Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Những biện pháp giáo dục học sinh cá biệt trong trường trung học phổ thông sầm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.54 KB, 20 trang )

I. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Hẳn ai cũng nhớ câu danh ngôn bất hủ của Philoxène de Cythere:“Cha mẹ
cho con sự sống, còn thầy cô cho con cách sống”.
Hay từ xưa ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục:
“Tiên học lễ, hậu học văn”. Ngày nay phương châm: “Dạy người, dạy chữ, dạy
nghề” cũng thể hiện tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức. Vai trò của
người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy, vừa
làm công tác giáo dục mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức
văn hóa, vừa có nhân cách làm người.
Thế nhưng hiện nay nhiều trường luôn lấy thành tích và chạy đua theo thành
tích học tập mà quên đi nhiệm vụ cao cả là giáo dục đạo đức cho học sinh cá
biệt.
Trường THPT Sầm Sơn nơi tôi công tác là trường có bề dày thành tích của
nghành giáo dục tỉnh Thanh Hóa và cũng là nơi đã giúp biết bao lớp lớp học
sinh thành danh. Trong số đó không ít em đã từng là học sinh cá biệt của trường.
Số học sinh cá biệt trong trường tuy không nhiều nhưng ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng giáo dục của nhà trường và là điều trăn trở của bao giáo viên, đặc
biệt là người giáo viên chủ nhiệm.
Sầm Sơn là nơi đa số các hộ dân sống bằng nghề du lịch, dịch vụ, đánh cá…
Hiện nay tập đoàn FLC đang đầu tư nhiều dự án du lịch cần rất nhiều nhân lực
làm việc. Chỉ cần các em có sức khỏe, có đạo đức tốt thì có thể tìm được việc
làm phù hợp cho mình. Số các em học giỏi văn hóa có thể thi vào các trường Đại
học, cao đẳng có uy tín sau này có thể tìm được việc làm. Trong khi đó một số
em có kiến thức hạn chế nếu một số các trường chuyên nghiệp khác sau khi tốt
nghiệp thậm chí không xin được viêc làm. Đặc biệt là các em học sinh cá biệt.
Vì vậy tôi đưa ra đề tài “Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường
THPT Sầm Sơn” với mong muốn giáo dục các em học sinh cá biệt, giúp các em
có hướng đi đúng đắn để các em không còn chơi bời, lêu lổng, ham chơi
nữa….Làm sao để đạo đức của các em tốt lên hy vọng khi tốt nghiệp xong
THPT dù không học các trường chuyên nghiệp các em vẫn có thể tìm cho mình


một công việc làm phù hợp.
.2. Mục đích nghiên cứu:
.2.1. Đối với giáo viên:
Trong phạm vi đề tài này tôi xin được trao đổi một số phương pháp giáo dục
học sinh cá biệt để các giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn tham khảo với
hy vọng bạn bè, đồng nghiệp cùng chung tay, góp sức giáo dục có hiệu quả các
học sinh cá biệt nâng cao chất lượng giáo dục cho nhà trường và góp phần nâng
cao hơn nữa thực chất chất lượng giáo dục hiện nay..
.2.2. Đối với học sinh:
Mặt khác mục đích chính trong đề tài này tôi mong muốn hạn chế được
những đối tượng học sinh yếu về mặt đạo đức, biến các em học sinh cá biệt (các
1


em hư hỏng, thường xuyên gây gỗ đánh nhau, bỏ học, nghiện điện tử, vi phạm
nội quy của lớp của trường…) – đối tượng được xem là đồ bỏ đi trở thành những
học sinh ngoan, có thành tích trong học tập và sau này trở thành người có ích
cho xã hội.
.3. Đối tượng nghiên cứu:
Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết
yếu trong nhà trường THPT. Đặc biệt một trường ở thành phố du lịch phát triển
như trường THPT Sầm Sơn có nhiều đối tượng học sinh cá biệt, mỗi em một vẻ
cá biệt khác nhau đòi hỏi quá trình giáo dục phải có nhiều sáng tạo mới có hiệu
quả được.
.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra giáo dục.
- Phương pháp khảo sát thực tế và thu thập thông tin.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Bác Hồ đã từng nói:
“ Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Theo quan điểm này bản chất con người - học sinh là lương thiện, các em
hồn nhiên, trong sáng nhưng do những yếu tố khác nhau làm ảnh hưởng đến đời
sống, tâm lý của học sinh nên các em có những biểu hiện khác nhau như vậy.
Ở lứa tuổi THPT - lứa tuổi các em không còn là trẻ con nhưng cũng chưa
hoàn toàn là người lớn, trong khi các em chưa có sự hiểu biết tương ứng cộng
với hoàn cảnh sống mỗi em một khác nhau, có em may mắn nhận được sự tư
vấn kịp thời của cha mẹ khi ở trong trạng thái thiếu cân bằng ấy, có em không
được sự quan tâm đúng mức, có em thì lại được quá chiều chuộng... Từ sự khác
biệt trên nảy sinh ra những hiện tượng cá biệt trong học sinh và chính một bộ
phận học sinh này đã gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm lớp.
Những biểu hiện cá biệt của học sinh lại rất khác nhau về mặt hình thức cũng
như mức độ nên giáo viên chủ nhiệm lớp cũng rất khó trong việc phát hiện và có
biện pháp xử lý thích hợp…
Thông thường trong khi làm công tác chủ nhiệm lớp, giáo viên chủ nhiệm
thường quan tâm đến những đối tượng học sinh cá biệt nổi trội mà ai cũng nhìn
thấy được, từ đó giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu tính cách cá biệt của các em do
những nguyên nhân nào để có hướng giáo dục thích hợp. Có những trường hợp
học sinh cá biệt nhưng không có biểu hiện rõ, khó phát hiện nhiều khi giáo viên
chủ nhiệm cũng lầm tưởng nên chưa có được phương pháp giáo dục thích hợp.
2


Theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác - Lê nin: "Bản chất con người
là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội", như vậy những hiện tượng học sinh cá

biệt được nêu trên đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên hoặc tình cờ mà
có, tất cả đều có những nguyên nhân nhất định. Nếu vì những nguyên nhân đó
mà các em rơi vào trạng thái thiếu cân bằng thì chúng ta phải làm cho các em trở
về trạng thái cũ vốn có của nó.
Không ít giáo viên chủ nhiệm lớp cho rằng việc giáo dục HS cá biệt quả là
một việc vô cùng khó, có lúc cho rằng đó là bản chất của các em và nhiều giáo
viên như muốn buông bỏ.
Tôi xin trích dẫn câu nói của ông Kim Woo-Choong - nhà sáng lập kiêm cựu
Chủ tịch Tập đoàn Daewoo – tâm sự trong cuốn hồi ký của mình.
“Tôi muốn nói đôi lời với các bậc phụ huynh và thầy cô giáo vấn đề này.
Không phải mọi học sinh đều là học sinh giỏi cả và một số trong họ là những kẻ
gây rối. Và chính những học sinh đó mới cần đến sự quan tâm và săn sóc của
các bậc phụ huynh và thầy cô” .
Ở lứa tuổi này các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn của người lớn hay nói cách
khác các em cần có sự giáo dục và các em rất cần đến chúng ta, không việc gì bi
quan về hiệu quả giáo dục của mình, muốn đạt được hiệu quả cao chúng ta cần
có tâm huyết, năng động sáng tạo đồng thời có sự kiên trì, nhất định chúng ta sẽ
thành công.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1.Thuận lợi:
Như tôi đã trình bày ở trên học sinh trường THPT Sầm Sơn đa số các em là
học sinh ngoan. Những học sinh cá biệt tuy không nhiều nhưng lớp nào cũng có.
Các em học sinh “đặc biệt” ấy tuy hư hỏng, ham chơi, không chịu học, đánh
nhau trong trường học, không nghe lời bố mẹ, thầy cô, nghiện điện tử… Nhưng
chưa có em nào hư hỏng đến mức phải vào trại cai nghiện hay tiêm chích ma
túy…
2.2.2.Khó khăn:
Tuy nhiên phần lớn các em học sinh cá biệt lại muôn hình muôn vẻ. Lớp tôi
chủ nhiệm năm 2014-2015 là một lớp có lực học yếu nhất khối, số học sinh cá
biệt lại đông (7 Học sinh).


3


Có em thường xuyên đánh lộn với bạn bè. Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Một số học sinh thường trốn học đi chơi Game.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Có học sinh không chú ý học tập, tiết nào cũng ngủ gật.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
4


Nguyên nhân dẫn đến cá biệt của các em là khác nhau:
a. Nguyên nhân khách quan:
a.1. Nguyên nhân về phía gia đình:
“Gia đình là nền móng của xã hội”. Thời gian mà các em sống với gia đình là
khoảng thời gian dài nhất, chính vì thế môi trường sống của gia đình có ảnh
hưởng rất lớn đối với các em, những thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình
sẽ hình thành cho các em nền móng để các em tiếp xúc ngoài xã hội. Những em
thiếu may mắn sinh ra trong gia đình cha mẹ bất hoà, cách cư xử của cha mẹ thô
bạo, rượu chè bê bết... đã tạo cho các em một ấn tượng không tốt điều đó có thể
dẫn đến tình trạng học sinh trở nên lầm lì ít nói, có em ảnh hưởng những thói
quen không tốt đó cũng có những hành vi cử xử không tốt với mọi người, có em
lại mặc cảm, tự ti ….
Có những gia đình lại quá chiều chuộng con cái do hiếm con hoặc phân biệt
giới tính con muốn gì được nấy, con có hành vi chưa ngoan nhưng không răn đe
từ đầu, dạy dỗ con chưa đúng cách.
Ngày nay do công việc quá bận rộn, nhiều gia đình lo đi làm ăn nên không

có thời gian quan tâm để ý gì tới việc học của con cái, mọi việc học của con phó
mặc cho nhà trường, ngoài ra còn có những có những học sinh phải ở nhà với
ông bà, thậm chí là ở nhà một mình vì bố mẹ đi làm xa.
Lúc vui buồn không có người chia sẻ, chúng hay tìm đến tụ tập với bạn bè
xấu, không có người uốn nắn kịp thời…. Hình thành nên tính cách cá biệt trong
học sinh.
a.2. Nguyên nhân về phía nhà trường:
Đây là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gởi gắm niềm tin vào
việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết, được
lớn lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu cũng không phải
là dễ, trong thực tế cũng có một vài trường chưa thực hiện được chức năng là
ngôi nhà thứ hai của các em, bởi vẫn còn đâu đó có những thầy cô giáo chưa
nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên
chưa nhiệt tình với các em, chưa thật sự là nơi đáng tin cậy. Cũng có một vài
thầy cô giáo do cách cư xử chưa phù hợp nên đâu đó cũng xúc phạm học sinh,
đối xử thiếu công bằng với các em, ngại khó khi phải giáo dục những em cá biệt,
cáu giận, sĩ nhục học sinh... đã làm mất lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng
cách không đáng có giữa thầy và trò và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện
chống đối lại từ phía học sinh.
a.3. Nguyên nhân về phía môi trường xã hội:
Ngoài môi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc rất lớn
vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển
của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hoá khác
nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh niên. Các loại hình dịch vụ như
Internet, bi da, caraoke... đã lôi kéo không ít học sinh vào đam mê những trò
chơi vô bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi da, đánh bạc... là
chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp giật….
5



Sầm Sơn là thị xã du lịch lâu đời, từ nhỏ các em đã chứng kiến những cảnh
bố mẹ làm ra tiền khá dễ dàng từ điều kiện thiên nhiên mang lại. Có những học
sinh ngay từ nhỏ đã có thể làm ra tiền bằng cách làm thêm vào mùa du lịch.
Hàng ngày các em chứng kiến cảnh những đôi trai gái yêu nhau…., tệ nạn xã
hội cũng nhiều. Có em lại nghĩ rằng mình không cần phải học sau này cũng có
thể làm ra tiền. Vì vậy các em dễ bị lôi cuốn bởi những thói hư, tật xấu của môi
trường xã hội chung quanh là điều tất yếu.
b. Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em:
Trong thực tế có những học sinh chưa nhận thức được: Học để làm gì? Vì cái
gì mà học? Hoặc chưa biết cách hòa quyện giữa quyền và bổn phận của mình
trong cuộc sống.
Một số em lại có niềm tin sai về giá trị của con người và cuộc sống. Các em
cho rằng tiền bạc, quyền uy làm nên giá trị của con người.
Ngày nay do xu thế chung các em chỉ cần nghĩ rằng mình chẳng cần phải học
nhiều, chỉ cần học hết tốt nghiệp sau đó tìm một việc gì đó để làm. Việc hạn chế
trong tiếp thu kiến thức của các em cũng dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn
phá phách, nhất là đối với học sinh nam. Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có
thể các em vì tự ái về sự chê cười của thầy cô và bè bạn, các em muốn chứng
minh cho mọi người thấy rằng mình học không tốt nhưng mình có thể nổi trội
hơn về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cô chú ý mình hơn chẳng hạn, chính vì
thế mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy định chung.
Từ việc nghiên cứu các dạng học sinh cá biệt và những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng ấy, tôi tìm ra những phương pháp tối ưu để từng bước cảm hoá giáo
dục các em. Sau đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong việc giáo dục
học sinh cá biệt mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài này:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Ngoài việc đẩy mạnh các hoạt động giáo dục thông qua các tiết sinh hoạt lớp,
15 phút đầu buổi, các hoạt động ngoại khoá... để giáo dục hạnh kiểm học sinh.
Tuy vậy đối với học sinh cá biệt ngoài những biện pháp giáo dục chung, GVCN
cũng cần có biện pháp giáo dục đặc thù.

Việc giáo dục các đối tượng học sinh cá biệt không đơn thuần là nhìn nhận
những biểu hiện bên ngoài của các em mà cần phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn
đến các hành động thiếu chuẩn xác, khi đã xác định được nguyên nhân chúng ta
mới tìm ra biện pháp giáo dục phù hợp.
2.3.1. Những điều nên tránh.
a. Không cô lập, tách rời học sinh cá biệt với tập thể lớp.
b. Không xúc phạm và làm tổn thương danh dự của học sinh trước tập thể
lớp. Mỗi lời nói cũng cần phải thận trọng.
c. Không quá khắt khe xử lí mạnh tay bằng những hình thức kỉ luật nặng nề,
đe dọa, thành kiến, không dùng lời lẽ nặng nề, đao to búa lớn:
d. Không bỏ mặc và phủ nhận những chuyển biến của học sinh cá biệt,
những thay đổi theo chiều hướng tích cực – dù nhỏ cũng đáng trân trọng
và phải ghi nhận.
6


2.3.2. Các biện pháp giáo dục.
a. Giáo dục bằng biện pháp tâm lí.
a.1. Người giáo viên chủ nhiệm phải dùng tình cảm để cảm hóa các em.
Đối với học sinh các biệt người giáo viên chủ nhiệm phải biết nhìn bằng con
mắt của tình thương và sự cảm thông thật sự, xem học sinh như người thân của
mình. Ta nên có cái hiền từ bao dung của người mẹ, người cha, cái gần gũi cảm
thông của người anh, người chị, và cái thân thiết của một người bạn.
Hơn nữa quan hệ thầy trò vốn là mối quan hệ tách biệt từ ngàn xưa. Trong
nền giáo dục hiện tại, quan hệ đó đã được thay đổi, thầy trò ngày nay có tình
cảm thân mật gắn bó hơn, có như vậy thì chúng ta mới thực hiện tốt được nhiệm
vụ giáo dục toàn diện được. Bởi có quan hệ gần gũi thì mới biết được những tâm
tư nguyện vọng của các em chúng ta mới có những biện pháp giáo dục thích hợp
được.
Đối với học sinh cá biệt việc gần gũi với các em quả là một vấn đề không

đơn giản, nếu GVCN thiếu tế nhị một xíu thì khó mà có thể gần gũi với các em
được, chẳng hạn thường xuyên phê bình, dùng nhiều lời xúc phạm đến các em ...
đều có thể làm tổn thương đến mối quan hệ này. Hơn nữa vì các em thường
xuyên vi phạm nên các em càng lẩn tránh tiếp xúc với giáo viên nhất là giáo
viên chủ nhiệm lớp.
Để thấy được hết cá tính của học sinh, GVCN cần tạo được mối quan hệ gần
gũi với các em, thật sự là chỗ dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ của các em. Chú
ý khi giao tiếp với các em ta phải luôn cởi mở, chân tình, vui vẻ để cảm hóa
được các em, khi có được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ những tâm tư tình
cảm với GVCN mà không một chút ngần ngại. Những lời khuyên răn dạy bảo
của chúng ta sẽ có tác dụng lớn đối với các em.
Ví dụ: Em Nguyễn Văn Nghĩa ở lớp tôi chủ nhiệm năm 2014 - 2015 là một
học sinh học rất yếu, em thường xuyên không thuộc bài cũ và điểm rất kém ở
các bài kiểm tra, em thường xuyên vi phạm nội quy của lớp, của trường, em
chán nản và có ý định bỏ học nhưng vì gia đình ép nên em đành phải đi học. Em
tỏ ra lầm lì ít nói, mặc cảm với bạn bè, với thầy cô, xa lánh mọi người, nhất là
đối với tôi em lại càng lẩn tránh hơn.
Khi gọi em ra ngoài tâm sự, tôi đã kể cho em nghe về sự thiếu may mắn
trong tuổi thơ của mình và làm thế nào để tôi thoát ra khỏi sự ám ảnh không may
mắn đó để vươn lên. Thoạt đầu em giả vờ như không quan tâm nhưng qua tìm
hiểu tôi biết hoàn cảnh của em có sự tương tự. Không bỏ cuộc hôm sau tôi lại
tìm cách nói chuyện với em. Lần nay em đã không thể kiềm chế được cảm xúc
thật của mình. Em bắt đầu kể về gia đình thiếu may mắn của mình. Mẹ em mất
sớm bố lấy gì hai, mấy năm sau bố mất,em sống với gì và hai em nhỏ. Gánh
nặng đè lên vai gì mà em học hành không giỏi, hay bị phê bình và những nỗi
bực dọc của gì đều trút hết lên đầu em khiến em cảm thấy mình vô tích sự. Và
em bắt đầu phá phách, em bất cần không nghe lời bất cứ ai.
7



Biết được tâm tư, nguyện vọng của em, tôi động viên em học, trong các giờ
học tôi thường xuyên quan tâm em nhiều hơn, trao đổi với giáo viên bộ môn tạo
điều kiện tốt hơn để em tự tin trong học tập, phân công các em học sinh giỏi ở
gần nhà đến giúp đỡ, ở lớp - tôi phân một em học sinh giỏi, nhiệt tình ngồi cạnh
để quan tâm nhiều đến em hơn. Nhận ra vai trò của mình trong gia đình dần dần
em tự tin hơn, em được nhiều người quan tâm, em nỗ lực cố gắng và đã có
những tiến bộ rõ nét, học kỳ I vừa qua em đạt loại trung bình, học kỳ II tiếp tục
rèn luyện chắc chắn em sẽ được lên lớp hẳn.
Để hiểu được học sinh cá biệt phải biết chấp nhận các em vô điều kiện, quan
tâm đến những điều các em nghĩ và bàn về những đề tài mà các em thích. Đó là
cách mạng để các em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiết, khi
niềm tin đủ lớn người thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi và định
hướng nhận thức.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Trường hợp Em Nguyễn Văn Sơn lớp tôi năm nay là một HS nằm trong một
hoàn cảnh đặc biệt, cha mất sớm, một mình mẹ nuôi em ăn học, vất vả vì công
việc, thu nhập ít, đời sống vô cùng chật vật, không có thời giờ để quan tâm
nhiều đến em. Sơn theo bạn, bỏ học, đánh lộn, chơi điện tử, bi a, có hôm lấy
trộm tiền của các bạn trong lớp.
Sau khi theo dõi và tìm hiểu phân tích hoàn cảnh của Sơn, tôi gặp riêng em
sau giờ học cuối cùng của ngày thứ bảy - cả lớp đã ra về tôi gọi em ở lại để
khuyên nhủ em, trước mặt tôi em rất ngoan ngoãn không có biểu hiện gì. Tôi bắt
đầu từ việc hỏi thăm gia đình em, mẹ em thế nào? Cô nghe nói vừa qua mẹ em
bị ốm nặng bây giờ thế nào rồi... trước sự quan tâm chân tình của cô giáo chủ
nhiệm với bản tính lương thiện của trẻ em- Sơn nói chuyện với tôi chân tình.
Khi thấy em không ngần ngại gì trong tâm sự cùng tôi, tôi bắt đầu gợi ý nhắc
nhở từng vi phạm của em, chú ý trong các vi phạm của em tôi đều đưa em vào
thế bị lôi kéo theo bạn mà hư. Tôi dùng tình cảm của người mẹ để tâm sự cùng
em: “ Em là niềm an ủi duy nhất đối với mẹ - mẹ là chỗ dựa duy nhất của em,

8


mẹ tần tảo nuôi em ăn học là muốn em trở thành người tốt, bao vất vả nặng nhọc
mẹ đều gánh chịu để em được có điều kiện tốt mà học tập bằng bạn bằng bè, thế
mà vừa rồi cô nghe mẹ ngã bệnh là do biết em theo các bạn bỏ học, trộm cắp...
em không thương mẹ sao?” Nói đến đây, tôi thấy đôi mắt em chớp chớp, rưng
rưng... Tôi đã cảm hoá được em, từ đó tôi thường xuyên trao đổi với em, mỗi lần
trao đổi riêng, tôi đều tìm cách khen ngợi những tiến bộ của em.

Giáo viên tâm sự cùng học sinh cá biệt.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
a.2. Mặt khác người thầy còn phải kiên trì tạo niềm tin.
Phải hòa mình vào phong cách sống, vào hoàn cảnh của các em. Để điều
hành được học sinh cá biệt người thầy phải sắm đủ các vai. Khi thì là nhà mô
phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu, khi là nhà tâm lí, lúc
lại là bác sĩ trị liệu, khi thì làm ông trọng tài có lúc lại là nhà cố vấn. Phải kiên
trì cho đến khi cá em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
9


a.3. “Hãy tìm ra những năng lực đặc biệt ở những học sinh đặc biệt”
Các em học sinh cá biệt tuy học yếu nhưng bù lại lại có những năng khiếu
như: văn nghệ, thể dục thể thao, vi tính….Nếu biết cách phát huy những năng
khiếu này mang lại hiệu quả nhất định cho phong trào hoạt động của nhà trường.
Ví dụ: Em Cao Sỹ Dũng lớp tôi chủ nhiệm năm học 2014-2015 là một học
sinh cá biệt. Năm lớp 10 và lớp 11 em là học sinh luôn gây gỗ đánh nhau trong
nhà trường. Nhưng em lại có năng khiếu môn võ thuật, sau khi phát hiện ra điều

này GVCN đã kết hợp với giáo viên bộ môn thể dục giáo dục ý thức cho em và
xếp em vào đội tuyển học sinh giỏi môn võ thuật. Từ đó năm nào em cũng mang
lại giải cho các cuộc thi đấu của trường. Được khích lệ đúng lúc và phát triển
năng khiếu của mình em vui vẻ phấn đấu và không còn vi pham nội quy nhà
trường nữa.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Kim Woo-Choong viết trong cuốn sách của mình nhan đề “Thế giới quả là
rộng lớn và có rất nhiều việc phải làm”:
“Nếu chỉ chửi mắng và trách móc sẽ không có kết quả gì. Các bạn phải quan
tâm tới họ và khám phá ra những khả năng độc đáo của họ. Các bạn phải nhận ra
khả năng tiềm ẩn của các bạn trẻ, hướng dẫn theo đúng cách để giúp họ bộc lộ ra
tiềm năng vô hạn của mình”.
“Einstein lúc còn là sinh viên học rất tệ và Edison còn bị tống ra khỏi
trường” .
a.4. Nhẹ nhàng phân tích những mặt ưu, khuyết điểm, đúng, sai trong
nhận thức, suy nghĩ của các em.
Không nên nói: “Em thật chẳng làm nên trò trống gì”; “Sau này cuộc đời em
sẽ chẳng ra gì” ;….Vì trên thực tế có rất nhiều học sinh khi còn ngồi trong ghế

10


-

-

nhà trường em là học sinh cá biệt, bị thầy cô và bạn bè xa lánh nhưng sau này ra
đời học sinh đó lại rất thành công trong trong một số lĩnh vực khác.
Tôi xin mạn phép kể lại câu chuyện mà tôi đã được nghe trong chương trình

tin tức 24H TV như sau: Ở một trường nọ trong một lớp có 26 học sinh đều là
học sinh cá biệt, gia đình và nhà trường đều không thể giáo dục và xem chúng là
đồ bỏ đi.Tiểu sử của các em đều không mấy hay ho. Có em từng vào trại cải tạo,
em từng tiêm chích ma túy… Một ngày kia có một cô giáo trẻ về trường cô tình
nguyện chủ nhiệm lớp trong sự tò mò của bao người. Ngày đầu tiên nhận lớp
khác với suy nghĩ của lũ trẻ cô giáo trẻ vào lớp không hề quát nạt hay ra oai mà
dịu dàng, trầm ngâm nhìn lũ trẻ nói: Cô sẽ kể cho các em nghe về quá khứ của 3
người đàn ông:
Người thứ nhất: Đã từng có những vụ bê bối về chính trị,thời thanh niên có tới
hai tình nhân, hút thuốc rất nhiều, uống từ 8 đến 10 ly rượu mạnh mỗi ngày.
Người thứ hai: Đã từng hai lần bị đuổi việc, ngày nào cũng ngủ tới trưa mới dạy,
tối nào cũng uống rượu, thời sinh viên đã hai lần hút thuốc phiện.
Người thứ ba: Là anh hùng chiến tranh của một đất nước, ông luôn ăn chay,
không bao giờ hút thuốc, thỉnh thoảng uống chút rượu bia nhưng không nhiều,
thời thanh niên chưa từng phạm pháp và chưa từng có một vụ bê bối tình ái nào.
Các em có biết sau này ai sẽ là người cống hiến cho nhân loại nhiều nhất
không? Cả lớp đồng thanh trả lời là người thứ ba.
Cô giáo trẻ nói: Cô biết chắc chắn các em sẽ nghĩ rằng chỉ có người thứ ba
mới có khả năng cống hiến được nhiều cho nhân loại nhưng các em đã sai rồi.
Cả ba người đều là nhân vật nổi tiếng trong đại chiến thế giới thứ 2.
Người thứ nhất tên là Franklin Rosoevelt tuy tàn tật nhưng ý chí rất kiên cường
và đảm nhận chức tổng thống Mĩ trong 4 nhiệm kì liên tiếp.
Người thứ hai tên Winston Churchill là vị thủ tướng tài ba nổi tiếng của nước
Anh.
Còn người thứ ba là Adolf Hitler đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu
người dân vô tội.
Các em biết không những điều cô vừa kể là quá khứ của họ và những việc họ
đã làm sau này là khi họ bước ra khỏi cái quá khứ đó. Hãy bước ra từ bóng tối
của quá khứ để bước đến tương lai.
Câu chuyện kết thúc cả 26 học sinh cá biệt sững sờ, chết lặng. Hãy đừng

buông bỏ những học sinh cá biệt hãy kiên trì rèn luyện đạo đức cho các em đến
khi suy nghĩ của các em thay đổi.

11


Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
a.5. Giúp học sinh các biệt khắc phục và sữa chữa những sai lầm của
mình và chú ý theo dõi, động viên, khích lệ kịp thời.
Một lời khen của thầy cô đối với một học sinh cá biệt có tác dụng hơn một
bản kiểm điểm.
Một trường hợp khác, gia đình kinh tế khá giả, cha mẹ buôn bán, lo việc
kinh doanh không quan tâm đến việc học tập của con em, như gia đình em Huy.
Huy là một học sinh học khá từ những năm THCS, khi mới vào học THPT
Huy thấy kiến thức học quá nhiều, nhiều môn học quá tải với em. Huy tâm sự
với tôi: “Thoạt đầu em chỉ định đi theo bạn ra quán điện tử để giải tỏa tâm lí
căng thẳng, mỗi lần chơi em thấy thoải mái, không phải áp lực gì…..dần dần lúc
nào em cũng nghĩ đến nó và đầu óc em không tài nào thoát ra được. Em bắt đầu
bỏ học , lấy trộm tiền của mẹ…” Với Huy tôi dùng biện pháp khác tôi theo dõi
em nhiều hơn, hễ em có vi phạm gì là tôi biết ngay và mỗi lần trao đổi với em
tôi đều đưa ra những chi tiết rất chính xác, ví dụ chiều nay em bỏ học tiết 2, 3 đi
chơi điện tử ở quán.... với em..., sáng thứ ba em xin nghỉ học với lý do đau
bụng nhưng cô biết em chơi điện tử với bạn...lớp. “ Cha, mẹ bận bịu công việc
cốt tạo sự nghiệp và cũng là tạo điều kiện để em ăn học, lo cho tương lai của em,
nhiều bạn gia đình vất vả mà các bạn vẫn cố gắng học tốt như bạn Long, bạn
Thu... còn em có điều kiện tốt mà không lo học tập”. Tôi giao bài tập ở mức độ
vừa phải cho em. Nhờ bạn Long lớp trưởng học kèm và hướng dẫn cho em các
bài khó. Dần dần Huy thấy mình bận bịu hơn không còn nhiều thời gian để đi
chơi và Huy cũng đã sửa đổi.
a.6. Biết sử dụng hiệu quả phương pháp: “Lạt mềm buộc chặt”

Có câu nói: “Quá cứng thì dễ gãy, quá mềm thì khó uốn”. Trong sự nghiệp
trồng người thì học sinh cá biệt như cái cây không mọc thẳng. Đối với loại cây
này Giáo viên chủ nhiệm cần phải chăm sóc nhiều hơn.
12


Em Nguyễn Quốc Khánh một cựu học sinh của trường THPT Sầm Sơn đã kể
với tôi. Em từng là học sinh cá biệt trong lớp với đủ trò quậy phá như: giấu sổ
đầu bài, bỏ tiết, đánh lộn….Em kể: “ Có một lần tụi mình giấu sổ đầu bài và bị
giáo viên bộ môn quở trách,tưởng cô chủ nhiệm sẽ la rầy nhưng cô vẫn bước
vào lớp và dạy bình thường. Tuy nhiên thấy cô như vậy tụi mình thấy có lỗi
giống như cô buồn mà cố chịu đựng vậy”.
Đối với những học sinh cá biệt này kỉ luật hay lớn tiếng trách phạt đôi khi
không có hiệu quả mà phải dùng phương pháp : “Lạt mềm buộc chặt”

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Là giáo viên bộ môn của lớp 10A6 trường tôi năm học 2016- 2017 – một lớp
nổi tiếng là có nhiều học sinh nữ cá biệt. Có một lần trong một tiết học gần hết
giờ có một học sinh bấm còi trong lớp. Lần đầu tôi nghe nhưng vì chưa xác định
được ở vị trí nào nên tôi lờ đi, 5 phút sau tôi nghe lần nữa. Tôi chưa kịp nói gì
thì hết giờ. Ngày mai có tiết môn của tôi ở lớp đó. Tôi bước vào lớp và dạy như
bình thường, thậm chí tôi còn chuẩn bị bài giảng chu đáo hơn. Tôi say sưa dạy,
khác với mọi hôm, hôm nay các em không ồn ào mà giơ tay phát biểu rất tích
cực. Đợi lúc lớp đang trật tự tôi nói: “ Các em có thể có những lúc làm một điều
gì đó chưa đúng nhưng chỉ cần các em biết lỗi lần sau không tái phạm thì thầy
cô, bạn bè, cha mẹ các em đều có thể tha thứ. Cả lớp yên lặng và tôi biết chúng
đã hiểu điều tôi nói”.
Một tiết học khác ở lớp đó xảy ra hiện tượng tương tự. Nhưng khi giáo viên
bộ môn này quát nạt, đe dọa nếu em nào không đứng dậy cô sẽ không cho học
môn đó nữa. Vậy là cả tiết cứ vài phút học sinh bấm một lần, chúng bao che

nhau không em nào nhận lỗi. Cả tiết cô giáo nọ không thể dạy được mà không
tìm ra thủ phạm của trò quậy phá đó.
a.7. Người giáo viên chủ nhiệm phải biết chấp nhận, yêu thương và phải
biết kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, có sự nhạy cảm sư phạm biết
dùng yếu tố tình cảm như một nghệ thuật, kiên định với mục tiêu: “Tất cả
vì học sinh thân yêu”.
13


Frank McCourt một thầy giáo người Mĩ (người được tặng danh hiệu Nhà
giáo ưu tú) đã kể trong cuốn hồi kí của mình: Trường hướng nghiệp nơi thầy dạy
được xem là bãi rác cho những học sinh không đủ trình độ vào trương trung cấp
bình thường. Ngày nhận lớp cũng là ngày thầy đứng quan sát chúng la hét,quậy
phá đủ kiểu. Chúng lấy bánh mì ném nhau và một học sinh lên tiếng: “Để xem
tay thầy giáo mới này sẽ làm gì”.Sau một hồi bình thản,ông quyết định ăn chiếc
bánh. Ông viết: “Đó là hành xử đầu tiên của tôi trong lớp.Cái miệng đầy bánh
của tôi thu hút sự chú ý của cả lớp.Chúng trố mắt nhìn tôi thán phục.Tôi nghĩ tôi
đã nắm được chúng trong tay”.
a.8. Người giáo viên còn phải biết làm mới tiết dạy của mình.
Giáo dục học sinh cá biệt còn một yêu cầu quan trọng thầy cô phải giỏi
nghề. Thầy cô phải luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau mới
hơn tiết trước. Sau một tiết học học trò tiếp thu được nhiều tri thức bổ ích, tạo sự
đam mê, học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình.
Thầy cô biết cuốn học trò vào trò chơi học tập sẽ lấp hời gian chết, trò không
còn thời gian nói chuyện, chơi đùa, buồn ngủ,… trong giờ học.
Giáo dục học sinh cá biệt là một nghệ thuật, người thầy đứng trên bục giảng
đóng vai tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, các khán giả là học trò. Bài giảng
là một món ăn nếu nhàm chán học trò sẽ bỏ ăn - bỏ học.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

a.9. Phải biết tác động vào động cơ học tập.
Người thầy có thể cho học sinh xem tranh ảnh về nạn thất học, lớn lên đói
rách khổ sở lo cơm áo gạo tiền, bạn bè khinh thường, xa lánh. Ngược lại những
người có công ăn việc làm ổn định cuộc sống đầy đủ ấm no, cha mẹ nở mày nở
mặt. Từ đó học sinh thấy được tầm quan trọng của việc học tập.
b. Biện pháp giáo dục bằng tập thể:
14


Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội của các
em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần thiết hơn,
chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường có biểu hiện
bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng học sinh cá biệt,
mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần lớn các em đều trả
lời một câu chung nhất( không biết) - đối với những em có quan hệ gần gũi với
HS cá biệt, cũng có thể các em ngại không dám nói ra sự thật vì sợ sự đe doạ
của các bạn... Nhưng phải nói rằng tất cả những suy nghĩ, những việc làm của
các em cá biệt thì chính các em học sinh cùng lớp, cùng khối là biết rõ nhất.
Về vấn đề này GVCN cần khéo léo trong cách điều tra, có thể là điều tra
bằng cách giao nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự lớp hoặc một đối
tượng HS đáng tin cậy nhất nào đó và sẽ trao đổi với các em bằng cách bảo mật
thông tin. Thường thì những em này sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn tin chính
xác nhất.
Sau khi nắm được thông tin, phân tích tình hình, tôi hướng dẫn các em gần
gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo cho những em cá biệt
có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan hệ bạn bè các em sẽ bộc lộ rõ
cá tính không e ngại. Tôi thường xuyên giữ mối quan hệ với các em này tìm
hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục học sinh cá biệt để tháo gỡ khó khăn
cho các em, thường xuyên cung cấp biện pháp xử lý kịp thời những biến động
của các đối tượng và động viên các em, tạo cho các em có niềm tin thuyết phục,

giúp đỡ học sinh cá biệt tiến bộ.
Trong biện pháp này cũng có thể dùng cách (lấy độc trị độc). Qua các hoạt
động của lớp, GVCN cần theo dõi kỹ, qua từng hoạt động các em có những biểu
hiện như thế nào: say mê, hứng thú, nhiệt tình, tích cực hay qua loa chiếu lệ, đùn
đẩy, ... Hoạt động này em thích dẫn đến nhiệt tình, hoạt động kia không thích thì
né tránh..
Từ việc theo dõi trên GVCN có biện pháp phát huy sở trường của từng em
lấy đó làm đòn bẩy để tiến hành ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực khác nảy
sinh ở các em.
Ví dụ: Em Trần Trí Thiên là học sinh thường xuyên nói chuyện riêng trong
lớp, khi ban cán sự lớp phê bình là em hăm doạ đánh bạn. Để vừa ngăn chặn
được sự mất đoàn kết trong lớp đồng thời xây dựng nề nếp tiết học tốt tôi phân
em làm lớp phó nề nếp - giao nhiệm vụ theo dõi các bạn đồng thời trước lớp tôi
quy định những em cán sự lớp phải luôn gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động,
nếu vi phạm thì hình thức kỷ luật sẽ nặng hơn. Khi nhận chức danh lớp phó
Thiên rất vui vẻ, tuần đầu tiên em có tiến bộ nhưng vẫn còn một vài lần bị phê
bình là nói chuyện riêng, cuối tuần nhận xét tình hình chung của lớp tôi cho các
em phát biểu vai trò trách nhiệm của Thiên. Sau đó tôi nhận xét chung."Tuy rằng
trong tuần qua bạn Thiên vẫn còn sai sót - có vi phạm kỷ luật, nhưng so với các
tuần trước nề nếp của lớp ta tuần này tiến bộ hơn và bản thân Thiên cũng có tiến
bộ, vì sự tiến bộ của lớp ta có thể bỏ qua cho bạn và cho bạn cơ hội để khẳng
15


định vai trò của mình ở tuần học tiếp theo". Về sau Thiên đã ý thức được trách
nhiệm của mình và không còn vô kỷ luật như trước nữa.
Đối với những đối tượng thích gây rối tập thể, nghịch ngợm (lớp bị phê bình
là niềm vui của các em)... Đối với đối tượng này tôi dùng cách đẩy mạnh các
hoạt động của lớp để các em thấy được những việc làm của mình không có tác
dụng gì khi cả lớp đều có chung một sự quyết tâm nỗ lực vươn lên, làm cho các

em bị tách ra khỏi tập thể, không thể gây rối tập thể được và vô hiệu hoá những
hành động nghịch ngợm của các em. Không làm hại được tập thể lại bị tách ra
khỏi tập thể, các em tự khắc thấy mình như bị hụt hẫng, xấu hổ. Từ đó chính
các em có mong muốn được sống chung trong một tập thể đoàn kết. Khi các đối
tượng này thấy được những lỗi lầm của mình, giáo viên chủ nhiệm lớp cần động
viên học sinh trong lớp gần gũi khích lệ để các em hoà nhập với tập thể.
c. Kết hợp với phụ huynh học sinh:
Có thể trao đổi qua các cuộc họp phụ huynh học sinh chung của lớp, giáo
viên chủ nhiệm báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và có thể mời phụ huynh
các đối tượng này ở lại để trao đổi riêng, tránh sự mặc cảm của phụ huynh.
Có thể trao đổi qua việc đến thăm gia đình học sinh. Thường học sinh cá biệt
thì lại có phụ huynh cá biệt; một là không quan tâm đến việc học của con em,
hoặc không dám đối diện với sự thật về những sai phạm của con mình...thường
những phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp chung kể cả những lúc có
giấy mời riêng cùng không đến. Đối với đối tượng này giáo viên chủ nhiệm cần
nhiệt tình hơn, có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia
đình và nắm được tình hình của các em ở nhà, thường những đối tượng này họ
ngại nói những điều sai của con em họ vì thế tôi tổng hợp những điểm tốt mà
các em có được dù đó chỉ là một việc không đáng kể để khen ngợi các em, sau
đó tôi lồng một vài khuyết điểm của các em; tránh nêu hoàn toàn hoặc một loạt
khuyết điểm thì phụ huynh sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh sự tiêu cực, buông
xuôi, ngại nói ra những điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi.
Phải bàn bạc rõ với phụ huynh để phụ huynh phối hợp với giáo viên chủ
nhiệm trong việc giáo dục học sinh.
Phải phân tích để mỗi cha mẹ học sinh thấy được trách nhiệm của mình trong
việc giáo dục con cái. Mỗi cha mẹ hãy là tấm gương cho con cái noi theo, phải
quan tâm và uốn nắn con cái kịp thời, động viên con chấp hành đầy đủ nội quy
nhà trường và các chính sách pháp luật của nhà nước.
d. Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn:
Như phần trình bày nguyên nhân trên, một phần biểu hiện cá biệt của các em

là do quan hệ giữa giáo viên và học sinh chưa tốt, có em có những phản kháng
đối với những hành động quá đáng của một vài giáo viên. Ví dụ như có giáo
viên dùng những lời quá nặng nề trong việc nhận xét học sinh không thuộc bài
cũ, không hiểu được bài hay có những biểu hiện áp đặt, thiếu công bằng ... Để
xác định chính xác cá biệt của học sinh từ nguyên nhân này hay không, tôi thăm
dò hỏi tất cả giáo viên dạy bộ môn của lớp để có biện pháp giáo dục thích hợp
và cũng từ đó tôi có thể góp ý ngay với giáo viên trong việc cần phải tôn trọng
16


và công bằng trong đối xử với học sinh. Cũng có thể do tính cách cá biệt của các
em, ở mỗi môn học em có một biểu hiện cá biệt khác nhau, tôi tổng hợp các ý
kiến để xác định nguyên nhân cơ bản.
Từ việc trao đổi trên tôi tìm ra những ưu điểm của các em để động viên đồng
thời lồng vào từng chút một những khuyết điểm của các em để nhắc nhở khắc
phục.
Là một giáo viên bộ môn tôi nghĩ phải phấn đấu dạy tốt môn học của mình,
phải chú ý đến mọi đối tượng học sinh để tận tình giúp đỡ các em tiếp thu bài.
Nâng cao chất lượng giờ dạy và lồng ghép môn giáo dục công dân vào tiết dạy,
giờ học để trang bị cho các em những kiến thức cơ bản về đạo đức, về nghĩa vụ
và trách nhiệm của người công dân đẻ các em định hướng hành vi ứng xử của
mình cho phù hợp.
Ví dụ: Em Đào Thị Quỳnh là một học sinh cá biệt của lớp tôi chủ nhiệm học
2014 – 2015. Các môn học thuộc lĩnh vực tự nhiên em học rất tốt, nhưng các
môn đòi hỏi học bài thì em học rất yếu. Em luôn đem đến sự phiền toái cho lớp
như thường xuyên nói chuyện trong giờ học, đánh lộn với bạn bè, là trung tâm
gây rối cho một nhóm bạn hư trong lớp, có hôm bỏ nhà đi chơi rồi ngủ ở nhà
bạn... Cha mẹ em phiền hà, buông xuôi, phó mặc cho nhà trường…
Đối với đối tượng này tôi theo dõi thật sát đồng thời cứ mỗi lần không thuộc
bài tôi cho em viết một bản kiểm điểm, cam kết với giáo viên bộ môn và cam

kết với lớp. Sau đó tôi trao đổi với giáo viên về tính cách cá biệt của em đồng
thời mong muốn có sự kết hợp giáo dục bằng cách thường xuyên kiểm tra bài
em, nhất là trong tiết học luôn gọi em phát biểu trước lớp ưu tiên chọn những
câu hỏi tương đối dễ để em trả lời được và thường xuyên khen để khích lệ em,
nên bỏ qua lỗi nhỏ của các em. Với biện pháp trên qua một học kỳ em Quỳnh đã
tiến bộ rõ rệt cuối năm học em đã đạt được danh hiệu học sinh tiên tiến.
e. Bên cạnh đó tôi luôn tận dụng tối đa giờ sinh hoạt để giáo dục các em.
Thời gian đầu tiết là tổng hợp các lỗi của các học sinh trong lớp, phê bình
những học sinh vi phạm nội quy của lớp, của trường, những học sinh tiến bộ
động viên ,khích lệ kịp thời.
Tôi luôn đưa ra các hình thức kỉ luật phù hợp, không quá khắt khe, vừa mang
tính răn đe vừa mang tính giáo dục các em cá biệt. Các hình thức kỉ luật luôn
gắn liền với tình yêu thương.
g. Kết hợp với các ban ngành, các bộ phận trong và ngoài nhà trường:
g. 1. Kết hợp với tổ chức Đoàn thanh niên:
Tăng cường vai trò của của tổ chức Đoàn TNCS HCM trong việc tuyên
truyền các nghị quyết của Đoàn, tổ chức thực hiện: Nề nếp - kỉ cương,các phong
trào thi đua trong học tập - sinh hoạt; các hoạt động ngoài giờ lên lớp với các
chủ đề: Đền ơn đáp nghĩa - uống nước nhớ nguồn; Trao Tết cho học sinh
nghèo… Qua đó thu hút các em học sinh cá biệt đến với tập thể, đến với hoạt
động bổ ích, để giáo dục lòng nhân ái, truyền thống đạo lí con người.

17


g.2. Đối với ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp:
Có thể trao đổi rõ tình hình, tính cách và đặc điểm gia đình của từng học
sinh cá biệt sau. Có những việc cần trao đổi với phụ huynh học sinh có thể nhờ
đại diện cha mẹ học sinh của lớp làm. Những lúc các em cá biệt đạt thành tích
ban đại diện cha mẹ học sinh có thể đến trao phần thưởng, trao quà nhân dịp Tết

và khích lệ các em kịp thời.
g.3. Đối với hội phụ nữ thôn và tổ trưởng khu phố:
Giáo viên chủ nhiệm cũng cần phối hợp với tổ chức phụ nữ ở cơ sở để vận
động các em học sinh có ý định bỏ học tiếp tục đi học. Cũng có thể vận động các
phụ huynh có con em trong diện này quan tâm nhiều hơn đến con mình đồng
thời các chi hội phụ nữ thôn, tổ cũng có thể giúp chúng ta trong việc thu nhận
những thông tin mới về các em để chúng ta có biện pháp kết hợp giáo dục tốt.
Cần chú trọng xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với gia đình học sinh với nhân
dân khu phố. Hàng năm thông qua các văn bản, công văn báo cáo định kì nhà
trường cần trao đổi thông tin đồng thời cần triển khai kế hoạch với chính quyền
địa phương tham mưu công tác giáo dục đạo đức học sinh vào tiêu chí:“ Xây
dựng gia đình văn hóa – Khu phố văn hóa – Ông bà mẫu mực con cháu thảo
ngoan”. Từ đó tạo động lực để nhà trường và xã hội chung tay giáo dục học sinh
cá biệt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
a. Đối với học sinh và hoạt động giáo dục của nhà trường.
Sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm tôi nhận thấy các em học sinh cá
biệt ở lớp tôi không còn bướng bỉnh, nghịch ngợm ham chơi nữa….Hầu hết các
em đã tiến bộ và chăm ngoan, bố mẹ, thầy cô rất hài lòng.
Qua áp dụng các biện pháp giáo dục trên, kết quả của lớp tôi năm đó đã có
những tiến bộ có thể thống kê trên số học sinh 40 em như sau:

18


Hạnh kiểm
Tốt

-


-

-

-

-

Khá TB Yếu Giỏi

Học lực

Ghi chú

Khá TB Yếu

Đầu năm 18 10 7 5
0
10 27 3 Có 2 học sinh ở lại lớp
Cuối HKI 26 11 2 1
1
16 22 2
Cuối HKII 29 10 1 0
2
23 14 1
b. Đối với bản thân.
Bản thân tôi sau khi thực hiện các biện pháp trên khi giáo dục học sinh lớp
chủ nhiệm, thậm chí tôi vận dụng một trong các biện pháp đó cả đối với các lớp
tôi dạy bộ môn tôi thấy có hiệu quả rõ rệt.

Tình cảm cô trò gần gũi, thân thiết hơn.
Tôi không còn cảm giác căng thẳng khi vào lớp có những học sinh cá biệt nữa.
Mọi tình huống xảy ra trong giờ học tôi đều có thể kiểm soát, xử lí một cách tế
nhị và có hiệu quả giáo dục cao.
Uy tín của tôi với đồng nghiệp, với bạn bè và với phụ huynh được nâng cao.
Qua quá trình thực hiện tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau: Muốn
giáo dục tốt các đối tượng học sinh cá biệt giáo viên chủ nhiệm cần phải:
Điều tra nắm rõ nguyên nhân của các hiện tượng cá biệt.
Nắm rõ tâm lý của từng đối tượng để đề ra biện pháp thích hợp.
Khi tiến hành các biện pháp giáo dục cần tránh việc nêu tất cả những khuyết
điểm ra cùng một lúc hay nôn nóng muốn giải quyết được tất cả những sai phạm
của các em cùng một lúc mà nên phân thời gian và chọn ra những sai phạm
mang tính cấp bách hay cơ bản thì giải quyết trước.
Không yêu cầu quá cao, nên có sự thông cảm chia sẻ với các em.
Luôn tạo mối quan hệ gần gũi, cảm hoá các em, yêu thương các em như người
thân của mình.
Giáo viên chủ nhiệm cần biết kết hợp được nhiều tác nhân phối hợp giáo dục.
c. Đối với đồng nghiệp và nhà trường.
Khi đồng nghiệp thực hiện các biện pháp giáo dục trên đối với các học sinh cá
biệt ở lớp chủ nhiệm của họ đã cho kết quả rõ rệt. Số học sinh cá biệt đã giảm đi
rất nhiều.
Về phía nhà trường thì số học sinh yếu kém giảm đi, nâng cao chất lượng giáo
dục nhà trường. Tạo được niềm tin đối với nhân dân, với phụ huynh để họ yên
tâm gửi gắm con cái tới trường.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Giáo dục học sinh cá biệt là một việc làm khó khăn và phức tạp, đòi hỏi
người giáo viên luôn có sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Tất cả sự cố gắng và
nỗ lực của chúng ta sẽ là cái chìa khoá cho các em bước sang một cuộc đời mới
với sự nhìn nhận tích cực về thực tế và có ý thực rèn luyện để đạt tiêu chuẩn của

con người mới xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù đã cố gắng đúc rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học và đưa ra
một vài kinh nghiệm nho nhỏ của bản thân trong quá trình làm công tác chủ
nhiệm lớp. Trong phần trình bày chắc hẳn không tránh khỏi sai sót, rất mong
19


-

nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và ban giám khảo để đề tài hoàn
chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
3.2. Kiến nghị:
Để đạt kết quả tốt trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt không phải chỉ
ngày một ngày hai, cũng không phải chỉ đơn giản một mình người giáo viên chủ
nhiệm với học sinh cá biệt đó. Vì vậy tôi có một số kiến nghị sau:
Lãnh đạo các cấp chính quyền có hướng tích cực hơn về mặt giáo dục học sinh
cá biệt
Nhà trường tăng cường tiết ngoại khóa về giáo dục đạo đức học sinh
Nhà trường kết hợp với chính quyền để giáo dục học sinh cá biệt
Đoàn thanh niên phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để cùng giáo dục các em .
Giáo viên bộ môn cũng có trách nhiệm hơn trong việc giáo dục đạo đức cho học
sinh trong mỗi tiết học của mình..
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, tháng 05 năm 2017
CAM KẾT KHÔNG COPY
(Tác giả ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Minh


20



×