Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy bài chiến tranh thế giới thứ hai 1939 1945 (lớp 11 chương trình chuẩn) thông qua việc sử dụng câu hỏi và khai thác kênh hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.06 KB, 21 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngay từ thời cổ đại các nhà sử học đã khẳng định: Lịch sử là thầy dạy
của cuộc sống, là bó đuốc soi đường đi đến tương lai. Do đó, cùng với tất cả
các môn học khác việc dạy học Lịch Sử có ý nghĩa thực sự quan trọng, nó có
nhiều ưu thế trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, tri thức, thẩm mĩ với thế hệ
trẻ. Vì vậy đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến
thức đã học vào cuộc sống 1.
Tuy nhiên, tình trạng học Sử của học sinh hiện nay là một điều đáng
báo động. Học sinh không thích học Sử, vô cảm trước Lịch Sử, hiểu Lịch Sử
lơ mơ thậm chí có nhiều em còn “mù Lịch Sử” và đã có nhiều câu chuyện bi
hài cười ra nước mắt về việc học Sử, hiểu biết Lịch Sử của học sinh. Nguyên
nhân của thực trạng trên có nhiều lí do khác nhau, theo tôi tựu chung lại có
mấy lý do sau: Thứ nhất, Sách giáo khoa Lịch sử mang tính hàn lâm, chưa
hấp dẫn, kiến thức còn dàn trải, nặng nề.Thứ hai, tác động tiêu cực của cơ
chế thị trường dẫn đến học sinh chỉ tập trung học những môn thi vào các
trường đại học sau này ra kiếm được nhiều tiền.Thứ ba, lối dạy Lịch Sử vẫn
chủ yếu thầy nói trò nghe làm cho chất lượng bộ môn không cao.Thứ tư, vấn
đề thi cử đánh giá như hiện nay cũng ảnh hưởng tới chất lượng dạy học Lịch
Sử....Để giờ học Lịch Sử trở nên hấp dẫn với học sinh, phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của các em, đòi hỏi giáo viên Lịch Sử phải biết kết
hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau trong đó biện pháp sử
dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình trong dạy học Lịch Sử là điều
rất cần thiết. Sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình trong qúa trình
dạy học giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn bản chất sự kiện Lịch Sử, là phương
tiện để hình thành khái niệm rút ra quy luật, bài học Lịch Sử, thúc đẩy tư duy
nhận thức, kích thích tính tò mò, óc tìm tòi, phân tích, so sánh, khái quát hóa
của học sinh làm cho giờ học thêm sinh động và hấp dẫn.
Tuy nhiên, trong thực tế dạy và học ở các trường Trung học phổ thông
trong tỉnh nói chung và trường Trung học phổ thông Đặng Thai Mai nói riêng,
việc sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình còn nhiều hạn chế, chưa


đem lại hiệu quả như mong muốn. 1Vì vậy trong quá trình tham gia giảng dạy
trên lớp, bản thân tôi đã tìm tòi, thực hiện một số giải pháp nhằm khai thác hiệu
quả những kênh hình, sử dụng hệ thống câu hỏi và đã thu được kết quả rất khả
quan. Do khuôn khổ có hạn nên trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đề cập
đến việc sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình khi dạy bài Chiến
tranh thế giới thứ hai 1939 – 1945 lớp 11 chương trình chuẩn. Đây là một bài
dài, nhiều vấn đề, sự kiện lịch sử. Trong quá trình giảng dạy, nếu giáo viên
không đổi mới phương pháp dạy học, chắt lọc kiến thức sẽ dẫn đến giờ học nặng
1

Ghi chú:
- Ở mục 1: Đoạn “ Ngay từ thời …vào cuộc sống” tác giả tham khảo từ TLTK số 1.

1


nề, khiến các em mệt mỏi ngại học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích mà đề tài này hướng đến chính là để nâng cao hiệu quả bài
học lịch sử qua việc sử dụng câu hỏi và khai thác kênh hình. Làm tăng hứng
thú học tập cho học sinh, giúp các em yêu thích môn học, khơi dậy khả năng
tư duy, sáng tạo của học sinh. Từ đó giáo dục cho các em lòng tự hào về lịch
sử dân tộc và nhân loại tiến bộ. Đồng thời, tôi cũng mong muốn được chia sẻ
với các bạn đồng nghiệp những kinh nghiệm trong thực tế giảng dạy của mình
nhằm nâng cao hiệu quả giờ học Lịch sử, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo
dục đào tạo đặt ra cho bộ môn của chúng ta.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 11 trường Trung
học phổ thông Đặng Thai Mai ứng dụng cụ thể qua bài: Chiến tranh thế giới
thứ hai 1939 - 1945 lớp 11 chương trình chuẩn.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được kết quả nghiên cứu tôi dựa trên tinh thần đổi mới phương
pháp dạy học mà ngành giáo dục đang tiến hành và dựa trên thực tế giảng dạy.
Tôi đã vận dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tài liệu,
phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến đồng nghiệp ...
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và
nhà nước ta đã xác định vấn đề giáo dục là quốc sách. Đầu tư cho giáo dục chính
là sự đầu tư cho tương lai. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước, nền giáo dục
nước ta đang từng bước đổi mới cả về nội dung và phương pháp. Về phương
pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã được công nhận là phương pháp tối
ưu, trong đó việc sử dụng câu hỏi và khai thác kênh hình vào giảng dạy là một
trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao chât lượng giáo dục 1. Nhưng
vấn đề là dạy như thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh là một việc khó
đòi hỏi người giáo viên phải luôn sáng tạo, tìm tòi đầu tư, chuẩn bị bài giảng
công phu. Do đó, không ít giáo viên còn ngại đổi mới mà vẫn dạy theo phương
pháp truyền thống: dạy chay nặng thuyết trình, thầy đọc trò ghi, hay biến các bài
học lịch sử thành bài chính trị khô khan, cứng nhắc làm suy giảm chất lượng
môn học. Nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc áp dụng các dạng câu hỏi và
khai thác kênh hình vào giảng dạy. 2Học sinh thì không hứng thú trong học tập,
không hiểu được bản chất của sự kiện lịch sử, không biết tổng hợp, hệ thống các
vấn đề kiến thức cơ bản, lúng túng trong cách trình bày, không biết kết nối các
sự kiện, nhân vật thành nhóm kiến thức để tìm ra quy luật và bài học lịch sử. Mặt
2

Ghi chú:
- Ở mục II.1: Đoạn “Trong bối cảnh… giáo dục” tác giả tham khảo từ TLTK số 1.

2



khác hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng giáo án điện tử đang
được nhiều nhà giáo dục quan tâm. Đối với bộ môn lịch sử việc sử dụng những
đoạn phim tư liệu, nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ học rất dễ dàng gây hứng thú
học tập cho học sinh. Tuy nhiên việc sử dụng công nghệ thông tin chưa được phổ
biến do nhiều yếu tố như: kĩ năng vi tính của giáo viên chưa tốt, thiết bị, đồ dùng
dạy học còn thiếu… Cho nên người giáo viên phải chủ động tìm ra phương pháp
thích hợp với từng bài học, với đặc điểm tình hình của trường học.
2. Thực trạng của vấn đề
Nhìn chung vấn đề học tập của các em học sinh ở trường Trung học
phổ thông về môn Sử còn rất hạn chế. Một thực trạng phổ biến nhất đối với
các em học sinh là việc học bài cũ 1 cách thụ động, học vẹt, khi ngồi học trên
lớp với một tinh thần gò bó, o ép cho nên dẫn đến tình trạng các em không
nắm được kiến thức lịch sử, khi kiểm tra bài cũ thì đa số các em không nhớ
hay quên mất 1 từ đầu câu thì sẽ quên hết nội dung kiến thức đã học. Một
thực trạng nữa là môn Lịch sử không những không được học sinh yêu thích mà
còn có học sinh ngại học, sợ học Sử, các em chỉ học đối phó lấy điểm trung bình,
vì thi mà phải học, là một môn học nặng nề vì phải nhớ nhiều, học thuộc. Điều
này làm cho những người có trách nhiệm trong nghành giáo dục - trực tiếp là giáo
viên phải “dở khóc dở cười” khi đọc bài thi tốt nghiệp, cao đẳng, đại học của học
sinh do các em hiểu sai Lịch sử. Vậy làm thế nào để các em học sinh không thụ
động, có say mê hứng thú học, nắm được kiến thức lịch sử đòi hỏi người giáo
viên phải tự sáng tạo, tự tìm tòi đầu tư cho bài dạy, tìm ra phương pháp thích
hợp với từng bài học. Nhưng trên thực tế không ít giáo viên còn đầu tư vào
bài giảng chỉ mang tính hình thức, phương pháp giảng dạy thì cũ kĩ … Bên
cạnh đó sự đầu tư cho đồ dùng dạy học phục vụ cho giảng dạy còn thiếu thốn
về tranh ảnh, máy móc…
Qua hơn 17 năm giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường THPT tôi nhận
thấy với mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học đang được tiến hành đồng bộ

và thu được nhiều thành tựu đáng kể. Trong quá trình giảng dạy với ý thức
vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh, vừa tiến
hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra được thực hiện thông qua
hỏi đáp với những câu hỏi phát triển tư duy học sinh trên lớp, kiểm tra 15
phút, kiểm tra 45 phút. Qua đó tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời được
những câu hỏi mang tính chất trình bày (hiểu và biết), còn những câu hỏi giải
thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức(vận dụng và vận dụng cao) thì các
em còn rất lúng túng khi trả lời.
3. Giải pháp thực hiện.
3.1. Sử dụng hệ thống câu hỏi khi dạy bài “Chiến tranh thế giới thứ hai
1939 – 1945”.
3.1.1. Vị trí ý nghĩa của việc sử dụng câu hỏi

3


Câu hỏi có ý nghĩa rất to lớn đối với quá trình phát triển tư duy nói
chung nhất là tư duy độc lập của học sinh. Mặt khác câu hỏi còn ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình nhận thức của học sinh. thông qua các thao tác của tư
duy như đối chiếu, so sánh, phân tích…vạch ra những dấu hiệu bản chất.
những câu hỏi “cái gì”, “Tại sao”, “Như thế nào” … có tác dụng kích thích óc
tìm tòi sáng tạo của học sinh.
Câu hỏi còn giúp rèn luyện ý thức học tập, lòng ham mê hiểu biết, say mê
sáng tạo, nêu cao tính tích cực chủ động trong nghiên cứu, học tập từ đó hình
thành niềm tin ở các em, khi đó kiến thức được khắc sâu trong óc các em.
Câu hỏi còn là phương tiện quan trọng giúp giáo viên chỉ đạo, củng cố
và kiểm tra nhận thức của học sinh. Thông qua câu hỏi giáo viên nắm bắt kết
quả lĩnh hội kiến thức của các em. Việc kiểm tra kiến thức còn giúp giáo viên
tìm ra những phương pháp tác động cho phù hợp với nhận thức, trình độ của
học sinh và điều chỉnh quá trình sư phạm của mình.

Như vậy có thể nói rằng câu hỏi có vị trí, ý nghĩa to lớn trong việc phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh, khi sử dụng câu hỏi trong dạy học
theo hướng tích cực hóa người học sẽ tránh được tình trạng học sinh thụ động
tiếp thu kiến thức.
3.1.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh khi dạy bài “Chiến tranh thế giới thứ
hai 1939 – 1945” lớp 11 cơ bản.
Căn cứ vào vị trí, mục đích, nội dung của bài có thể đặt ra các loại câu hỏi
theo 4 mức độ sau:
Mức độ

Câu hỏi

Nhận biết Câu 1: Vì sao Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ? Kẻ chủ mưu
gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai là ai?
Câu 2: Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) mang tính
chất gì? Kết cục của nó ra sao?
Câu 3: Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945 ) có ba
chiến thắng lớn của hồng quân Liên Xô. Đó là những chiến thắng
nào? Em hãy trình bày những nét chính về ba chiến thắng đó?
Hiểu

Câu 1: Phân tích nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai?
Câu 2: Từ diễn biến của chiến tranh thế giới thứ hai, hãy rút ra tác
dụng, ý nghĩa ba chiến thắng lớn của Hồng quân Liên Xô đối với
toàn cục cuộc chiến tranh?
4



Câu 3: Tại sao nói việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn
bản tính chất, cục diện của cuộc chiến tranh?
Câu 4: Vì sao nói chiến thắng Xtalingrat đã làm xoay chuyển cục
diện của chiến tranh thế giới thứ hai?
Vận dụng Câu 1: Em đánh giá như thế nào về sự kiện Muy-ních?
Câu 2: So sánh tính chất của Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
tranh thế giới thứ hai?
Câu 3: Từ kết cục của Chiến tranh thế giới thứ hai, em hãy rút ra
nhận xét?
Câu 4: Em hãy chứng minh những hành động quân sự và xâm lược
của phe phát xít trong những năm 30 của thế kỉ XX chính là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Vận dụng Câu 1 : Từ hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, hãy rút ra
cao
bài học cho cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới hiện nay?
Câu 2: Đánh giá vai trò của Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc tiêu diệt chủ
nghĩa phát xít?
Câu 3: Chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động như thế nào đến
tình hình Việt Nam trong giai đoạn 1939-1945?
Câu 4: Có nhận định cho rằng, kẻ tội phạm châm ngòi cho Chiến
tranh thế giới thứ hai là chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật Bản.
Nhưng các nước Anh, Pháp, Mĩ cũng phải chịu trách nhiệm một
phần về sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Ý kiến
của em về nhận định trên?
Câu 5. Đánh giá âm mưu và hành động của Mĩ khi ném bom
nguyên tử sát hại thường dân Nhật Bản trong chiến tranh thế giới
thứ hai.
3.1.3. Một số nguyên tắc khi sử dụng hệ thống câu hỏi
Để nâng cao hiệu quả sử dụng câu hỏi cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Một là: Đảm bảo tính chính xác, khoa học. Câu hỏi phải bám sát nội

dung chương trình học, có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu. Đó là những
câu hỏi nêu được vấn đề cần đặt ra để có thể hiểu đúng, sâu sắc hơn sự kiện
Hai là: Đảm bảo tính sư phạm. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, bởi xét
đến cùng, mọi phương tiện dạy học dù hiện đại đến đâu thì cũng chỉ có thể phát
5


huy được tác dụng của mình nếu giáo viên có phương pháp sư phạm tốt. Nguyên
tắc sư phạm trong sử dụng câu hỏi được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Phù hợp với trình độ học sinh. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi phải
đảm bảo tính vừa sức, không quá dễ cũng không quá khó làm giảm hứng thú
của học sinh khi học tập.
- Sử dụng đúng mục đích. Mỗi một loại câu hỏi có một chức năng riêng
nên chúng phải được nghiên cứu cụ thể để sử dụng đúng mục đích, phù hợp
với yêu cầu bài học.
- Sử dụng đúng thời điểm. Khi nêu câu hỏi nhất định phải để cho học
sinh có thời gian để suy nghĩ để trả lời, học sinh khác có thể bổ sung và tranh
luận sau đó giáo viên mới nhận xét, tổng kết lại.
- Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm. Câu hỏi hợp lý, trọng tâm giúp học
sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những kiến thức được tìm hiểu.
- Lưu ý đến nhiều đối tượng học sinh trong lớp. Trong quá trình dạy
học, giáo viên đặt và sử dụng câu hỏi cần phải linh hoạt, tùy theo từng lớp và
từng đối tượng học sinh. Khi đặt câu hỏi cần ngắn gọn đơn giản, dễ hiểu, phù
hợp với tư duy của học sinh.
- Kết hợp với nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học khác như: kết hợp
với việc sử dụng đồ dùng trực quan, khai thác các nguồn tài liệu khác cùng
các thao tác sư phạm hợp lý để vận dụng linh hoạt trong giờ học góp phần
nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
Ba là: Đảm bảo tính truyền cảm. Trong quá trình tổ chức dạy học, khi
đặt ra câu hỏi người giáo viên cần có ngôn ngữ truyền cảm, có ngữ điệu rõ

ràng, có thái độ xúc cảm đối với các sự kiện hiện tượng lịch sử.
3.1.4. Kỹ năng sử dụng hệ thống câu hỏi
3.1.4.1. Phân loại hệ thống câu hỏi
Theo mục đích, hệ thống câu hỏi trong một bài học lịch sử hiện nay có cách
phân chia như sau:
- Câu hỏi kiểm tra bài cũ: mục đích là nhằm giúp học sinh liên hệ, nhớ
lại kiến thức cũ đồng thời tạo sự khởi động phấn khởi cho học sinh khi học
bài mới.
- Câu hỏi nhằm phát hiện, tái hiện kiến thức: nhằm để cung cấp nội
dung bài học.
- Câu hỏi phát triển tư duy: nhằm giúp học sinh rèn luyện thao tác tư
duy như so sánh, phân tích, tổng hợp… Vì những câu hỏi đó chỉ trả lời được
khi có sự liên hệ suy luận với những kiến thức đã học.
- Câu hỏi củng cố: thường là những câu hỏi ở cuối mỗi bài giúp học
sinh hệ thống kiến thức trong bài học. Giáo viên tùy theo bài học có thể mở
rộng liên hệ thực tiễn hiện nay.
6


Việc phân loại câu hỏi sẽ giúp cho giáo viên xác định các biện pháp sư
phạm để hướng học sinh lĩnh hội kiến thức, bởi mỗi loại câu hỏi thể hiện một
nội dung khác nhau thì phương pháp sử dụng cũng khác nhau.
3.1.4.2. Các bước tiến hành
Việc sử dụng câu hỏi phải được tiến hành theo các bước sau:
Bước1: Giáo viên cung cấp kiến thức hoặc gợi nhớ những nội dung lịch sử
đã học trước khi tìm hiểu nội dung mới.
Bước2: Giáo viên đưa ra câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng dẫn học sinh
tìm hiểu nội dung bài học.
Bước 3: Học sinh trình bày, trả lời câu hỏi mà giáo viên đã nêu.
Bước 4: Học sinh khác nhận xét, bổ sung ý kiến. Giáo viên kết luận, đánh giá.

3.1.5. Cách sử dụng hệ thống câu hỏi.
Để sử dụng tốt các câu hỏi trên vào bài giảng giúp học sinh phát huy được tính tích
cực, chủ động khi lĩnh hội kiến thức mới giáo viên cần vận dụng cách dạy học nêu
vấn đề để học sinh tiện theo dõi. Ngay khi dẫn dắt vào bài mới giáo viên nêu bật
được những vấn đề cơ bản cần giải quyết ghi trên bảng phụ:
- Vì sao cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ?
- Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra như thế nào?
- Kết cục của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ra sao?
Với cách đặt câu hỏi này giáo viên đã kích thích được niềm đam mê học tập của
học sinh. Nhưng các em chưa thể trả lời được mà phải theo dõi bài giảng để trả lời.
Mục I: Con đường dẫn đến Chiến tranh
- GV yêu cầu HS đọc sách giáo khoa trang 90, 91 kết hợp với việc
giáo viên gợi cho HS nhớ lại các bước phát triển thăng trầm của CNTB giữa
hai cuộc Chiến tranh thế giới. Yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi thứ nhất
“Bằng những kiến thức đã học kết hợp với sách giáo khoa em hãy cho cô
biết nguyên nhân nào dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai?”.
Để giúp học sinh trả lời được giáo viên có thể sử dụng câu hỏi gợi mở:
+ Trong những năm 1931 – 1937 các nước phát xít đã có những hành
động xâm lược nào? Những hành động đó nói lên điều gì?
+ Trước chính sách bành trướng xâm lược của phe phát xít, các nước
lớn có thái độ như thế nào? Em có nhận xét gì về những thái độ đó?
HS đại diện trả lời, HS khác nhận xét, GV hướng dẫn HS chỉ ra được
nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai:
+ Sự phát triển không đều của CNĐQ …
+ Chính sách xâm lược của các nước phát xít.
+ Thái độ của các nước lớn (Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ)
7


- Sau đó GV yêu cầu HS trả lời câu hỏi sau: Có ý kiến cho rằng: Anh,

Pháp, Mĩ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc để chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ. Em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?
Mục II: Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và lan rộng ở Châu Âu
(9/1939 – 6/1941)
GV hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ “Mặt trận Xô – Đức” để
hoàn thành bảng niên biểu về quá trình xâm chiếm châu Âu của phát xít Đức
từ 9/1939 – 6/1941.
Học sinh hoàn thiện và trình bày kết quả. GV nhận xét và tổng hợp:
Thời gian

Chiến
trường

Kết quả

9/1939 đến Châu Âu
6/1941

Chiến tranh bùng nổ, Đức thôn tính và thống
trị hầu hết các nước châu Âu.

9/1940

Bắc Phi

Đức , I-ta-li-a đánh chiếm Bắc Phi.

6/1941

Liên Xô


Đức bất ngờ tấn công và nhanh chóng tiến sâu
vào lãnh thổ của Liên Xô theo ba hướng.

Mục III. Chiến tranh lan rộng khắp thế giới (6/1941 – 11/1942)
GV hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ kết hợp với sách giáo khoa
trình bày những nét chính về diễn biến Chiến tranh thế giới thứ hai từ 6/1941
đến tháng 11/1942 và yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi:
+ Tại sao nói việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn bản tính chất,
cục diện của cuộc chiến tranh?
HS đại diện trả lời, HS khác nhận xét, GV nhận xét, chốt ý:
Trước khi Liên Xô tham chiến cuộc Chiến tranh là cuộc tranh giành
đất đai, của cải, xâm lược phi nghĩa.Từ khi Liên xô tham chiến trở thành
cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và chống chủ nghĩa phát xít, cuộc chiến
tranh trở thành chính nghĩa.
Mục IV. Quân đồng minh chuyển sang phản công. Chiến tranh thế giới
thứ hai kết thúc (11/1942 – 8/1945).
GV sử dụng bản đồ CTTG II tường thuật cho HS về trận phản công của
hồng quân Liên Xô và yêu cầu HS trả lời các câu hỏi sau:
+ Vì sao nói chiến thắng Xtalingrat đã làm xoay chuyển cục diện của
chiến tranh thế giới thứ hai?
+ Từ diễn biến của chiến tranh thế giới thứ hai, hãy rút ra tác dụng, ý
nghĩa ba chiến thắng lớn của Hồng quân Liên Xô đối với toàn cục cuộc chiến
tranh: Chiến thắng Mátxcơva (12/1941), Chiến thắng Xtalingrat (2/1943), Chiến
thắng phát xít Đức (5/1945).
8


+ Trình bày ba chiến thắng lớn của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh
thế giới thứ hai (1939 – 1945 ).

+ Đánh giá vai trò của Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít?
Mục V: Kết cục của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Dạy mục này giáo viên sử dụng câu hỏi dưới dạng thảo luận nhóm,
giáo viên chia cả lớp làm 4 nhóm với 4 câu hỏi như sau:
+ Nhóm 1: Các cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại hậu quả như
thế nào? Kết cục của Chiến tranh gợi cho em suy nghĩ gì?
+ Nhóm 2: Nêu đặc điểm và tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới
thứ hai? Trước nguy cơ chiến tranh em có thái độ như thế nào?
+ Nhóm 3: So sánh kết cục của Chiến tranh thế giới thứ nhất với kết
cục của Chiến tranh thế giới thứ hai?
+ Nhóm 4: Đánh giá vai trò của Liên Xô và các nước đồng minh
trong việc tiêu diệt Chủ nghĩa phát xít?
Câu hỏi thảo luận trong mục này có thể khai thác tốt tư duy của học
sinh sau khi các em tìm hiểu về diễn biến của chiến tranh. Giáo viên sử dụng
câu hỏi thảo luận trong 4 – 5 phút rồi cho đại diện từng nhóm trả lời, học
sinh nhóm khác bổ sung, cuối cùng giáo viên chốt ý.
Để khắc sâu hơn nội dung của bài học giáo viên yêu cầu HS trả lời câu hỏi:
+ Từ hậu quả của cuộc chiến tranh, hãy rút ra bài học cho cuộc đấu
tranh bảo vệ hòa bình thế giới hiện nay?
+ Chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động đến tình hình Việt Nam
trong giai đoạn 1939 – 1945 như thế nào?
Trên đây là cách tôi vận dụng hệ thống câu hỏi khi dạy bài“Cuộc chiến
tranh thế giới thử hai 1939 - 1945”. Các câu hỏi này gắn bó mật thiết với nhau
tạo điều kiện cho học sinh đi sâu tìm hiểu nội dung bài giảng. Khi sử dụng
câu hỏi giáo viên kết hợp nhuần nhuyễn với khai thác kênh hình, tức là sử
dụng đồng bộ các phương pháp dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực,
chủ động trong hoạt động nhận thức của học sinh.
3.2. Khai thác kênh hình khi dạy bài “Chiến tranh thế giới
thứ hai 1939 – 1945”.

3.2.1. Vị trí ý nghĩa của việc sử dụng kênh hình trong việc phát huy tính
tích cực của học sinh.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp khai thác kênh hình góp phần quan
trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình
trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh. Kênh hình là chỗ dựa để hiểu sâu sắc
9


bản chất của sự kiện lịch sử, là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các
khái niệm lịch sử quan trọng nhất, giúp cho học sinh nắm vững các quy luật
của sự phát triển xã hội.
Kênh hình có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu
những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Cùng với việc góp phần tạo biểu
tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan còn phát triển khả
năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất
cứ loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét phán đoán, hình
dung quá khứ lịch sử được phản ánh minh họa như thế nào.
Kênh hình còn có ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mĩ rất lớn. Ngắm
nhìn một bức tranh diễn tả cuộc đấu tranh cách mạng học sinh có những tình cảm
mạnh mẽ về lòng yêu mến những anh hùng, chiến sĩ cách mạng, lòng quý trọng lao
động và nhân dân lao động, sự căm thù bọn xâm lược và chiến tranh…
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, kênh
hình góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học
tập cho học sinh. Nó là chiếc cầu nối giữa quá khứ với hiện tại.
3.2.2. Những loại kênh hình khi dạy bài “Chiến tranh
thế giới thứ hai”.
Từ những kiến thức lịch sử cụ thể của bài “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939
- 1945” tôi đã chuẩn bị một số đồ dùng cần thiết phục vụ cho bài giảng như sau:
3.2.2.1. Lược đồ Đức, Italia gây chiến và bành trướng từ 10/1935 đến 8/1939.
3.2.2.2. Lược đồ mặt trận Xô – Đức.

3.2.2.3 Lược đồ mặt trận châu Á – Thái Bình Dương.
3.2.2.4. Ảnh hội nghị Muynich.
3.2.2.5. Ảnh bom nguyên tử 1945 ở Nhật Bản.
Trong quá trình giảng dạy, tùy từng đối tượng học sinh có thể sử dụng hết hoặc
chỉ một vài kênh hình nêu trên
3.2.3. Một số nguyên tắc khi sử dụng kênh hình
Để nâng cao hiệu quả sử dụng kênh hình cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Một là: Đảm bảo tính chính xác, khoa học. Khai thác chính xác nội
dung lịch sử phản ánh trong kênh hình; không xuyên tạc, bóp méo, đoán mò.
Nội dung đưa ra phải ngắn gọn, súc tích, không quá sức đối với học sinh.
Hai là: Đảm bảo tính trực quan. Kênh hình khi đưa ra sử dụng phải
được trình bày đẹp, rõ ràng, dễ quan sát.
Ba là: Đảm bảo tính sư phạm. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, bởi xét
đến cùng, mọi phương tiện dạy học dù hiện đại đến đâu thì cũng chỉ có thể phát

10


huy được tác dụng của mình nếu giáo viên có phương pháp sư phạm tốt. Nguyên
tắc sư phạm trong khai thác kênh hình được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Phù hợp với trình độ học sinh. Việc khai thác nội dung kênh hình phải
đảm bảo tính vừa sức, không quá dễ cũng không quá khó làm giảm hứng thú
của học sinh khi học tập.
- Sử dụng đúng mục đích. Mỗi một loại kênh hình phải được nghiên
cứu cụ thể để sử dụng đúng mục đích, phù hợp với yêu cầu bài học.
- Sử dụng đúng thời điểm. Giáo viên chỉ đưa ra kênh hình khi trình bày
nội dung có liên quan và cần thiết khi phải sử dụng. Không đưa ra quá sớm
cũng không đưa ra quá muộn
- Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm. Câu hỏi hợp lý, trọng tâm, có ý
nghĩa rất quan trọng, nó không những phát huy được tính tích cực, phát triển

khả năng tư duy của học sinh; mà còn giúp học sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những
kiến thức được tìm hiểu.
- Lưu ý đến nhiều đối tượng học sinh trong lớp. Khi khai thác lược đồ
giáo viên phải có khả năng bao quát, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh
trong lớp. Đối với học sinh trung bình, yếu, giáo viên yêu cầu ở mức đơn giản
(quan sát, miêu tả) hoặc dùng câu hỏi gợi mở để đẫn dắt các em trả lời. Còn
đối với học sinh khá, giỏi có thể yêu cầu nhận xét, đánh giá, tổng hợp...
- Kết hợp với nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học khác như: Nội dung
thuyết minh sinh động, biểu cảm, hấp dẫn của giáo viên, phương pháp nêu
vấn đề, thảo luận nhóm.
3.2.4. Kỹ năng khai thác, sử dụng kênh hình trong dạy học Lịch sử.
3.2.4. 1. Phân chia các loại kênh hình
Xét theo tính chất, hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử hiện
nay, gồm có hai loại chính sau:
- Loại 1: Bản đồ, lược đồ lịch sử.

- Loại 2: Hình vẽ và tranh ảnh lịch sử.
Việc phân loại các kênh hình sẽ giúp giáo viên xác định các biện pháp sư
phạm để hướng dẫn học sinh khai thác, lĩnh hội tri thức, bởi mỗi loại kênh hình
thể hiện một nội dung khác nhau, nên phương pháp khai thác cũng khác nhau.
3.2.4.2. Các bước để tiến hành khai thác kênh hình:
Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh, ảnh, lược đồ... để xác định một
cách khái quát nội dung tranh, ảnh cần khai thác.
Bước 2: Giáo viên đưa ra câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng dẫn học
sinh tìm hiểu nội dung tranh ảnh, lược đồ...
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh, ảnh, lược đồ sau
khi đã quan sát, kết hợp gợi ý của giáo viên và tìm hiểu nội dung trong bài học.
11



Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của học sinh, hoàn
thiện nội dung khai thác kênh hình cho học sinh .
3.2.5. Cách sử dụng kênh hình.
3.2.5.1. Lược đồ Đức – Italia gây chiến tranh và bành trướng từ tháng
10/1935 đến tháng 8/1939 8.

Lược đồ này được sử dụng ở mục 2: Từ hội nghị Muy ních đến chiến tranh
thế giới. Lược đồ này cho HS thấy 1 số hành động gây chiến và bành trướng của
Đức, Italia ở châu Âu và châu Phi từ 1935 – 1939 và chính sách nhượng bộ phát
xít của Anh, Pháp để đổi lấy hòa bình.3Trước hết GV treo lược đồ ở vị trí thuận lợi
cho cả lớp quan sát hoặc phóng to lên màn hình giới thiệu tên lược đồ và các kí
hiệu trên đó như: Màu đỏ (
) chỉ các nước thuộc phe trục, màu vàng (
)
chỉ liên minh của Pháp, màu nâu (
) chỉ nước bị phe trục thôn tính, mũi tên
nhỏ màu đen (
) chỉ phe trục can thiệp, mũi tên to màu đen (
) chỉ phe
trục xâm lược, nét đứt (-----) chỉ nước Đức gây hấn.
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ kết hợp tìm hiểu nội
dung sách giáo khoa trả lời các câu hỏi : “Hành động của Đức – Italia có gây
nguy hiểm cho Anh, Pháp và đồng minh của họ không?”, “Có kí hiệu nào
trên lược đồ chứng tỏ Anh, Pháp ngăn cản Đức – Italia không? Hãy giải
thích diều này?”,” Em có nhận xét gì về hành động gây chiến và bành trướng
của Đức – Italia từ năm 1935 – 1939?”
3

Ghi chú:
- Ở mục 3.2.5.1: Tác giả tham khảo từ TLTK số 8.


12


Học sinh trả lời câu hỏi thông qua tìm hiểu nội dung lược đồ. Cuối
cùng giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn chỉnh kiến thức bài học:
Sau khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 cùng với Nhật ở Châu Á, Đức và
Italia liên tiếp gây xung đột bành trướng ở Âu – Phi, tiến tới gây Chiến tranh
chia lại thế giới. Mỗi nước có hành động riêng nhưng cũng có hành động
chung như việc Đức và Italia cùng can thiệp vào Tây Ban Nha. Sau sự kiện
này Italia gia nhập hiệp ước chống Quốc tế cộng sản (1937) cùng Đức, Nhật
kết thành khối liên minh phát xít. Năm 1938 Italia công khai ủng hộ Đức
trong vụ Xuyđét nhằm thôn tính Tiệp Khắc. Trước hành động nói trên của
Đức, Italia, hai quốc gia hàng đầu châu Âu có trách nhiệm giữ gìn hòa bình
là Anh, Pháp đã nhượng bộ phát xít.
3.2.5.2. Lược đồ mặt trận Xô – Đức.

Trước hết GV treo lược đồ ở vị trí thuận lợi cho cả lớp quan sát hoặc
phóng to lên màn hình giới thiệu tên lược đồ và các kí hiệu trên đó như: Mũi
tên màu đỏ (
) chỉ hướng tiến công của hồng quân Liên Xô, mũi tên màu
xanh (
) chỉ hướng tiến công của phát xít Đức, ngôi sao màu đỏ (
)
chỉ thắng lợi lớn của hồng quân Liên Xô.
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ kết hợp tìm hiểu nội dung sách
giáo khoa trả lời các câu hỏi:
+ Cuộc tấn công của phát xít Đức vào lãnh thổ Châu Âu diễn ra như
thế nào? Kết quả ra sao?
+ Trình bày ba chiến thắng lớn của Hồng quân Liên Xô trong Chiến

tranh thế giới thứ hai?
13


+ Từ diễn biến của chiến tranh thế giới thứ hai, hãy rút ra tác dụng, ý nghĩa
ba chiến thắng lớn của Hồng quân Liên Xô đối với toàn cục cuộc chiến tranh?
(Câu hỏi 1,2, giáo viên có thể giành cho đối tượng học sinh trung bình. Câu
hỏi 3 giành cho học sinh khá giỏi). Sau khi học sinh trả lời, giáo viên xây
dựng đoạn tường thuật, kết hợp với sử dụng lược đồ như sau:
Kế hoạch tấn công, gây chiến tranh cũng như tránh khỏi sự ràng buộc
của quốc tế (rút khỏi Hội Quốc Liên) và của phát xít Đức, Hítle kí kết với
Nhật, Italia tạo thành phe trục phát xít Beclin - Tôkyô - Rôma. Đức phát động
chiến tranh chia lại thế giới.
Mở đầu cho hành động đó, ngày 1/9/1939 Đức bất ngờ tấn công Balan. Anh,
Pháp sau hai ngày đã tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Trong khi đó, ở phía Tây nước Đức xảy ra một cuộc “Chiến tranh kỳ
quặc”. Hiện tượng “tuyên” mà không “chiến” của quân đội Anh, Pháp đối
với quân Đức kéo dài 8 tháng (9/1939 đến 4/1940). Trong khi đó Liên Xô
cũng tranh thủ kí hiệp định Xô - Đức vào ngày 23/8/1939 không xâm phạm
lẫn nhau, Liên Xô đã mở rộng lãnh thổ về phía Tây từ 200 - 300 km.
Lợi dụng thái độ do dự của Anh, Pháp vào tháng 4/1940 Đức đưa quân
thôn tính các nước Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan, LúcXămBua. đến tháng
6/1940 đánh chiếm Pháp, chính phủ Pháp bỏ chạy ra nước ngoài, nước Pháp
nhanh chóng thất trận. Tháng 7/1940 quân Đức gây chiến với Anh bằng “kế
hoạch sư tử biển”, Đức đã dùng tàu ngầm giao chiến và đối phó với hạm đội
Anh. Nhưng vốn lớn mạnh bậc nhất thế giới về lực lượng hải quân bấy giờ, nên
Anh đã đập tan “kế hoạch sư tử biển” của phát xít Đức, buộc Đức rút quân, xoay
hướng tấn công, đồng thời để chuẩn bị địa bàn chiến lược tấn công Liên Xô, cuối
năm 1940 đầu 1941 quân Đức đánh chiếm các nước vùng Đông và Nam Âu,
Hungari, Rumani, Hi Lạp, Nam Tư... khống chế toàn bộ bán đảo Ban Căng.

Vậy chỉ trong một thời gian ngắn với khoảng hai năm, phát xít Đức làm
chủ toàn bộ châu Âu (trừ Anh và một số nước trung lập như: Thuỵ Sĩ... ).
Cuộc phản công của Hồng quân Liên Xô bắt đầu mùa hè năm 1942.
Ngày 21/8 trước sự tấn công của Đức, Hồng quân Liên Xô chuyển tuyến
phòng ngự bên ngoài Xtalingrat vào bên trong thành phố.
Ngày 19/11/1942, Hồng quân đã tấn công Xtalingrat. Pháo binh Xô
viết đã dội bão lửa xuống đầu quân Đức (ngày 19/11 được coi là ngày pháo
binh). Quân Đức từ thế bao vây đã chuyển sang thế bị bao vây. Cánh quân
Xô viết về mặt trận Tây Nam đánh lên nối liền với các đơn vị ở mặt trận
Xtalingrat. Mặt trận bao vây quân Đức ở Xtalingrat rộng tới 170 - 250 km.
Quân Đức không kịp tiếp viện, kể cả đường hàng không.
Ngày 2/2/1943 sau những đòn sấm sét của Hồng quân, hai đạo quân
tinh nhuệ của Đức bị đánh tan, trong đó 2/3 bị tiêu diệt, 1/3 bị cầm tù.
Nhân đà thắng lợi, Hồng quân tiến hành cuộc tổng tấn công trên mặt
trận rộng lớn trong khoảng thời gian hơn 4 tháng đẩy địch về phía tây 60014


700 km, tiêu diệt 112 sư đoàn. Tính chung 6 tháng của mặt trận Xtalingrat,
có hơn 1 triệu quân Đức bị loại khỏi vòng chiến đấu.
3.2.5.3. Lược đồ mặt trận châu Á – Thái Bình Dương

Lược đồ này giúp học sinh thấy rõ phạm vi bành trướng của Nhật (1937
– 1942) và nắm được diễn biến chính của chiến tranh Thái Bình Dương.
Trước hết GV treo lược đồ ở vị trí thuận lợi cho cả lớp quan sát hoặc
phóng to lên màn hình giới thiệu tên lược đồ và các kí hiệu trên đó như: Mũi
tên màu đỏ (
) chỉ quân Nhật tấn công, mũi tên màu xanh thẫm(
)
chỉ quân đồng minh phản công, mũi tên màu xanh lá cây (
) chỉ Liên xô

tấn công, ngôi sao (
) chỉ thành phố bị ném bom nguyên tử, hình (
) chỉ
trận đánh lớn, Máy bay (
) chỉ quân đồng minh oanh tạc, nét đứt
(---) chỉ phạm vi bành trướng tối đa của Nhật năm 1942.
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ kết hợp tìm hiểu nội
dung sách giáo khoa trả lời câu hỏi: “Diễn biến chính của chiến tranh Thái
Bình Dương diễn ra như thế nào? Kết quả ra sao?”
- Học sinh trả lời câu hỏi thông qua tìm hiểu nội dung lược đồ và hệ thống
câu hỏi gợi mở của giáo viên như: “Quá trình bành trướng của Nhật cho đến nhăm
1942 gồm những khu vực nào?”, “Dựa vào mũi tên màu đỏ em hãy mô tả việc
quân Nhật tấn công và thắng thế từ năm 1941 – 1942?”, “Dựa vào mũi tên màu
xanh thẫm em hãy mô tả việc quân đồng minh phản công quân Nhật?”
- Cuối cùng giáo viên nhận xét, bổ sung câu trả lời của học sinh.

15


- Giáo viên cũng có thể xây dựng đoạn miêu tả kết hợp với tường thuật
Chiến tranh Thái Bình Dương như sau:
Cuộc chiến này xuất phát từ nguyên nhân mục đích bành trướng của
Nhật Bản ở châu Á - Thái Bình Dương. Ở đây Nhật Bản bị hai đối thủ chính
ngăn cản là Liên Xô (ở phía bắc) và Mĩ (ở phía nam). Do đó sau khi Đức tấn
công Liên Xô, Nhật Bản quyết định tạm hoà hoãn ở phía Bắc để tiến hành
“Nam tiến”. Mặt khác, quan hệ Nhật - Mĩ ngày càng căng thẳng dẫn tới
chiến tranh, đặc biệt về vấn đề Trung Quốc, Đông Dương, đàm phán kéo dài
không kết quả, thủ tướng Nhật quyết định tiến hành chiến tranh.
Vào 13 giờ 20 phút (giờ Oasintơn) ngày 7/12/1941 cuộc chiến tranh
Thái Bình Dương đã bùng nổ bằng trận tập kích dữ dội của hạm đội Nhật

vào quân cảng Trân Châu của Hoa Kỳ. Theo kế hoạch của đô đốc Yamamôtô,
một đoàn tàu chiến Nhật có 6 tàu sân bay đã bí mật bất ngờ tấn công Trân
Châu Cảng, tiêu diệt gần hết hạm đội 7 của Mĩ trên Thái Bình Dương (18
hạm tàu cùng hơn 300 máy bay bị phá huỷ). Vụ Trân Châu Cảng khiến Mĩ và
Anh tuyên chiến với Nhật (8 / 12). Ba ngày sau Đức và Italia tuyên chiến với
Mĩ. Chiến tranh Thái Bình Dương chính thức bùng nổ.
Nhật mở các cuộc bành trướng trên quy mô rộng lớn ở Đông Nam Á
(Xingapo, Philipin,...), Ân Độ Dương, Tân Ghinê, trực tiếp uy hiếp Ôxtrâylia
trong thời gian ngắn từ tháng 12 - 1941 đến tháng 11 - 1942.
Vậy chỉ trong vòng 6 tháng, quân đội Nhật Bản đã đánh chiếm các thuộc
địa của Anh, Pháp, Mĩ, Hà Lan,... ở châu Á - Thái Bình Dương, thống trị gần 8
triệu km2 với 500 triệu dân. Tuy nhiên sau đó quân Nhật gặp những cuộc đánh trả
của nhân dân các nước này và sự phản công của quân đội Mĩ –Anh 5.4
3.2.5.4. Ảnh hội nghị Muynich8.

4

Ghi chú: - Ở mục 3.2.5.3: Đoạn “Cuộc chiến này … quân đội Mĩ –Anh” tác giả tham khảo từ TLTK số 5.
- Ở mục 3.2.5.4: Tác giả tham khảo từ TLTK số 8.

16


Đây là hội nghị gồm có các bên tham gia như Anh, Pháp, Đức, Italia
bàn về vấn đề Xuyđét của Tiệp Khắc.
Trước hết, GV cho HS quan sát toàn bộ bức ảnh, giới thiệu sơ lược và
gợi ý một số câu hỏi sau:
+ Em có nhận xét gì về sự kiện Muy ních?
+ Chính sách dung túng , nhượng bộ phát xít của Anh – Pháp được thể
hiện ở hội nghị Muy ních như thế nào? Hội nghị này thể hiện âm mưu gì của

chủ nghĩa đế quốc đối với Liên Xô.5
Sau khi học sinh khám phá bức tranh và trả lời các câu hỏi, giáo viên
nhận xét, phân tích và chốt ý như sau:
Sự kiện Muyních là đỉnh cao nhất của chính sách dung túng, nhượng
bộ, lôi kéo phát xít mà các nước phương Tây đã thi hành từ đầu để chống lại
Liên Xô. Ngày 30/9, Đức và Anh đã kí ở Muy ních một bản tuyên bố “không
xâm phạm lẫn nhau để giải quyết hòa bình các vấn đề tranh chấp”. Sau đó
một thời gian ngắn, một bản tuyên bố tương tự cũng được kí kết giữa Đức và
Pháp. Về thực chất Hội nghị Muy ních là một âm mưu nghiêm trọng nhằm
thành lập “mặt trận thống nhất của chủ nghĩa đế quốc quốc tế” chống Liên
Xô. Đây là lần thứ hai sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, các
nước đế quốc hầu như đã đạt được mục đích của chúng.
3.2.5.5. Ảnh bom nguyên tử 1945 ở Nhật Bản 8.

Thông qua bức tranh này giáo viên cần miêu tả cho học sinh thấy được cảnh
nổ và sức công phá của bom nguyên tử, hậu quả để lại của nó đối với Nhật Bản nói
riêng, lịch sử xã hội nói chung:
Ngày 6/8 và ngày 9/8/1945, bất ngờ Mĩ ném bom nguyên tử xuống hai thành
phố Hirôsima và Nagadaki của Nhật Bản làm cho hai thành phố này trong chốc lát
đã trở thành tro bụi.
5

Ghi chú:
- Ở mục 3.2.5.5: Tác giả tham khảo từ TLTK số 8.

17


Chúng ta biết rằng, bom nguyên tử được làm chủ yếu bằng uran, có nhiệt độ
trung tâm vùng nổ lên đến hàng chục triệu 0 0C và tạo ra áp suất hàng tỉ at.m (at

phốt phe). Lúc nổ ta thấy chớp sáng với ánh sáng màu da cam chói loà, một cầu lửa
xuất hiện nhanh chóng nổ to và bốc lên cao tạo thành hình giống tán nấm. Dưới
vùng nổ, bụi đất, cát bụi hút lên giống như một cơn lốc, xoắn theo từng cột bụi, nó
tạo thành chân nấm. Chân nấm kết hợp với tán nấm do cầu lửa nguội tạo thành cây
nấm, gọi là cây nấm nguyên tử.
Bầu không khí nơi bom nguyên tử nổ có màu đục lờ như một màn sương đặc
và mọi vật thể cách 1,5 km đều bị bốc cháy, bầu trời ngùn ngụt lửa, nước ở đây có
thể sôi sùng sục.6Sức tàn phá vô cùng mạnh mẽ và ghê gớm của bom nguyên tử, nó
để lại nhiều hậu quả không lường hết được. Nhưng tại hai thành phố Hirôsima và
Nagadaki hậu quả trực tiếp thật khủng khiếp, làm cho đường phố tắc nghẽn, những
người gần nhiệt độ nổ của bom chết cháy ngay tại chỗ, mặt mũi biến dạng hoàn
toàn, tan chảy ra thành nước, không thể nào phân biệt được mặt trước và mặt sau
của hộp sọ, tạo nên đống ngổn ngang nhà cửa, công trình thành phố cùng với những
đám thịt xương tung toé ở mọi nơi. Còn những người chịu ảnh hưởng và sức ép của
bom nguyên tử thì quần áo, thân thể cũng bị cháy và bỏng rát khắp nơi, tác động đến
hệ thần kinh làm cho người ta mất trí... Mặt khác, nó để lại di chứng “di truyền”
nhiễm độc phóng xạ cho thế hệ hậu sinh người Nhật, như sinh ra những đứa trẻ bị
dị tật, khuyết tật... Môi sinh cũng mất cân bằng sinh thái, gây ảnh hưởng sức khoẻ
cho mọi hoạt động sống. Ngày nay hậu quả vẫn còn tiếp diễn và nước Nhật đã phải
chi ra một khoản ngân sách lớn cho “phúc lợi xã hội”2.
Vậy Nhật là nơi đầu tiên trên thế giới của thế kỷ XX chịu trận “mưa nguyên
tử” mà Mĩ muốn thử nghiệm sức mạnh bom nguyên tử và khẳng định sức mạnh của
Mĩ.
Sau đó GV yêu cầu HS suy nghĩ trả lời các câu hỏi.
+ Việc Mĩ thả hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản lúc bấy giờ có cần
thiết không? Vì sao?
+ Mục đích của Mĩ khi thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản?
+ Chiến tranh thế giới thứ hai tác động đến Việt Nam như thế nào?
HS trả lời câu hỏi, GV nhận xét , bổ sung và kết luận.
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng

nghiệp và nhà trường.
4.1. Hiệu quả.
- Với bản thân, đồng nghiệp: Sự chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi, kênh
hình giúp giáo viên tiến hành bài dạy chủ động, sinh động hơn.
- Những tiến bộ của học sinh: Học sinh hào hứng trong giờ học, tiếp
thu bài tốt hơn, tích cực, chủ động trong việc nắm bắt kiến thức.
6

Ghi chú:
- Ở mục 3.2.5.5: Đoạn “Ngày 6/8 và ngày 9/8/1945 … phúc lợi xã hội” tác giả tham khảo từ TLTK số 2.

18


- Với phong trào giáo dục của nhà trường, ở địa phương: Tạo không khí
tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
4.2. Kết quả thực nghiệm.
Tôi đã tiến hành trên hai đối tượng lớp 11A4,11A5 tôi sử dụng phương
pháp truyền thống kết quả như sau:
Lớp Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung Bình
Yếu
11A4
35
2.9
28.6
55.1
13.4

11A5
40
0
32.5
57.5
10
Ở các lớp 11A1, 11A2, 11A3 sử dụng phương pháp này vào trong bài dạy kết
quả đạt được như sau:
Lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

Trung Bình

Yếu

11A1
11A2
11A3

35
14.3
57.1
22.8
5.8
42

16.7
52.4
26.1
4.8
42
9.5
59.5
23.8
7.2
Qua năm học đầu tiên 2016 – 2017 áp dụng đề tài vào thực tiễn dạy
học Lịch sử lớp 11 tại trường THPT Đặng Thai Mai, tôi đã thu được kết quả
rất đáng khích lệ. Đặc biệt trong các giờ học lịch sử đã được học sinh đón
nhận một cách hào hứng thậm chí còn rất nhiều học sinh mong đến giờ học
lịch sử để được tìm hiểu, khám phá. Đây là nguồn động viên khích lệ rất lớn
đối với giáo viên dạy lịch sử nhất là trong bối cảnh học sinh và phụ huynh
ngày càng có xu hướng chỉ chú trọng các môn tự nhiên như hiện nay.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Ngày nay muốn đào tạo con người khi vào đời là con người tự chủ,
năng động và sáng tạo thì phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc
chủ động, rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, sáng
tạo ngay trong lao động, học tập ở nhà trường.
Sẽ là rất sai lầm khi cho rằng Lịch sử là môn học không cần sáng tạo. Mặc
dù là bộ môn yêu cầu tính chân thực, chính xác cao, nhưng mỗi giáo viên có cách
truyền đạt kiến thức Lịch sử khác nhau, mỗi học sinh có cách tiếp cận khác nhau.
Môn Lịch sử sẽ trở nên phong phú, đa dạng, hấp dẫn nếu người thầy tâm huyết,
trách nhiệm, luôn tìm tòi những phương pháp, kỹ thuật dạy học mới để truyền lửa,
truyền niềm đam mê học tập đến học sinh; để học môn Lịch sử là một quá trình
khám phá, giải mã, suy ngẫm về quá khứ thông qua các nguồn sử liệu, từ đó hình

thành nên nhân cách, phẩm chất, năng lực người học; để mỗi học sinh trở thành
"nhà sử học nhỏ" thay vì là một "cỗ máy" ghi nhớ các sự kiện, đánh giá.
Để đạt được những mong muốn trên có nhiều con đường, nhiều giải
pháp. Qua thực tế, tôi nhận thấy rằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi và khai
thác kênh hình là một trong những giải pháp hiệu quả đã được chứng minh
bằng thực tiễn.
19


Tuy nhiên đÓ dạy học sử dụng câu hỏi và khai thác kênh hình có đạt
hiệu quả cao hay không phụ thuộc chủ yếu vào đối tượng học sinh và năng
lực của người giáo viên. Người giáo viên lịch sử cần đầu tư thời gian hợp lý
để chuẩn bị cho bài giảng, chinh phục được học sinh, tạo cho các em sự đam
mê môn học. Điều này, đòi hỏi sự nhiệt tình, tâm huyết với nghề của giáo viên
trước một bài học lịch sử trên lớp và cả quá trình dạy học bộ môn.
2. Kiến nghị.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là bước đầu của một quá trình lâu
dài. Nó đòi hỏi sự tham gia của toàn ngành giáo dục. Đứng về phía người dạy
tôi có một số kiến nghị sau:
* Với cơ quan quản lí nhà nước:
- Những sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp chúng tôi ở các đơn vị
khác đã được sở giáo dục lựa chọn cần phổ biến rộng rãi trong ngành để
chúng tôi có điều kiện học tập, đồng thời phát huy được sáng kiến đó.
- Dạy bộ môn lịch sử cần rất nhiều giáo cụ trực quan cũng như đồ
dùng dạy và học. Vậy kính mong nhà trường, sở giáo dục và các cơ quan ban
ngành có liên quan tạo điều kiện về cơ sở vật chất, cung cấp nhiều tài liệu
tham khảo, sách nâng cao để việc dạy và học lịch sử ngày càng tốt hơn.
* Với sự quản lí chỉ đạo của ban giám hiệu:
- Khắc phục những khó khăn để đầu tư cho việc đổi mới trang thiết bị dạy
học của bộ môn lịch sử như: Băng đĩa hình, tư liệu, bản đồ, sơ đồ, tranh ảnh …

- Tạo điều kiện khuyến khích cho giáo viên được thử nghiệm những ý
tưởng mới mẻ, sáng tạo trong giờ học, linh hoạt hơn trong công tác kiểm tra
quản lí giáo án, đồ dùng dạy học của giáo viên.
* Với tổ nhóm chuyên môn:
Trong các buổi họp chuyên môn dành nhiều thời gian hơn nữa cho việc
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm khi thực hiện phương pháp dạy học mới. Mặt
khác tiến hành đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời và nghiêm túc.
* Với học sinh:
Học sinh phải tạo được thói quen chuẩn bị bài thật kĩ trước khi đến lớp.
Đây là một yêu cầu bắt buộc để các em khi lên lớp chủ động tìm hiểu tri thức
dưới sự dẫn dắt của giáo viên.
Trong quá trình viết sáng kiến kinh nghiệm có thể không tránh khỏi
thiếu sót, khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các
đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 30 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nội dung của người khác.

20


Trần Thị Hậu

21




×