạy Mục: Hội nghị BCHTW Đảng CS Đông Dương tháng 11 năm
1939. ( Bài 16. Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng
Tám(1939-1945), mục II) sử dụng sơ đồ: HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS
ĐÔNG DƯƠNG THÁNG 11/1939 (trang 13)
Giáo viên hướng dẫn học sinh thể hiện những kiến thức cơ bản trên khung sơ đồ.
Giáo viên đặt câu hỏi: Điểm khác cơ bản của Hội nghị này với Hội nghị BCHTW
Đảng tháng 7 năm 1936?.
GV giải thích: Hội nghị tháng 7/1936, đề ra mục tiêu đấu tranh trước mắt là đòi tự
do, dân chủ, cơm áo và hòa bình ( tạm gác độc lập dân tộc). Con đến Hội nghị này,
mục tiêu đấu tranh là đòi độc lập dân tộc ( tạm gác nhiệm vụ dân chủ)
5. Để dạy Mục 3: Hội nghị BCHTW Đảng CS Đông Dương tháng 5 năm 1941.
( Bài 16. Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám(19391945) mục II) sử dụng sơ đồ: HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS ĐÔNG
DƯƠNG LẦN VIII (5/1941) ( trang 15)
9



Qua Hội nghị này, giáo viên giúp học sinh nhận biết được tầm quan trọng
của Hội nghị: Đây là Hội nghị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì, những tư
tưởng của Người đã bắt đầu được thể hiện. Đó là: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và
vấn đề dân tộc. Hội nghị khẳng đinh: “ Trong lúc này, nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải
chịu kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được”.
Vấn đề dân tộc được thể hiện: Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng
minh( Việt Minh) thay Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
6. Để dạy Bài 17: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-91945 đến trước ngày 19-12-1946” Sử dụng sơ đồ ( trang 16, 17, 18)
Đây là bài có nhiều nội dung, vì vậy việc sử dụng sơ đồ là rất cần thiết. Giáo
viên hướng dẫn học sinh tập trung vào cá phần trọng tâm để phân tích. Đây là
khoảng thời gian nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ gặp vô vàn khó khăn
và thử thách. Nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ mất còn. Đây
cũng là giai đoạn thể hiện bản lĩnh chính trị, tài ngoại giao của Đảng ta đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại sơ đồ trang 14, ô (1) kẻ đậm thể hiện nội dung quan
trọng nhất: Mặc dù ta không yêu cầu được Pháp phải công nhận nền độc lập của
Việt Nam, nhưng chúng ta đã buộc chúng phải công nhận Việt Nam là một quốc
gia tự do.

10


Sự phân hóa xã hội Việt Nam sau
chiến tranh thế giới thứ nhất

Các giai cấp cũ

Địa chủ
phong kiến

Đại địa
chủ

Địa chủ
vừa và

(1)

(2)
.

Các giai cấp mới

Nông dân

Công nhân

(3)

(4)

Tưtư
sảnsản
Tiểu

Mại bản

(7) tộc
Dân
.


(5)

(6)
.

Rút ra mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ:

11


SỰ XUẤT HIỆN 3 TỔ CHỨC CỘNG SẢN NĂM 1929 VÀ ĐẢNG CS VIỆT NAM RA ĐỜI
Một bộ phận gia nhập

Hội VNCMTN
(6/ 1925)

TÂN VIỆT CM
ĐẢNG
(1925)

Phân liệt
Đông Dương CS
đảng (6/1929)

An Nam CS đảng
(8/1929)

Đông Dương CS liên
đoàn (9/1929)


3/2/1930
Đảng Cộng sản Việt Nam
(3/2/1930)

3/2/1930

24/2/1930

Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930

Đường lối chiến
lược CMVN

Nhiệm vụ chiến
lược CMVN

Lực lượng chiến
lược CMVN

Vai trò lãnh đạo

Vị trí CMVN
.

Ý nghĩa của Cương lĩnh:

12



Người chủ trì: TBT
Nguyễn Văn Cừ

HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS
ĐÔNG DƯƠNG THÁNG 11/1939

Địa điểm: Bà
Điểm-Hóc MônGia Định

Nội dung

Nhiệm vụ

Khẩu hiệu đấu
tranh

Mục tiêu đấu
tranh

.

Phương pháp
đấu tranh

.

Hình thức mặt
trận

.


• Ý nghĩa của Hội nghị:

13


Chủ trì: Nguyễn Ái
Quốc

HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS
ĐÔNG DƯƠNG LẦN VIII (5/1941)

Địa điểm: Pác Bó –
Cao Bằng

Nội dung

Nhiệm vụ

Khẩu hiệu đấu
tranh

Hình thức mặt
trận

Hình thái của cuộc
khởi nghĩa

.


 Ý nghĩa của Hội nghị:
14


Thuận lợi

NƯỚC VIỆT NAM DCCH

Quân sự

Khó khăn

Chính
trị

Kinh tế

Tài
chính

Văn
hóa
.

Nhà nước VNDCCH non trẻ bị đặt trong tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”.
15


NHỮNG BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG
VÀ CHÍNH PHỦ


Đối nội

Củng cố
CQ

Giệt giặc
đói

Đối ngoại

Giệt giặc
dốt

.

Tài chính

Đối với quân
THDQ và tay sai

Kinh tế

Chính
trị

Đối với quân
Pháp

Trước

6/3

Sau 6/3

16


Hoàn cảnh lịch sử
dẫn đến việc ký Hiệp
định sơ bộ

Hiệp ước Hoa – Pháp
(28/2/1946)

Việt Nam đứng trước 2 sự lựa chọn
(GV phân tích tình huống)

Hòa

Đánh
HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6.3.1946

Nội dung

(1)
.

(2)

(3)


17


III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Mục đích của đề tài là phát huy tinh thần tự chủ của học sinh khi học lịch sử.
Đề tài nhằm khắc phục tình trạng “ thầy giảng, trò nghe”, “thầy đọc, trò chép”.
Kiến thức đã có trong sách giáo khoa. Điều quan trọng đề tài khai thác một khía
cạnh mới, một con đường để đưa các em tiếp cận một cách có hiệu quả, khắc phục
tình trạng chán học, ngại học lịch sử như hiện nay.
Từ cách làm trên tôi thấy rằng mình đã thành công bước đầu, phần nào đã
khắc phục được sự uể oải, nhàm chán trong giờ học Lịch sử đối với học sinh và
ngay cả bản thân giáo viên.
1. Đối với bản thân:
Khi vận dụng sơ đồ trong một số giờ dạy, bản thân cảm thấy giờ dạy trôi đi
rất thoải mái, rất nhẹ nhàng và thực hiện giờ dạy bảo đảm sư tương tác.
2. Đối với học sinh
Về mặt giáo dưỡng
Phát huy được tính tự chủ trong cách tiệp nhận và khai thác bài học. Tạo sự lôi
cuốn trong học sinh, các em rất hào hứng, tập trung , tinh thần xây dựng bài cao.
Học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của bài học, ghi nhớ sự kiện một
cách nhanh chóng và lo gic. Qua kiến thức được trình bày, giúp học sinh hình
thành và phát triển tư duy, so sánh, tổng hợp, đánh giá.
Về mặt giáo dục
Học sinh đã tránh được thói ỷ lại và phần nào đã khẳng định được cái tôi trong
quá trình học tập.
C. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài
Theo kinh nghiệm của bản thân và đánh giá của các động nghiệp, nhất là
những giáo viên tham gia dạy khối C thì đây là một đề tài có ý nghĩa thiết thực. Nó

giúp giáo viên chủ động trong giờ dạy và giúp học sinh chủ động trọng giờ học.
Đề tài này có ý nghĩa góp phần tìm cách đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Để phát triển tư duy độc lập
sáng tạo cho học sinh.
Thông qua các sơ đồ kết hợp các câu hỏi tình huống có vấn đề, bản thân đã
phát hiện được nhiều học sinh có năng lực tư duy thực sự về môn Lịch sử.

18


Truyền thụ kiến thức một chiều sẽ làm cho bài học thụ động và khô khan. Đề
tài này đã góp phần khắc phục được hiện tượng trên. Nó thực sự đưa lại làm cho
học sinh trí tò mò và ý thức tự chủ khám phá kiến thức trong sách giáo khoa.
Trong quá trình vận dụng đề tài vào giảng dạy, bản thân đã thu được những kết quả
khả quan và được đông đảo học sinh tín nhiệm.
2. Khả năng ứng dụng của đề tài :
Việc áp dụng đề tài vào thực tiễn rất dễ dàng. Khả năng ứng dụng , phổ biến,
nhân rộng đề tài giữa các giáo viên giảng dạy lịch sử rất nhanh chóng.
Đề tài có thể áp dụng vào tất cả các bài học lịch sử ở trường phổ thông, kể cả
các bài khai thác lược đồ. ngoài ra có thể thực hiện ở các tiết ôn tập, dạy và học
thêm. Đề tài không chỉ vận dụng trong chương trình lớp 12 mà còn cả lịch sử lớp
11, lớp 10.
3. Bài học kinh nghiệm
Sau khi áp dụng đề tài vào thực tiễn tôi nhận thấy yếu tố đưa lại thành công là
giáo viên phải thực sự tâm huyết với bộ môn. Sự nhiệt huyết của giáo viên sẽ làm
chuyển biến nhận thực của học sinh về bộ môn lịch sử. Nhất là trong thực trạng
hiện nay đối với môn lịch sử ở các trường THPT.
Giáo viên phải biết sử dụng và khai thác công nghệ thông tin phục vụ cho bài
giảng. Bởi vì đề tài cũng có thể vận dụng khi dạy các chiến dịch quân sự có lược
đồ.

Việc sử dụng sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học Lịch sử sẽ góp phần làm
cho học sinh tích cực hơn trong giờ học, chủ động chiếm lĩnh kiến thức trong học
tập. Vì vậy, học sinh nắm được kiến thức một cách nhanh nhất và nhớ kiến thức lâu
hơn.
Tuy nhiên việc sử dụng sơ đồ hóa kiến thức cần tránh lạm dụng, cần xác định
một các linh hoạt và hiệu quả trong dạy một mục, một bài hay một đối tượng học
sinh cụ thể. Sử dụng sơ đồ kiến thức cần kết hợp nhuần nhuyễn với các phương
pháp dạy học khác để nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân sau nhiều năm dạy học lịch sử
tại trường THPT. Đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót, tôi
mong đợi được Hội đồng khoa học , các đồng nghiệp đánh giá và góp ý để đề tài
này có tác dụng thiết thực, góp phần lấy lại vị thế của môn Lịch sử trong bối cảnh
hiện nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
19


XÁC NHẬN CỦA HIỆU
TRƯỞNG NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không
sao chép nội dung của người khác.

Người viết sáng kiến

LÊ THỊ HỒNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Chuẩn kiến thức kỹ năng môn Lịch sử-NXB giáo dục

2.Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học phổ thông. NXB Giáo dục
7/2007.
3.Lịch sử Việt Nam đại cương, tập III, NXB Giáo dục năm 1998.
4.Sách giáo khoa lịch sử lớp 12- NXB giáo dục
5.Sách giáo viên-Lịch sử lớp 12- NXB giáo dục
6.Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Lịch sử (lớp 10,11,12)- NXB giáo dục 2007.

20



×