Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một vài giải pháp nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật cho học sinh lớp 12c5 trường THPT đinh chương dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.21 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

1. MỞ ĐẦU

02

1.1 Lí do chọn đề tài

02

1.2 Mục đích nghiên cứu

03

1.3 Đối tượng nghiên cứu

03

1.4 Phương pháp nghiên cứu

04

2. NỘI DUNG

04

2.1 Cơ sở lí luận


04

2.2 Thực trạng vấn đề

05

2.3 Những giải pháp thực hiện.

08

2.3.1 Về phía giáo viên chủ nhiệm

08

2.3.2 Thực hiện đánh giá xếp loại học sinh

09

2.3.3 Phối hợp với giáo viên bộ môn

10

2.3.4 Phối hợp với Đoàn thanh niên

11

2.3.5 Phối hợp với phụ huynh

12


2.3.6 Tổ chức các hoạt động giáo dục

13

2.4 Hiệu quả của SKKN

14

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

17

3.1 Kết luận.

17

3.2 Kiến nghị.

17

Tài liệu tham khảo

19

1


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên có thể coi là nhân tố quan trọng góp phần

quyết định chất lượng dạy và học của thầy và trò. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là
người giáo viên đã hoàn thành tốt việc tổ chức giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học
sinh. Đối với bậc trung học phổ thông, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm hết sức
quan trọng, còn bao gồm cả công tác phân luồng lao động, định hướng ngành nghề và
hội nhập cuộc sống cho các em trong tương lai. Giáo viên chủ nhiệm thay mặt nhà
trường quản lý điều hành lớp, trực tiếp giáo dục tư tưởng đạo đức, hình thành nhân
cách cho học sinh, là cầu nối giữa ba môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã
hội.
Trong giai đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày công
của người giáo viên hơn nữa; bởi trong một xã hội đang phát triển, mặt trái của kinh tế
thị trường có tác động đến việc hình thành nhân cách của học sinh, bên cạnh đó để
mưu sinh nên không ít phụ huynh đã giao phó việc giáo dục con cái cho nhà trường.
Vì vậy, thầy cô giáo chủ nhiệm giống như người cha, người mẹ thứ hai của các em.
Chính vì thế mà công tác chủ nhiệm đòi hỏi ở các thầy, cô phải có nhiều kinh nghiệm
và sự hy sinh cao cả.
Ở lứa tuổi THPT, các em chưa phải là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ
con, khả năng nhận thức chưa thật sự chín chắn và có thể sẽ sai lệch nếu không được
định hướng. Đa số các em còn lệ thuộc vào cha mẹ về cả kinh tế lẫn tinh thần. Tuy
nhiệm vụ chính là học tập, nhưng các em thường phải đối mặt với rất nhiều áp lực, từ
nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội. Ở nhà, đó là những yêu cầu, kỳ vọng của cha
mẹ, ông bà, là bầu không khí trong gia đình, là mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ,
… Ở trường, là áp lực về học tập, quan hệ với thầy cô, bạn bè,.. Ngoài xã hội, các em
phải đối mặt với những cám dỗ của các trò chơi, các trang thông tin mạng,… Và riêng
bản thân các em cũng phải lúng túng với những vấn đề mới nảy sinh: những thay đổi
về tâm sinh lý, tình yêu tuổi học trò, việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai,… Cá
biệt, có những em vấp phải vấn đề nghiêm trọng hơn: lệch lạc về giới tính, bạo hành
gia đình, tệ nạn xã hội,… Đối diện với những vấn đề phức tạp đó, rất nhiều em sẽ
không biết nhìn nhận, giải quyết vấn đề như thế nào cho hợp lý. Nếu không trang bị
cho các em một lập trường vững vàng, niềm tin trong cuộc sống, sự nghiêm khắc của
bản thân thì các em sẽ rất khó tự bảo vệ mình và trưởng thành lên được.


2


Trường THPT Đinh Chương Dương vốn là trường bán công chuyển sang công
lập, nên chất lượng đầu vào của học sinh vẫn còn thấp, vì thế nhiệm vụ trong tâm của
nhà trường là tập trung nâng cao chất lượng dạy học. Cùng với công tác giảng dạy,
Ban giám hiệu cũng đã chú ý đề cập đến vấn đề tìm hiểu, nắm bắt tâm lí của học sinh
để hỗ trợ cho quá trình giảng dạy đặc biệt là giáo dục tính kỷ luật, nâng cao sự tự giác
cho các em. Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm tôi nhận thấy giáo viên hay phụ
huynh không thường xuyên bên cạnh các em để nhắc nhở, uốn nắn các em được. Để
các em có thể tự giác học bài, làm bài tập ở nhà, thực hiện quy định của nhà trường,
của lớp hay quy định của giáo viên thì cần nâng cao ý thức tự giác và tính kỷ luật cho
học sinh. Nhận thấy tầm quan trọng trong giáo dục ý thức kỷ luật cho học sinh ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường nên bản thân tôi đã tiến hành thực nghiệm và thực
hiện giáo dục nâng cao ý thức kỷ luật cho học sinh trong thời gian qua. Vì vậy, trong
năm học này tôi đã chọn đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm của mình là : “MỘT VÀI
GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC TỔ CHỨC KỶ LUẬT CHO HỌC SINH LỚP
12C5 TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG” để một phần chia sẻ kinh nghiệm
của mình trong quá trình làm việc cũng là thêm thời nghiên cứu về một khía cạnh
trong công tác giáo dục học sinh THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi hướng đến những mục đích sau:
- Học sinh nhận thức được vai trò của tính kỷ luật đối với bản thân và trong
một tập thể.
- Học sinh có ý thức tự giác trong việc nghiêm túc với bản thân trong các công
việc của lớp, của trường.
- Các em nghiêm túc với việc định hướng tương lai: lựa chọn nghề phù hợp
với sở trường, năng lực của bản thân, những đòi hỏi của nghề nghiệp và yêu cầu của
xã hội; Trang bị cho học sinh những kỹ năng sống cơ bản để tự xử lý tốt các tình

huống phát sinh trong cuộc sống: mối quan hệ tình bạn, tình yêu; áp lực đời sống học
tập; cám dỗ của xã hội đồng thời có quan niệm về thẩm mĩ đúng đắn về sự tiến bộ của
xã hội.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp 12C5 Trường THPT Đinh Chương Dương khóa học 2014-2017.

3


1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Thông qua kinh nghiệm thực tiễn của bản thân trong quá trình làm chủ
nhiệm. Trong quá trình thực hiện tôi tiến hành:
+ Thu thập thông tin: thu thập bằng nhiều nguồn như thông tin từ bạn bè, gia
đình, thầy cô bộ môn, facebook, phiếu điều tra ...
+ Thống kê, phân tích, xử lí số liệu; đưa ra các số liệu cụ thể từ đó nhận xét,
đánh giá.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Giáo viên chủ nhiệm có vai trò vô cùng to lớn đến sự phát triển nhân cách, ảnh
hưởng đến sự nỗ lực cố gắng của các em. Nhiều học sinh vẫn coi giáo viên của mình
như là một nhân vật lớn lao trong cuộc sống, là thần tượng mà mình cố gắng để làm
được giống như thầy cô. Trước hết, ta liệt kê một số nhiệm vụ của giáo viên chủ
nhiệm:
Giáo viên chủ nhiệm lớp phải quản lý toàn diện lớp học, quản lý học sinh lớp
học và cần nắm vững hoàn cảnh và những thay đổi, những tác động của gia đình đến
học sinh; hiểu biết những đặc điểm của từng em học sinh (về sức khỏe, sinh lý, trình
độ nhận thức, năng lực hoạt động, năng khiếu, sở thích, nguyện vọng, quan hệ xã hội,
bạn bè…). Cần nắm vững mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục cấp học, lớp học
và khả năng thực hiện, kết quả của lớp phụ trách so với mục tiêu giáo dục về mọi mặt
(học tập, rèn luyện đạo đức, thể dục thể thao, văn nghệ và các hoạt động

khác…). Quản lý toàn diện đặc điểm học sinh của lớp, nắm vững mục tiêu đào tạo,
giáo dục cả về mặt nhân cách và kết quả học tập của học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm là cố vấn tổ chức hoạt động tự quản của tập thể học sinh.
Chức năng cố vấn thể hiện trước hết ở chỗ giáo viên chủ nhiệm bằng nghệ thuật sư
phạm kích thích tư duy sáng tạo ở học sinh, phát triển tiềm năng trí tuệ vốn có của
từng em trong học tập, đề xuất các nội dung, các giải pháp, cách thức tổ chức hoạt
động thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà trường. Cố vấn là sự điều chỉnh, điều
khiển tư duy thái độ, tình cảm, hành vi, hoạt động của học sinh. Vai trò cố vấn đối với
học sinh phải quán triệt được toàn diện nội dung giáo dục, kế hoạch hoạt động của cá
nhân và tập thể lớp chủ nhiệm bao gồm từ việc học tập, rèn luyện đạo đức, văn hóa,

4


thể dục thể thao, sinh hoạt tập thể, hoạt động chính trị xã hội, quan hệ giao tiếp…diễn
ra trong nhà trường và ngoài xã hội.
Giáo viên chủ nhiệm cũng là cầu nối giữa Hiệu trưởng (Ban giám hiệu), giữa
các tổ chức trong trường, giữa các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh lớp chủ
nhiệm. Với tư cách là nhà sư phạm (đại diện cho tập thể các nhà sư phạm), giáo viên
chủ nhiệm có trách nhiệm truyền đạt tới học sinh của lớp chủ nhiệm tất cả yêu cầu, kế
hoạch giáo dục của nhà trường tới tập thể và từng học sinh của lớp chủ nhiệm không
phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục, cảm hóa, bằng sự gương mẫu của người
giáo viên chủ nhiệm, để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự giác,
tự nguyện. Với kinh nghiệm sư phạm và uy tín của mình, giáo viên chủ nhiệm có khả
năng biến những chủ trương, kế hoạch đào tạo của nhà trường thành chương trình
hành động của tập thể lớp và của mỗi học sinh. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm lớp là
người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng học sinh của lớp phản ánh với hiệu
trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và với các giáo viên bộ môn.
Giáo viên chủ nhiệm lớp phối hợp với phụ huynh học sinh, với các lực lượng xã
hội, địa phương nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của lớp chủ nhiệm. Hiệu quả của tổ

chức giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm phụ thuộc không nhỏ vào khả năng liên kết các
lực lượng xã hội, phát huy tiềm năng của xã hội, của địa phương về mọi mặt đối với
công tác giáo dục.
Xuất phát từ những đặc điểm về tâm lý lứa tuổi học sinh THPT, việc định
hướng giáo dục, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật cho học sinh trung học là rất cần thiết
. Học sinh trung học phổ thông là những em ở lứa tuổi cuối thiếu niên và đầu thanh
niên. Lứa tuổi đang khẳng định mình, giàu ước mơ, bước đầu có kinh nghiệm sống, có
khả năng tự quản, tổ chức hoạt động tập thể…Tuy nhiên, vẫn là lứa tuổi mong muốn
lớn hơn khả năng, muốn khẳng định nhưng chưa đủ về mọi mặt kinh nghiệm, tri thức.
Khi có thành công thì dễ tự tin quá mức, ngược lại gặp những thất bại đầu tiên dễ dao
động, lòng tự tin bị giảm sút… Học sinh có ý thức tổ chức kỷ luật tốt các em sẽ tự
trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng tốt nhất để vượt qua mọi cám dỗ của cuộc sống
để học tập và trưởng thành.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Bản thân tôi đang trực tiếp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm tại
một trường đi lên từ trường bán công với gần như số học sinh vào trường đều có kiến
thức về các môn học rất yếu, hoàn cảnh kinh tế gia đình đa số là nông nghiệp dẫn đến
bố mẹ phải lo kiếm tiền nuôi sống gia đình nên ít có thời gian quan tâm đến con cái,

5


lại có nhiều phụ huynh phải bỏ quê đi làm ăn xa để các em ở nhà một mình hoặc với
ông bà, cũng có nhiều gia đình khá giả nên phụ huynh quá chiều chuộng con ...dẫn đến
đa số các em vào trường có đạo đức lối sống, lời ăn tiếng nói, ý thức chấp hành kỷ luật
chưa tốt, có nhiều em có cuộc sống tự do, buông thả không coi ai ra gì...
Học sinh lớp 10C5 năm học 2014-2015 có chất lượng đầu vào thấp và được
đánh giá là yếu nhất của khối, có một số học sinh học lực yếu bị lưu ban của năm học
trước được xếp vào lớp. Sang năm lớp 11, có một số học sinh học tại lớp 11C1 (lớp
đầu của khối) bị chuyển sang lớp 11C5 do không có kết quả học tập tốt tại lớp 11C1.

Sĩ số năm lớp 12C5 có 39 học sinh gồm 22 nam, 17 nữ. Tập trung ở 11 xã và
thị trấn trong huyện bao gồm: Thị trấn, Lộc Tân, Lộc Sơn, Tiến Lộc, Quang Lộc, Hoa
Lộc, Phú Lộc, Đa Lộc, Hòa Lộc, Xuân Lộc, Minh Lộc. Trong đó tập trung ở 2 xã là
Hòa Lộc (11 em), Xuân Lộc (13 em). Có 06 học sinh trong gia đình thuộc đối tượng
nghèo và cận nghèo.
Tỷ lệ xếp loại học lực và hạnh kiểm của lớp năm lớp 11 nằm dưới mức trung
bình trung của cả trường:
Hạnh kiểm (%)

Học lực (%)

Tốt

Khá

TB

Yếu

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Lớp 11C5

51,4


29,7

10,8

8,1

0

21,6

64,9

13,5

Toàn trường

71,3

18,9

7,2

2,5

7,4

38,0

49,7


4,9

Ban đại diện hội cha mẹ học sinh của lớp gồm 3 người: có 02 phụ huynh là
giáo viên và 01 phụ huynh là lao động tự do, tất cả đều quan tâm đến công tác giáo
dục của nhà trường của lớp, phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm trong công việc đặc
biệt là liên hệ với các phụ huynh học sinh trong lớp.
Một số biểu hiện của các em đặc biệt trong lớp 12:
- Trong việc chấp hành kỷ luật: Việc thực hiện nội quy của lớp và của nhà
trường ở nhiều em còn chưa tốt. Tính đến ngày 03/10/2016 theo thống kê nghỉ học của
lớp, việc nghỉ học tập trung ở một số em: Em Nguyễn Việt Tiến (học sinh lưu ban của
khóa học 2 năm trước đã nghỉ 19 buổi), em Mã Văn Bảo (học sinh chuyển từ lớp C1
sang, tính hết tháng 9 nghỉ 8 buổi), em Nguyễn Doãn Tuấn Thịnh (bố mất khi em học
lớp 9 nghỉ 7 buổi), em Tăng Thị Thu (không có bố, mẹ đi làm công nhân trong Bình
Dương nghỉ 6 buổi), ... Một số học sinh đi học muộn khá nhiều, thường xuyên bị ban
nề nếp nhắc nhở và ghi sổ trực như: Nguyễn Hoài Nam (xã Xuân Lộc), Hoàng Văn
Cường, Nguyễn Văn Huấn (Hòa Lộc), Phạm Văn Luật, Nguyễn Văn Trường, Nguyễn

6


Việt Tiến (Hoa Lộc), về phía học sinh nữ có em Nguyễn Thùy Dương và Nguyễn Thị
Hảo (xã Hòa Lộc, hai em này luôn đi chung xe tới trường, trên lớp thường xuyên chơi
cùng nhau) ... Việc học bài cũ và chuẩn bị bài cho bài mới qua quá trình kiểm tra số
đầu bài trên lớp, phản ảnh của các giáo viên bộ môn, ghi chép của đội ngũ cán sự lớp
thì một số học sinh chưa chấp hành tốt, có nhiều điểm kém và có thái độ chây lỳ như:
Nguyễn Việt Tiến, Bùi Ngọc Tiến, Phạm Văn Luật, Trương Văn Cường, Mã Văn Bảo,
Phạm Văn Doanh, Nguyễn Doãn Tuấn Thịnh, Nguyễn Hoài Nam, Hoàng Văn Cường,
Nguyễn Ngọc Hoàng, ...
- Trong tình bạn, tình yêu: Ngay từ đầu năm, biểu hiện của một số em chơi

theo nhóm, gây hiện tượng bè phái, lớp có nguy cơ mất đoàn kết. Đặc biệt hiện nay,
hiện tượng yêu sớm, yêu bạo do tuổi dậy thì của các em ngày càng rõ rệt, các em còn
bị tác động bởi phim ảnh , các cảnh yêu đương bạo dạn của các anh chị lớn tuổi. Khi
có tình cảm với ai, các em “sống chết” cho rằng đó là tình yêu đích thực, tình yêu duy
nhất, xem nửa kia là tất cả của mình mà không biết rằng đó chỉ là những rung cảm của
tuổi mới lớn. Và khi cha mẹ biết thường tìm mọi cách ngăn cấm một cách cực đoan.
Chính vì thế mà các em thường tự tạo khoảng cách với cha mẹ – hoặc không chia sẻ,
tâm sự , hoặc càng lao vào tình cảm yêu đương để tìm sự đồng cảm, nếu không được
các em có khi tìm đến con đường kết thúc trong bi kịch nếu không có sự chia sẻ kịp
thời của người lớn.
- Vấn đề hướng nghiệp chọn nghề: Đa số các em còn chưa xác định được con
đường hướng nghiệp của mình, còn rất mơ hồ về các ngành nghề cơ bản. Nhiều em trả
lời “ bố mẹ em bảo em làm gì thì làm cái đó” hoặc “đến đâu thì đến, tính sau”. Có em
có xu hướng chọn nghề “hót” bởi sẽ kiếm được nhiều tiền, có cơ hội thăng tiến...
Nhiều em chọn nghề vẫn dựa theo cảm tính hơn là sự hiểu biết. Vì thế nếu không có
sự định hướng cho các em, sẽ có nguy cơ nhiều em thất vọng, chán nản ngay từ đầu do
chọn nghề không đúng .
- Các mối quan hệ thầy cô, gia đình: nhiều gia đình tập trung phát triển kinh
tế. Cha mẹ có ít thời gian để gần gũi và quan tâm đến con nên không hiểu được suy
nghĩ của con mình. Hơn nữa các em học sinh cấp THPT đều bước vào độ tuổi đang
lớn, tâm sinh lý có nhiều thay đổi, nhiều bậc phụ huynh không theo sát sự phát triển
của con nên không thấy được những khó khăn các em đang mắc phải để kịp thời hỗ trợ
con mình. Gia đình phó thác vai trò giáo dục cho nhà trường theo kiểu “trăm sự nhờ
thầy”. Một số học sinh bị ảnh hưởng từ cuộc sống gia đình không hạnh phúc, bố mẹ
thường xuyên cãi cọ, ly hôn ... Sứt mẻ tình cảm gia đình làm các em thường cảm thấy

7


mặc cảm, tự ti về bản thân, một số khác rơi vào trạng thái chán nản, mất phương

hướng, muốn trả thù đời nên thường tìm cách quậy phá, chống đố. Đây là một điều vô
cùng khó khăn đối với nhà trường.
- Xu hướng thẩm mĩ: Ở lứa tuổi này, các em đã quan tâm đến những yếu tố
thẩm mĩ của bản thân, có ý thức làm đẹp. Tuy nhiên, sự thiếu chín chắn khiến lứa tuổi
các em có xu hướng thiên lệch , thiếu cân nhắc, chạy theo thị hiếu thẩm mĩ tầm
thường, hoặc các em thường bắt chước theo thần tượng của mình trên phim, ảnh một
cách vô thức dẫn đến nhiều em ăn mặc phản cảm, đầu tóc không phù hợp với lứa tuổi
học sinh như: tô son, phấn khi đến lớp (em Hoàng Thị Hải Yến, Nguyễn Thị Linh
Chi), nhuộm tóc (Nguyễn Văn Trường, Phạm Văn Luật, Nguyễn Văn Huấn), để râu
(Nguyễn Việt Tiến, Nguyễn Hoài Nam), mặc quần áo ngắn, hở (Nguyễn Thị Duyên,
Lê Anh Nam), ngôn từ của rất nhiều em trong lớp không được trao chuốt thiếu văn
hóa, học nhiều ngôn ngữ, tính cách, cử chỉ hiện đại nhưng kịch cỡm .... chính vì thế
các em đã tự đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1 Về phía giáo viên chủ nhiệm lớp
Yêu cầu giáo viên chủ nhiệm lớp:
Người GVCN lớp phải là người có tâm với nghề, có lí tưởng nghề nghiệp
đúng đắn, nói đi đôi với làm, công bằng trong đánh giá. Điều này, giúp người GVCN
có niềm tin hơn vào nghề nghiệp và đó chính là động lực giúp họ dám nghĩ, giám làm
một cách chủ động sáng tạo trong quá trình tổ chức và giáo dụ c học sinh đặc biệt với
những học sinh thường gọi là cá biệt của lớp.
Người GVCN cần có sự khéo léo trong ứng xử sư phạm, phải có uy tín đối với
học sinh và với cha mẹ học sinh. Sự khéo léo trong ứng xử sư phạm đòi hỏi người
GVCN cần hiểu rõ tâm lý học lứa tuổi học sinh, đặc biệt nắm chắc tâm sinh lý của lứa
tuổi học sinh THPT hiện nay, hiểu được những điều đang diễn ra trong tâm hồn các em
lúc này, nhiều khi giáo viên phải giữ được bình tĩnh, biết lắng nghe.
Người GVCN cần có những đức tính như kiềm chế, nhẹ nhàng và sự kiên trì
bền bỉ trong giáo dục, tránh sự nôn nóng trong giáo dục và nóng tính mất bình tĩnh
trong giao tiếp với học sinh; Người GVCN thật sự gương mẫu trên tất cả mọi mặt để
học sinh học tập noi theo, theo tôi chúng ta không nên nói nhiều, không nên giải thích

giảng giải cho học sinh nhiều mà chúng ta nên thể hiện trước học sinh bằng hành động
cụ thể.

8


Người GVCN thật sự gương mẫu, từng bước gây dựng uy tín và được học sinh
kính trọng là một tấm gương để các em học tập noi theo và đó là chỗ dựa vững chắc để
các em và phụ huynh có thể tâm sự, trình bày ngyện vọng cũng như bày tỏ những điều
riêng tư của bản thân
2.3.2 Thực hiện đánh giá, xếp loại học sinh
Trước hết, người GVCN cần nắm được mục đích và tầm quan trọng của việc
đánh giá, xếp loại học sinh: Là nhằm thúc đẩy sự cố gắng vươn lên của học sinh, kích
thích ở các em động cơ phấn đấu đúng đắn, hình thành ở các em niềm tin vào bản
thân, có niềm tin vào tập thể lớp và vào thầy cô giáo chủ nhiệm của mình.
Yêu cầu của việc đánh giá xếp loại: Trên cơ sở mục đích và tầm quan trọng
như trên thì việc đánh giá, xếp loại cần đảm bảo một số yêu cầu sau đây:
+ Phải đảm bảo tính khách quan, công bằng và trung thực.
+ Phải có tính hệ thống và toàn diện, tức là phải xem xét hiện tượng, sự việc
trong tính tổng thể, không thiên lệch vì một lí do nào cả.
+ Phải căn cứ vào năng lực, sự phấn đấu và hoàn cảnh cự thể của từng em học
sinh không có bất kỳ định kiến hay mâu thuẫn cá nhân nào xen vào.
Nội dung đánh giá: GVCN cần nhìn nhận học sinh trên các mặt: các em đã có
ý thức kỷ luật chưa, việc vi phạm là vô ý hay cố tình, có tính lâu dài, hệ thống; Các em
biết nhận lỗi khi vi phạm chưa (biểu hiện ở thái độ, nói năng, tác phong cư xử...); Các
em biết tôn trọng người khác chưa; có chấp hành tốt các nội quy của nhà trường, của
lớp và của đoàn trường; có chuyên cần hay trong học tập không; có tích cực hoà mình
vào các hoạt động, các công việc chung của tập thể lớp không ?
Cụ thể: Đánh giá học sinh đối với công việc cụ thể trên lớp; Đánh giá học sinh
đối với mọi người; Đánh giá học sinh đối với gia đình; Đánh giá học sinh đối với tập

thể, với nhà trường, với cộng đồng và xã hội.
GVCN cần thực hiện tốt quy trình đánh giá, việc đánh giá các em được diễn ra
theo tuần, tháng và học kỳ:
+ Học sinh tự đánh giá theo các tiêu chuẩn và thang đánh giá mà nhà trường
và lớp đã quy dịnh trong năm học. Nếu là hết kỳ phải kèm theo bản tự nhận xét đánh
giá về bản thân.
+ Tập thể lớp đánh giá
Đầu tiên là tập thể tổ xem xét tự đánh giá của từng thành viên trong tổ, thảo
luận góp ý và đi đến kết luận, phân loại kết quả của tổ mình.

9


Sau đó, hội nghị lớp sẽ tiến hành xem xét kết quả đánh giá và phân loại của
từng tổ. Có thể thảo luận, cân nhắc trước lớp những trường hợp đặc biệt rồi đi đến
quyết định cuối cùng và tiến hành báo cáo với GVCN.
GVCN nghiên cứu kết quả đánh giá của học sinh, còn những trường hợp nào
băn khoăn thì có thể tham khảo ý kiến của giáo viên bộ môn... hoặc nếu cần thiết có
thể triệu tập cuộc họp với đội ngũ cán bộ chi đoàn, cán bộ lớp để thảo luận.
Làm tốt công tác tự đánh giá và đánh giá ở tổ, ở lớp GVCN sẽ được các em tự
cung cấp thông tin về bản thân các em, của bạn bè trong lớp đồng thời tiếp tục hiểu
thêm về tính cách, suy nghĩ, bản năng của từng em trong quá trình chủ nhiệm.
Lưu ý trong quá trình các em đánh giá nhận xét lẫn nhau: phải đánh giá một
cách khách quan, không để tình cảm cá nhân của các em chi phối hoặc có sự súi dục,
chỉ huy phía sau. Thời gian ban đầu, việc tìm kiếm thông tin về các em và để các em
tự đánh giá lẫn nhau cũng gặp không tin khó khăn do các em bao che, bênh vực bạn bè
đôi lúc là sợ không dám nói với thầy, với lớp. Nhưng qua quá trình làm công tác tư
tưởng, động viên khuyến khích để các em hiểu mục đích là để bạn bè mình tiến bộ,
trưởng thành chứ không phải là để thầy cô, nhà trường phạt các em thì việc này đã dễ
dàng và có hiệu quả rất tốt.

2.3.3 Phối hợp với các giáo viên bộ môn (GVBM) trong lớp
Sự phối hợp công tác giữa GVCN và giáo viên bộ môn một cách đều, liên tục
và đồng bộ sẽ tạo thành một gọng kìm vừa nâng cao được chất lượng học tập, vừa
nâng cao được chất lượng giáo dục của lớp mình phụ trách. Bản thân tôi trong thời
gian vừa qua khá lưu tâm vấn đề này, phối hợp tốt với GV bộ môn ở một số vấn đề sau
đây:
- Phối hợp để nâng cao ý thức học tập
+ GVCN thường xuyên trao đổi, thông báo cho các GVBM biết tình hình học
tập của lớp, một số đặc điểm đặc biệt của học sinh, những nhu cầu nguyện vọng về
môn học giúp các GVBM kịp thời điều chỉnh, bổ sung về nội dung, phương pháp cho
phù hợp. Những học sinh đang vi phạm nội quy cần phải theo dõi trong các giờ học để
đánh giá sự tiến bộ của các em.
+ GVBM phản ánh với các GVCN về các học sinh yếu kém, tồn tại của học
sinh cũng như các học sinh tiến bộ cho từng em trong quá trình giảng dạy.
- Phối hợp để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức.

10


+ GVCN luôn nhắc nhở các em về vai trò của các thầy cô giáo bộ môn, kính
trọng các thầy cô, chia sẻ những khó khăn trong học tập với các thầy cô; Đồng thời
phải biết quan tâm đến những khó khăn và hoàn cảnh của các thầy cô để tạo cho các
em có được một sự đồng cảm, một tình cảm gắn bó với tập thể cán bộ giáo viên nhà
trường.
+ GVCN thường xuyên thông tin một cách hai chiều với GVBM về những học
sinh chậm tiến về đạo đức, những học sinh hay vi phạm trong giờ học và bàn phương
pháp giáo dục.
Mời GVBM dự một số tiết sinh hoạt cuối tuần, các buổi sơ kết, tổng kết để
giúp GVBM hiểu thêm về lớp; đồng thời để các GVBM trao đổi góp ý về phương
pháp học tập của môn học. Đặc biệt trong cá cuộc họp phụ huynh của năm học (đầu

năm, giữa năm và cuối năm phải mời các GVBM đặc biệt những giá viên tâm huyết
với lớp đến dự để cùng GVCN trao đổi với các bậc phụ huynh trong việc giáo dục các
em. Đây cũng là điều nên làm, vừa nâng vai trò của GVBM với các bậc phụ huynh,
phụ huynh cũng thấy được công tác phối kết hợp giáo dục toàn diện của nhà trường
đối với con em họ. Học sinh sinh cũng từ đó mà nhận trách nhiệm của các em trong
việc học tập và rèn luyện.
- Trong quá trình đánh giá xếp loại học sinh, GVCN cần trao đổi thêm về quá
trình học tập và tu dưỡng của học sinh với GVBM để việc đánh giá và xếp loại thêm
chính xác, khách quan và công bằng.
2.3.4 Phối hợp với tổ chức Đoàn thanh niên, ban nề nếp:
Một trong những thuận lợi trong những năm qua làm công tác chủ nhiệm của
tôi đấy là bản thân tôi là Thường vụ Đoàn trường, trực tiếp tham gia công tác nề nếp
của Đoàn trường. Vì vậy, đây là một lợi thế trong công tác giáo dục học sinh ngay
trong lớp chủ nhiệm.
Với chi đoàn lớp mình phụ trách: GVCN là cố vấn chi đoàn, thể hiện:
GVCN cần phải dự các buổi sinh hoạt, các cuộc họp của chi đoàn để góp ý cho
các em về nội dụng và phương pháp tổ chức. GVCN cần có sự tham mưu và định
hướng trong việc lựa chọn đội ngũ BCH chi đoàn và ban cán sự lớp. Khi tổ chức các
hoạt động giáo dục cho lớp cần lấy chi đoàn làm nòng cốt. Cần có ý kiến định hướng
với chi đoàn trong việc phát triển đoàn viên mới.

11


- Với Đoàn trường: GVCN cần nắm vững chủ trương, kế hoạch và nội dung
công tác đoàn của đoàn trường trong tháng, kỳ và từng năm học để phối hợp và theo
dõi hoạt động của chi đoàn mình.
- Với ban nề nếp của nhà trường: GVCN thường xuyên theo dõi và tổng hợp
định kỳ những vi phạm của học sinh trong lớp để kịp thời đôn đốc, nhắc nhở và xử lý,
thông báo ngay với cha mẹ các em nếu cần thiết.

2.3.5 Phối hợp với gia đình học sinh, với chi hội cha mẹ học sinh của lớp
Gia đình là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. Vấn
đề đặt ra là GVCN phải phối hợp như thế nào với gia đình học sinh để đạt được hiệu
quả cao. Chúng ta cần tập trung vào những vấn đề sau:
GVCN có kế hoạch định kỳ thông báo cho gia đình học sinh biết về kết quả
học tập, tu dưỡng, lao động ... của con em họ. Có nhiều cách để thông báo nhưng trong
những năm qua tôi thường xuyên sử dụng hệ thống VNEDU – mạng giáo dục để
truyền tải những thông tin cần thiết để gia đình các em. Ngoài ra liên lạc bằng điện
thoại hoặc mời trực tiếp phụ huynh các em lên trường để làm việc. Với nhiều học sinh,
việc mời cha mẹ các em lên để GVCN và Hiệu trưởng nhà trường gặp có tác dụng rất
tốt đến giáo dục các em.
Thông qua các cuộc họp phụ huynh thường kỳ hay trao đổi với cha mẹ các em,
GVCN cần:
+ Triển khai cho phu huynh nắm được chủ trương, kế hoạch giáo dục của nhà
trường, chỉ tiêu phấn đấu của lớp của từng em học sinh trong học kỳ, trong năm học.
+ Đánh giá kết quả học tập, đạo đức, sự tiến bộ của lớp, của từng học sinh.
Cho phụ huynh biết những tồn tại và khó khăn trong quá trình giáo dục học sinh.
+ Nêu và thống nhất nội dung, kế hoạch và nhiệm vụ của nhà trường và gia
đình trong việc phối hợp giáo dục ( GVCN làm gì ? Gia đình làm gì ?).
+ Tư vấn, bồi dưỡng cho các bậc phụ huynh một số kiến thức tâm lí lứa tuổi
học sinh, một số phương pháp giáo dục. Đồng thời giúp phụ huynh nhận thức đầy đủ
trách nhiệm giáo dục con cái như: chủ động liên lạc với nhà trường, với GVCN; Tham
gia đầy đủ các cuộc họp phụ huynh; tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con em học tập ...
GVCN cần quan tâm làm sao chọn được một ban chấp hành chi hội phụ huynh,
các tổ trưởng tổ phụ huynh có năng lực, có tinh thần trách nhiệm và thực sự những bậc
phụ huynh thật sự gương mẫu.

12



Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, thường xuyên trao đổi thông tin về học sinh,
nâng cao nhận thức của phụ huynh về vấn đề tâm sinh lý lứa tuổi để có sự quan tâm
đúng mức đến con cái, phát hiện kịp thời những biểu hiện không bình thường của các
em để có sự hỗ trợ kịp thời
2.3.6 Tổ chức các hoạt động giáo dục:
Để hoạt động này có hiệu quả giáo viên phải quán triệt được ý thức tổ chức kỷ
luật cho các em: mình vì mọi người, không để mọi người vì mình. Nó được thể hiện ở
việc chấp hành thời gian, tuân theo sự chỉ đạo của giáo viên, lớp trưởng hay tổ trưởng,
việc thể hiện ý kiến cá nhân ...
Các hoạt động giáo dục thường có nhiều nội dung phong phú, hình thức đa dạng
nhưng chúng ta thường tổ chức dưới hai hình thức sau đây:
- Hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục thông qua tiết sinh hoạt tập thể hàng
tuần.
Tiết sinh hoạt tập thể hàng tuần: Là tiết sinh hoạt mồi tuần một lần do học sinh
tự tổ chức dưới sự giúp đỡ và cố vấn của GVCN, với các hoạt động giáo dục như:
+ Hoạt động sơ kết, tổng kết và đánh giá thi đua hàng tuần, hàng tháng. Trên
cơ sở đó để bình xét những cá nhân và tập thể (tổ) có thành tích xuất sắc trong tuần,
trong tháng; đồng thời cũng tổng hợp được danh sách những học sinh vi phạm.
+ Tổ chức sinh hoạt theo chủ đề nhằm hưởng ứng các hoạt động theo chủ điểm
tuần, tháng của trường hoặc theo nhu cầu của lớp. Sinh hoạt theo chủ đề do chi đoàn,
Đoàn trường, ban nữ sinh tổ chức...
Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề "Tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác
giới”, để các em được thoải mái bộc lộ quan điểm của mình, tạo điều kiện các em
được giao lưu, trao đổi các vấn đề còn vướng mắc của bản thân. Tư vấn về giới tính.
+ Tổ chức các loại hình sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, giao lưu, vui chơi giải trí...
- Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
+ Có thể là các loại hình giáo dục do nhà trường tổ chức toàn trường như: Lễ
khai giảng, bế giảng, mít tinh kỷ niệm các ngày lễ lớn ... Trong các hoạt động đó lớp
thực hiện các tiết mục văn nghệ, tham gia trò chơi ...
+ Hoạt động do lớp tổ chức như: thăm hỏi một số gia có hoàn cảnh éo le trong

cuộc sống, cá bạn trong lớp bị ốm đau, tai nạn.
+ Các hoạt động văn hóa văn nghệ do lớp tự tổ chức để tham gia vào các hoạt
động như 20/11, 26/3, 20/10 ...

13


2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục tính kỷ luật
của học sinh
Sau một năm phối kết hợp các giải pháp nâng cao ý thức kỷ luật cho học sinh
lớp 12C5, cái được lớn nhất là ý thức chấp hành quy định của nhà trường, việc chấp
hành quy định của GVCN như thói quen hằng ngày của các em. Ngoài ra các em tự
nhận thấy sự cần thiết phải rèn luyện, tu dưỡng bản thân, định hướng cho tương lai và
sống cộng đồng hơn.
Kết quả thống kê đánh giá mức độ vi phạm nội quy trong tập thể lớp:
Không hề vi
phạm

Có vi phạm

39

SL

%

SL

%


SL

%

Trước giáo dục

1

2,6

25

64,1

13

33,3

Sau giáo dục

33

Tổng số HS

84,6

6

Vi phạm thường
xuyên


15,4

0

Nhận xét: Trước khi thực hiện đề tài, việc thực hiện nội quy học sinh của các
em chưa tốt, nhiều học sinh thường xuyên vi phạm nội quy học sinh về các vấn đề như
trang phục, nhuộm tóc màu vàng, đỏ; đi học chậm; nghỉ học, ăn quà, hút thuốc ... Sau
khi thực hiện các biện pháp nâng cao tính kỷ luật cho học sinh, số lượng học sinh vi
phạm giảm xuống đáng kể: không có học sinh mặc đồng phục sai quy định, không có
học sinh nhuộm tóc khác màu đen, không còn học sinh hút thuốc trong trường học, chỉ
còn một số học sinh đi học chậm ... Ý thức tự giác của các em được nâng cao rất
nhiều. Từ vị thứ 13 toàn trường trong bảng thi đua giữa học kỳ một, lớp vươn lên vị
thứ 8 toàn trường cuối học kỳ 1 và tiếp tục vươn lên vị thứ 5 toàn trường học kì II và
cả năm học đứng vị trí thứ 6 trên 18 lớp. Đó là sự nỗ lực không ngừng của các em, của
tập thể lớp và được ban thi đua nhà trường ghi nhận bằng việc công nhận tập thể lớp
tiên tiến xuất sắc trong năm học 2016 – 2017.
Kết quả ghi chép đánh giá mức độ đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập:
Tổng số HS
39

Có ý thức
SL

Có hành động

Không có thể hiện gì

%


SL

%

SL

%

Trước giáo dục

26

66,7

19

48,7

4

10,3

Sau giáo dục

39

100

39


100

0

0

Nhận xét: Xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, ý thức học tập tốt, tương thân
tương ái, học sinh tự giác trong việc chấp hành nội quy của lớp, của nhà trường, hỗ
trợ, giúp đỡ nhau trong học tập, nâng cao tính kỷ luật của bản thân và sống có trách

14


nhiệm với bản thân, gia đình. Trong lớp có một số em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt,
bố mẹ đi làm ăn xa nhưng đã tự ý thức được việc học tâp, tu dưỡng của bản thân, vượt
qua mọi khó khăn, vất vả trong cuộc sống để đi học đầy đủ, nghiêm túc được bạn bè
ghi nhận, tập thể lớp và các thầy cô giáo khen ngợi.
Kết quả khảo sát về vấn đề hướng nghiệp, chọn nghề:
Tổng số HS

Chọn có tìm hiểu
nghề

39

SL

Nghề “hót” theo
xu thế xã hội


%

Theo yêu cầu
của cha mẹ

Chưa xác
định

SL

%

SL

%

SL

%

Trước giáo dục

3

7,0

9

2,3


6

15,4

21

53,8

Sau giáo dục

29

74,4

2

5,1

8

20,5

0

0

Nhận xét: Trước khi được giáo dục, đa phần các em chưa xác định được mục tiêu
chọn nghề của mình hoặc chọn theo sự lôi cuốn của bạn bè hay xu thế xã hội. Đại bộ
phận các em cũng chưa tìm hiểu nghành nghề lao động hiện nay. Sau khi được giáo
dục, các em có định hướng khá rõ rệt, đặt biệt các em quan tâm nhiều đến nhu cầu của

thị trường lao động. Khá nhiều em đã dành nhiều thời gian tìm hiểu các ngành nghề
đào tạo và nhu cầu của xã hội, đồng thời có sự trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về sự
lựa chọn nghề của mình trong tương lai.
Kết quả đánh giá mức độ học sinh thường xuyên chia sẻ với giáo viên về các
vấn đề trong lớp, trong học tập, tình cảm, tư vấn hướng nghiệp, học nghề, các ứng xử
hàng ngày:
Tổng sốHS
39

Rất thường
xuyên

Thường xuyên

Không
thường xuyên

Không bao
giờ

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

Trước giáo dục

1

2,6

4

10,3

22

56,4

13

33,3

Sau giáo dục

12

30,7


16

41,0

11

28,2

0

0

Nhận xét: Nâng cao tính kỷ luật cho học sinh đặc biệt là học sinh THPT là vấn
đề vô cùng cần thiết. Thông qua hoạt động này, các em đã tự giác, chủ động trong thực
hiện nhiệm vụ của mình, đồng thời ý thức được nghĩa vụ của một học sinh, một công
dân cần phải thực hiện tốt những chủ trương của nhà trường, của đoàn thanh niên, của
Đảng và Nhà nước. Bản thân tôi trước khi thực hiện tôi đã suy nghĩ, việc đưa các em
vào nề nếp là phải sử dụng “thiết quân luật” để ép các em thực hiện. Nhưng trong quá
trình thực hiện, thì gần như sự quan tâm, hướng dẫn, dìu dắt các em với là điều mà

15


mang lại hiệu quả nhất. Vào những ngày cuối khóa học, lo lắng nề nếp các em sẽ sao
nhãng do tâm lý cuối cấp, nghỉ hè, liên hoan, chia tay, lưu bút, kỷ yếu, ... nhưng ngược
lại ý thức tổ chức kỷ luật của các em được thể hiện rõ. Nề nếp học tập trong lớp vẫn
được duy trì, quan hệ bạn bè vẫn giữ vững. Nhiều em thường xuyên tâm sự với giáo
viên chủ nhiệm về những vướng mắc trong tình bạn, tình yêu, nghề nghiệp để được
chia sẻ và hướng dẫn. Qua đó tôi đã nắm bắt được diễn biến tình cảm của học sinh
trong lớp, từ đó có những biện pháp tác động phù hợp, để định hướng kịp thời cho các

em.
Trước khi thực hiện đề tài, có một số giáo viên phản ánh một số em trong lớp có
thái độ chưa tốt. Đặc biệt trong lớp có một trường hợp học sinh cá biệt, các mối quan
hệ bạn bè của em khá phức tạp, nhiều thành phần, nhiều học sinh gia đình em khó
khăn về kinh tế, cha mẹ phải vất vả mưu sinh, đặc biệt một số em trong lớp không có
bố, không còn bố. Trong điều kiện như vậy, học sinh này đã bị nhiễm một số điều chưa
tốt từ bạn bè xấu, khi được nhắc nhở thay vì hối lỗi thì em lại cố tỏ ra thái độ “chẳng
sợ ai”, bạn bè nhắc nhở thì em quát lại và đe doạ. Trong quá trình chủ nhiệm, nhiều lúc
cũng dở khóc dở cười, đôi lúc thì giận rồi lại thương học sinh. Nhưng bằng sự yêu
nghề, yêu học sinh tôi đã dần dần từng bước, từng bước một bằng những biện pháp
trên để giúp các em tìm lại chính mình. Có một điều khá quan trọng của giáo viên chủ
nhiệm trong quá trình giáo dục học sinh là phải thường xuyên gặp riêng các em để trao
đổi, nắm bắt thông tin tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, bạn bè của em, hiểu được các
em rồi từ đó tìm cách tác động phù hợp. Đồng thời, đối với những vi phạm của em, tôi
kiên quyết xử lý vi phạm, trước khi xử lý vi phạm các em phải làm để các em nhận
thấy được hành động của các em là sai quy định và phải có thái độ để sửa sai. Xử lý vi
phạm phải đúng quy chế nhưng phải có lý, có tình để em hiểu với quan điểm xử lý vi
phạm là để giáo dục các em không phải là làm cho các em sợ. Sau một thời gian tiến
hành giáo dục nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật cho học sinh tôi nhận thấy sự tiến bộ rõ
ràng của các em trên lớp, nhận được nhiều lời cảm ơn từ phía cha mẹ các em qua các
cuộc họp phụ huynh trên lớp, những lần gặp gỡ các bác ở trên trường, được nhiều thầy
cô giáo bộ môn đánh giá cao, được lãnh nhà trường ghi nhận.

16


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận :
Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm
phải bỏ nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình giáo viên chủ nhiệm

cần biết đặt tình thương, trách nhiệm để giải quyết các tình huống của lớp phụ trách
trên cơ sở nề nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối hợp chặt chẽ giữa ba môi
trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Ngoài ra người GVCN phải biết sáng tạo linh
hoạt trong mọi hoàn cảnh. Cần nắm vững tâm lý của học sinh: Các em cần gì, nghĩ gì,
làm gì, ...
Từ những trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật
cho học sinh thành công hay thất bại phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Chúng ta không nên
áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp giáo dục tiên tiến nào bởi lẽ sản
phẩm đây chính là “con người”. Ngay cả phương pháp nàỳ đã thành công và kiểm
chứng qua nhiều học sinh nhưng có thể sẽ thất bại với học sinh kế tiếp. Để đạt được
mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng
của từng trường, từng lớp, từng học sinh,… Với bất kỳ một phương pháp giáo dục nào
cần phải có một kế hoạch tổng thể đến chi tiết như một giáo án lên lớp và thường
xuyên phải điều chỉnh với sự thay đổi của học sinh và môi trường xung quanh sao cho
phù hợp. Vì vậy, trong việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm
rất đặc thù và đầy sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố . Do vậy, không thể có
một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của giáo viên chủ nhiệm đặc biệt như hoạt
động giáo dục tính kỷ luật cho học sinh.
Trên đây là một số giải pháp giáo dục tính kỷ luật cho học sinh trong công tác
chủ nhiệm nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh. Trong
công tác chủ nhiệm , tôi đã vận dụng và có hiệu quả trong nhiều năm qua, đặc biệt là
ở lớp 12C5 năm học 2016- 2017. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn không thể
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của quý đồng
nghiệp để tôi tiếp tục bổ sung và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay trong việc
nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật cho học sinh cũng như trong công tác chủ nhiệm.
3.2. Kiến nghị
Trong xu hướng hiện nay, áp lực học tập và thi cử rất nặng nề đối với mỗi học
sinh. Chính vì thế cần tổ chức nhiều hơn các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh
để các em có được sân chơi lành mạnh, bổ ích. Cần tăng cường công tác giáo dục kỹ
năng sống cho các em, để các em hiểu thêm về vai trò, trách nhiệm của bản thân với


17


gia đình và xã hội. Tiếp đến nâng cao vai trò của giáo viên, các đoàn thể trong nhà
trường trong việc định hướng nghề và phát triển năng lực hiện có của các em. Có như
vậy, các em sẽ tự hoàn thiện về bản thân mình hơn để “Rèn đức, luyện tài vì ngày mai
lập nghiệp”.
Xin trân trọng cảm ơn Hội đồng và các đồng nghiệp đã dành thời gian để đọc
sáng kiến của tôi !.
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2017
HIỆU TRƯỞNG

NGƯỜI VIẾT
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác

Nguyễn Văn Nhiên

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các tài liệu về Bồi dưỡng thường xuyên liên quan đến tâm lý tuổi học sinh THPT
và giáo viên chủ nhiệm.
2. Các bài báo, trang mạng xã hội

3. Các bài diễn thuyết trên Youtube


19



×