Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 10 trường THPT ngọc lặc qua phần học công dân với đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.71 KB, 17 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Giáo dục kĩ năng sống (KNS) là một nội dung quan trọng cần được thực
hiện một cách có hệ thống trong các nhà trường. Giáo dục kĩ năng sống giúp học
sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó
với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất
và tinh thần của các em. Giáo dục KNS giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả
năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của
cuộc sống.
Môn Giáo dục công dân (GDCD) ở bậc THPT có vai trò quan trọng trong
việc thực hiện mục tiêu giáo dục, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho
học sinh. Từ khả năng giáo dục KNS, môn GDCD được xác định là hết sức quan
trọng và cần thiết, mục tiêu giáo dục KNS trong môn GDCD cũng được xác
định rõ ràng nhằm giúp học sinh: Hiểu được sự cần thiết của các KNS giúp cho
bản thân có thể sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển thể chất và tinh thần; Có kĩ năng làm chủ bản thân,
biết xử lí linh hoạt trong các tình huống giao tiếp hằng ngày; có kĩ năng tự bảo
vệ mình; rèn luyện lối sống có trách nhiệm với bản thân, bè bạn, gia đình và
cộng đồng. Bộ môn GDCD trong những năm vừa qua đã được sự quan tâm, chỉ
đạo sát sao, đánh giá đúng tầm quan trọng của bộ môn trong hệ thống giáo dục,
nhất là giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Chính vì vậy, đội ngũ
giáo viên đã và đang nỗ lực không ngừng trong quá trình công tác nhằm nâng
cao chất lượng bộ môn, nâng cao tỷ lệ học sinh khá, giỏi. Tuy nhiên nếu như
nhìn vào điểm số thì có thể thấy kết quả của bộ môn GDCD tương đối cao,
nhưng nếu đánh giá dựa vào hành vi, thái độ của học sinh, kĩ năng vận dụng của
học sinh trong thực tiễn cuộc sống thì chưa được như mong muốn. Thời gian
gần đây, dư luận xã hội đang lên án mạnh mẽ tình trạng bạo lực học đường, ăn
chơi sa đọa... của một bộ phận học sinh. Mọi người chưa hết bàng hoàng khi
chứng kiến cảnh từng đôi nam nữ học sinh bỏ học, lêu lổng, thậm chí là đưa
nhau vào nhà nghỉ, hay cảnh những nữ học sinh đánh nhau, trong khi có rất
nhiều học sinh khác chỉ đứng nhìn và dùng máy quay rồi tung lên mạng mà


không hề can ngăn, hay trình báo với người có chức trách... Bên cạnh những học
sinh biết vượt lên số phận, thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh ham
chơi, vi phạm pháp luật, không tự tin làm chủ bản thân. Nguyên nhân dẫn đến
tình trạng xuống cấp về đạo đức thì có nhiều, song chung qui lại là do nhận thức,
ý thức và về cơ bản là do các em thiếu KNS. Đây là một vấn đề được Ngành
Giáo dục rất quan tâm, với mục đích trang bị cho học sinh những hiểu biết và kĩ
năng thực tế để trải nghiệm cuộc sống. Từ trước đến nay giáo dục kĩ năng sống
đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào trường học. Ở Việt Nam, mục tiêu
giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng về lí thuyết sang trang bị
những năng lực cần thiết cho người học. Vì thế, có thể coi giáo dục kĩ năng sống
là nhiệm vụ cấp thiết không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân, gia đình, trường
học và toàn xã hội trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Điều đó khẳng định thêm
1


tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu đưa giáo dục kĩ năng sống vào trường học.
Là giáo viên giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân với 15 năm công tác, tôi hiểu
rất rõ sự cần thiết phải đưa giáo dục kĩ năng sống vào trường học. Vì kĩ năng
sống là một bài học quan trọng giúp các em học sinh tự tin khi bước vào cuộc
sống tương lai. Như vậy việc tiến hành tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào
trong các môn học, đặc biệt là môn GDCD là việc làm có tính tất yếu. Chính vì
vậy bản thân tôi đã chọn đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh lớp 10 Trường THPT Ngọc Lặc qua phần học “Công dân
với đạo đức” để phát huy vai trò của môn học và góp phần khắc phục tình trạng
trên.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
lớp 10 Trường THPT Ngọc Lặc qua phần học “Công dân với đạo đức” nhằm:
- Cụ thể hóa những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước về đổi mới phương pháp giáo dục trong thời kì hội nhập.

- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh , đây là vấn đề cần được quan tâm đúng mức nhằm góp phần trang bị
cho học sinh kiến thức, kỹ năng sống và phát triển trong một môi trường phát
triển bền vững.
- Tìm ra nội dung, hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống trong trường
trung học phổ thông theo khung chương trình chung của Bộ giáo dục và Đào tạo
đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội ở
địa phương, thực tế nhà trường.
- Đề ra các giải pháp nhằm thực hiện chương trình giáo dục kĩ năng sống
có hiệu quả trong nhà trường Trung học phổ thông (THPT).
- Đổi mới phương pháp giảng dạy một cách hiệu quả, nâng cao chất lượng
môn học GDCD trong nhà trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 10
Trường THPT Ngọc Lặc qua phần học “Công dân với đạo đức” nhằm nghiên
cứu, tổng kết :
- Hoạt động giáo dục kĩ năng sống được vận dụng ở nhiều môn học, bậc
học, song đối với môn Giáo dục công dân ở bậc THPT có một vai trò, chức năng
hết sức quan trọng, vì đây là một môn học giúp học sinh hình thành thế giới
quan, nhân sinh quan, giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh.
- Phạm vi đề tài này chỉ giới hạn ở phần học “Công dân với đạo đức” và
đối tượng học sinh lớp 10 THPT Ngọc Lặc, vì đây là lứa tuổi có nhiều biến đổi
về tâm sinh lý, và cũng là đối tượng chủ yếu trong nhà trường phổ thông.
- Học sinh hiểu được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân có thể
sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự
phát triển thể chất và tinh thần; Có kĩ năng làm chủ bản thân, biết xử lí linh hoạt
trong các tình huống giao tiếp hằng ngày; có kĩ năng tự bảo vệ mình; rèn luyện
lối sống có trách nhiệm với bản thân, bè bạn, gia đình và cộng đồng; Có nhu cầu
2



rèn luyện KNS trong cuộc sống hằng ngày; ưa thích lối sống lành mạnh, có thái
độ phê phán đối với những biểu hiện thiếu lành mạnh; tích cực, tự tin tham gia
các hoạt động, có quyết định đúng đắn trong cuộc sống.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Thu thập thông tin qua đọc
sách báo, tài liệu tìm chọn những cơ sở lí thuyết cho lí luận của đề tài.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp lí thuyết
+ Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
+ Đối tượng điều tra, khảo sát: Học sinh khối lớp 10 Trường THPT Ngọc
Lặc.
+ Phương pháp điều tra: Sử dụng phương pháp phỏng vấn bằng cách đưa
ra hệ thống câu hỏi để học sinh đánh giá sự cần thiết giáo dục kĩ năng sống qua
môn học giáo dục công dân.
+ Thu thập thông tin: Đa số học sinh được phỏng vấn đều cho rằng giáo
dục kĩ năng sống là rất cần thiết, cần tích hợp vào các môn học đặc biệt là môn
GDCD.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Phân tích kết quả thu được sau khi đề tài
được thử nghiệm.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luân.
* Quan niệm về kĩ năng sống
- Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa và quan niệm
khác nhau về kĩ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức
khác nhau. Thông thường, kĩ năng sống được hiểu là những kĩ năng thực hành
mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng
cao.
+ WHO: Kĩ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực, giúp
các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc

sống hàng ngày. [2]
+ UNICEF: Kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành
hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình
thành thái độ và kĩ năng. [2]
+ UNESCO: kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết;
Học để làm; Học để tự khẳng định; Học để cùng chung sống. [2]
- Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kĩ
năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất của kĩ
năng sống là kĩ năng tự quản lý bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân
tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng
sống là kĩ năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử với người
khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc
sống.
* Giáo dục Kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với học sinh THPT.
3


- Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng phù hợp.
Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích
cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực. Giúp học sinh có khả năng ứng
phó phù hợp và linh hoạt trong các tình huống của cuộc sống hàng ngày.
- Giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính thực hành,
tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát
triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
- Là chủ nhân tương lai của đất nước, nếu không có kĩ năng sống các em
sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và
đất nước.
- Là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, hiểu biết về xã hội còn thiếu sâu
sắc nên các em dễ bị lôi kéo, kích động.
- Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu những

tác động tích cực và tiêu cực, nếu không có kĩ năng sống, các em sẽ dễ dàng bị
lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, lai căng, lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ phát
triển lệch lạc về nhân cách…[2]
* Giáo dục KNS nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông .
- Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển xã hội. Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH- HĐH đất nước cần
phải có những con người lao động mới phát triển toàn diện. Do vậy cần phải đổi
mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục phổ thông nói riêng. Nhiệm vụ đổi
mới giáo dục đã được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng và Quốc hội
(Luật giáo dục 2005, Nghị quyết 40/2000/QH10, Báo cáo chịnh trị của Đại hội
Đảng lần thứ IX).
- Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, với bản chất là hình thành và phát
triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp, khả
năng ứng phó tích cực rõ ràng là phù hợp với mục tiêu giáo dục phổ thông,
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông.
- Phương pháp giáo dục kĩ năng sống với các phương pháp và kĩ thuật tích cực
cũng là phù hợp với định hướng về đổi mới PPDH ở trường phổ thông. [2]
Giáo dục Kĩ năng sống giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm với
bản thân, gia đình, cộng đồng, giúp các em có những cách ứng phó tích cực với
những tình huống trong đời sống, xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, sống tích
cực, chủ động, an toàn và lành mạnh. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được
xác định là một nội dung cơ bản, cấp thiết trong các trường phổ thông. Qua
nghiên cứu tài liệu và hoạt động thực tiễn của bản thân. Tôi nhận thấy những kĩ
năng sống cơ bản cần hình thành cho học sinh thông qua môn GDCD ở bậc
THPT như sau:
- Kĩ năng tự nhận thức
- Kĩ năng kiểm soát cảm xúc
- Kĩ năng ứng phó với căng thẳng
- Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin

4


- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng lắng nghe tích cực
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
- Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin
- Kĩ năng hợp tác
- Kĩ năng tư duy phê phán
- Kĩ năng tư duy sáng tạo
- Kĩ năng ra quyết định
- Kĩ năng giải quyết vấn đề
- Kĩ năng kiên định
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
- Kĩ năng đặt mục tiêu
- Kĩ năng quản lí thời gian…
2.2. Thực trạng của vấn đề
Bộ môn GDCD trong những năm vừa qua đã được sự quan tâm, chỉ đạo
sát sao, đánh giá đúng tầm quan trọng của bộ môn trong hệ thống giáo dục, nhất
là giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Mặc dù năm học 2016- 2017
bộ môn GDCD đã được đưa vào tổ hợp Khoa học xã hội (KHXH) để thi và xét
tốt nghiệp nhưng chưa có nhiều ngành nghề lựa chọn xét tuyển môn GDCD nên
đa số học sinh chưa thực sự coi trọng, còn bị xem nhẹ... nên hầu hết các em học
sinh chưa chú trọng học tập bộ môn này.
Hiện tại, bộ môn GDCD đã phải “gánh” thêm quá nhiều nội dung khác
như: Giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, kĩ năng sống,
bảo vệ môi trường, giáo dục pháp luật, giáo dục về an toàn giao thông, giáo dục
chính sách quốc phòng... Vì thế, nhiều giáo viên cho biết việc giảng dạy nhiều
lúc rất nặng tính hình thức. Bên cạnh đó, việc triển khai và tổ chức thực hiện

giáo dục KNS nói chung và đối với môn GDCD nói riêng có một số khó khăn
nhất định như: nhiều lúc giáo viên còn lúng túng khi lựa chọn kĩ năng thích
hợp, việc điều tiết giữa nội dung bài học với các KNS cần giáo dục trong áp lực
thời gian 45’ của một tiết học…. Cơ sở vật chất tuy đã được đầu tư và cải tiến
nhiều song nó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của việc sử dụng một số phương
pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
Xuất phát từ thực trạng trên dẫn đến tính hiệu quả của môn học này là
không cao. Để tạo ra hứng thú trong học tập và nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh, tôi đã sử dụng công nghệ thông tin và áp dụng các
phương pháp, kĩ thuật dạy học mới để học sinh thực sự chủ động, tích cực trong
quá trình học tập. Là một giáo viên giảng dạy Giáo dục công dân ở một trường
niền núi xứ Thanh với kinh nghiệm 15 năm công tác và giảng dạy, tôi hiểu sự
khó khăn trong việc giáo dục KNS cho học sinh. Bởi vì hầu hết các em là những
học sinh là người dân tộc thiểu số, ở vùng sâu, vùng cao, có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn…. Được tuyển vào trường THPT nhưng hầu hết các em rất rụt rè trong
tiếp xúc, trong quan hệ bạn bè, ngại phát biểu xây dựng bài trong các giờ học.
5


Từ việc nắm vững đặc điểm tâm lí đó của học sinh, tôi đã không ngừng nghiên
cứu, tìm tòi, bản thân phải “vận công” rất nhiều để đưa ra các ví dụ gần gũi nhất
cho học sinh hiểu. Lồng ghép nội dung từng bài học với việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh để các em tự tin vào chính bản thân mình, biết hòa nhập với
cộng đồng, biết hợp tác trong học tập cũng như trong các hoạt động và trong
cuộc sống.
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề
Giáo dục kĩ năng sống là một vấn đề không mới trong dạy học và cũng
không xa lạ trong thực tiễn cuộc sống vì nó là lĩnh vực giáo dục liên ngành. Tuy
nhiên, đặc trưng của môn GDCD là không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức
của môn học phù hợp với đặc điểm lứa tuổi mà điều quan trọng hơn là hình

thành và phát triển những kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống của
học sinh, đồng thời hình thành và phát triển cảm xúc, thái độ đúng đắn trước các
vấn đề liên quan đến nội dung bài học cho các em. Vì vậy, môn học này có khả
năng tích hợp ở nhiều mức độ khác nhau với các nội dung giáo dục kĩ năng sống
cả về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Do đó, khi giáo dục kĩ năng sống cần đảm bảo
nguyên tắc: không gượng ép, không làm nặng nội dung, không làm biến dạng
môn học. Giáo viên phải là những người có lòng nhiệt huyết, biết lựa chọn và
kết hợp tốt các phương pháp dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá, đẩy mạnh
phong trào thi đua học tập sôi nổi, hiệu quả, động viên kịp thời học sinh có
những tiến bộ. Trên cơ sở đó tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện
được mục tiêu giáo dục THPT. Vì vậy, nhận thấy trong rất nhiều biện pháp nhằm
phát huy vai trò giáo dục bộ môn, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục KNS trong giảng dạy. Thông qua chương trình
GDCD lớp 10, phần thứ hai: “Công dân với đạo đức”, tùy vào nội dung kiến
thức của từng bài, từng mục … giáo viên có thể lựa chọn giáo dục và hình thành
các loại kĩ năng sống phù hợp.
Bài 10: Quan niệm về đạo đức.
Bài học này giáo viên cần hình thành cho học sinh một số kĩ năng sống
phù hợp như:
- Kĩ năng so sánh
- Kĩ năng xác định giá trị
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin
- Kĩ năng thể hiện sự thông cảm…
Giáo viên dùng phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp động não;
phương pháp đàm thoại; phương pháp nêu vấn đề; giải quyết tình huống ...
Khi dạy mục 1.a: Đạo đức là gì? Giáo viên yêu cầu học sinh lấy một số ví
dụ về hành vi của cá nhân tuy không vi phạm pháp luật nhưng lại trái với chuẩn
mực đạo đức xã hội. Qua đó yêu cầu học sinh rút ra bài học cho bản thân.
Ví dụ 1: Em sẽ làm gì trong trường hợp sau đây: Trên đường đi học về, tình cờ
em đi cùng chiều với một phụ nữ vừa bế con vừa sách một túi nặng? Tại sao em

lại làm như vậy? [4]
6


Ví dụ 2: Trong lớp bố bạn Hoa ốm nặng, phải nằm viện, nhưng một số bạn
không hề hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ Hoa.
a. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy? Vì sao?
b. Nếu chúng ta biết hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ thì sẽ giúp ích được gì cho
bạn Hoa?
Tổng kết bài giáo viên chia lớp thành hai nhóm để giải quyết tình huống .
Qua đó học sinh rút ra bài học ý nghĩa cho bản thân.
Nhóm 1: Trời nắng đến 40 độ C, Hân rủ mấy người bạn đi uống nước
mía. Đang uống nước thì thấy một người đi xe lăn cố sức vượt lên con dốc cao,
mồ hôi vã ra như tắm mà chiếc xe vẫn không băng lên được. Hân và đám bạn
cười reo cổ vũ…
Câu hỏi:Em có đồng tình với việc làm của Hân và các bạn đó không?
Nếu chứng kiến cảnh tượng đó em sẽ làm gì? Tại sao em làm thế? [1]
Nhóm 2: Hàng loạt ca nhiễm bệnh được đưa vào cấp cứu, rất nhiều người
bị tử vong do dịch bệnh tai xanh gây nên. Trong khi Nhà nước, chính quyền, cơ
quan y tế kêu gọi tiêu hủy đàn gia súc vùng bị dịch thì gia đình nhà ông An vẫn
lén lút mang lợn đi bán cho nơi khác. Ông nói rằng: Làm thế để gỡ gạc chút vốn
liếng.
Câu hỏi: Em đánh giá như thế nào về hành vi của gia đình ông An? Theo
em, hành vi đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến xã hội? [1]
Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học.
Tùy theo các phạm trù như: nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự,
hạnh phúc, giáo viên có thể giáo dục và hình thành cho học sinh các kĩ năng phù
hợp như:
- Kĩ năng xác định giá trị
- Kĩ năng tự nhận thức

- Kĩ năng ứng phó với những căng thẳng
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
- Kĩ năng hợp tác…
Giáo viên dùng phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp động não,
phương pháp nêu vấn đề; tổ chức trò chơi ... để giáo dục các kĩ năng sống. với
các phương pháp này giáo viên có thể tập hợp nhiều ý kiến khác nhau trong một
thời gian ngắn, tạo không khí học tập sôi nổi, học sinh sẽ chủ động, tích cực, tự
tin.
Khi dạy mục 1: Nghĩa vụ. Giáo viên yêu cầu học sinh đánh giá, nhận xét 2
ví dụ và nêu nghĩa vụ của người thanh niên Việt Nam hiện nay.
Ví dụ 1: Khi có giặc ngoại xâm uy hiếp sự tồn vong của đất nước, mọi người
dân xông ra chiến trường giết giặc dù biết trước có thể hi sinh. [1]
Ví dụ 2:
- Khi mẹ ốm:
+ chăm sóc mẹ như một trách nhiệm phải làm
+ chăm sóc mẹ vì thương mẹ
- Khi bạn gặp khó khăn: + giúp bạn vì trách nhiệm phải làm
7


+ giúp bạn vì thương bạn muốn chia sẻ với bạn. [1]
Khi dạy xong phạm trù nghĩa vụ, lương tâm, giáo viên có thể đưa ra tình
huống sau:
Tình huống: Năm 1946, để khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách, Chính
phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân. Hưởng ứng xây dựng
“Quỹ độc lập” và phong trào “ Tuần lễ vàng” do chính phủ phát động, đồng bào
cả nước hăng hái đóng góp tiền của, vàng bạc, kể cả những vật quý giá trong đời
như nhẫn cưới, hoa tai…
Câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về hành động của đồng bào ta? Nếu trong
hoàn cảnh đó em có làm như thế không? Tại sao? [1]

Khi dạy phạm trù hạnh phúc, giáo viên chia lớp thành 4 nhóm và hướng
dẫn các nhóm tiến hành một trò chơi “Vẽ cây hạnh phúc” bằng cách đặt câu hỏi
sau: Theo em hạnh phúc được biểu hiện như thế nào?. Giáo viên yêu cầu các em
vẽ ra những điều làm cho các em hạnh phúc bằng cách thể hiện qua các nhánh
cây như: đạt được điểm cao; bố mẹ mua cho bộ áo quần mới; giúp bố mẹ một số
công việc của gia đình; có được sự quan tâm, tôn trọng của mọi người; được bạn
thân tặng cho một bản nhạc ... Với mỗi biểu hiện học sinh dùng bút màu để vẽ
ra. Nhóm nào vẽ càng nhiều nhánh cây thể hiện những điều làm các em hạnh
phúc, biểu thị một vòng tròn khép kín, đẹp sẽ là nhóm thắng cuộc. Sau phần
hoạt động của học sinh, giáo viên có thể kết luận hạnh phúc là gì? Định hướng
trong nhận thức và cách xác định giá trị, làm tăng thêm kĩ năng hợp tác, lắng
nghe, chia sẻ giữa các bạn trong nhóm và lớp học. Học sinh sẽ tiếp cận với phạm
trù hạnh phúc một cách sâu sắc, toàn diện.
Bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Bài học này giáo viên cần hình thành cho học sinh một số kĩ năng sống
phù hợp:
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng kiểm soát cảm xúc
- Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
- Kĩ năng xác định giá trị…
Giáo viên dùng phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp nêu vấn đề…
với những câu chuyện phù hợp, hấp dẫn, lôi cuốn sự tập trung của học sinh.
Thông qua những câu chuyện, tác động trực tiếp tới suy nghĩ, cảm xúc của
người học. Qua đó giúp học sinh hình thành kĩ năng xác định giá trị, cảm thông,
chia sẻ với những người xung quanh mình. Giúp học sinh tích cực suy nghĩ để
có thể lập luận chặt chẽ, đưa ra những ví dụ dẫn chứng, rèn luyện tính kiên định,
tư duy phê phán và khả năng giao tiếp có hiệu quả. Với những mối quan hệ
trong cuộc sống như quan hệ với bạn bè, bố, mẹ, hàng xóm ... học sinh sẽ lựa
chọn cách ứng xử phù hợp với từng đối tượng và trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Khi dạy mục 1.b: Thế nào là một tình yêu chân chính? Giáo viên có thể
đưa ra tình huống sau đây:
8


Tình huống: Lan và Hùng quen nhau trong trường đại học và họ đã yêu nhau
được 4 năm, hiện tại hai người đã có công việc ổn định. Mọi người xung quanh
đều khen họ là trai tài gái sắc và chờ đợi đám cưới của họ diễn ra. Lan dự định
cuối năm sẽ tổ chức lễ cưới, nhưng vào đầu năm Hùng quyết định đi du học để
tích lũy cho công việc sau này và hoãn đám cưới đến sau khi đi du học về. Trong
tình huống này Lan đứng trước hai sự lựa chọn:
Một là, chia tay Hùng và cho rằng Hùng vì sự nghiệp của bản thân mà bỏ người
yêu.
Hai là, ủng hộ và giúp đỡ Hùng hoàn thành chuyến du học vì Lan tin tưởng rằng
họ luôn luôn yêu nhau, do đó sau chuyến du học trở về hai người sẽ lại hạnh
phúc.
Câu hỏi:
1. Theo em, sự lựa chọn nào là hợp lí? Vì sao?
2. Nếu lựa chọn theo cách hai thì tình yêu của họ có phải là tình yêu chân chính
không?[1]
Khi dạy mục 1c: Một số điều cần tránh trong tình yêu nam nữ thanh niên
giáo viên nêu câu hỏi:
1. Có quan niệm “ Yêu 50 chọn mười lấy 1”. Theo em, tại sao lại có quan niệm
đó? Quan niệm đó có đúng hay không?
2. Có người cho rằng: “ khi đã yêu nhau thì phải hiến dâng cho nhau tất cả”. Em
có suy nghĩ gì về quan niệm đó?
Khi dạy mục 2: Hôn nhân, giáo viên chia lớp thành hai nhóm và tổ chức
cho học sinh thảo luận các tình huống và rút ra nhận xét, từ đó liên hệ bản thân.
Tình huống 1: Để muốn được cấp đất. Lan đã lên xe hoa về nhà chồng khi 16
tuổi. Người chồng là Hùng mới 17 tuổi. Vì có người nhà là cán bộ xã nên thủ tục

kết hôn vẫn được thực hiện. Nhưng tình trạng sau hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ
này thật bất hạnh. [1]
Tình huống 2: Hưng và Ánh đang học cùng đại học. Họ đã sống chung với
nhau như vợ chồng 2 năm rồi mà không đăng kí kết hôn. Họ cho rằng yêu nhau
là tự nguyện, sống chung với nhau hạnh phúc thì cần gì phải kết hôn. [1]
Bài 13: Công dân với cộng đồng
Bài học này giáo viên cần hình thành cho học sinh một số kĩ năng sống
phù hợp như:
- Kĩ năng hợp tác
- Kĩ năng tự nhận thức
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin
- Kĩ năng lắng nghe tích cực
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông.
Tùy vào các trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng như: nhân
nghĩa, hòa nhập và hợp tác, giáo viên có thể sử dụng phương pháp dự án, tọa
đàm, thảo luận nhóm . Khi nói đến trách nhiệm nhân nghĩa, giáo viên có thể tích
hợp bằng việc đưa ra các hành vi sau đây:
9


Ví dụ 1: Chị Nguyễn Thị Bé sinh ra và lớn lên ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị. Khi xuất ngũ chị làm quản trang ở nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn. Nghĩa
trang rộng 40ha là nơi yên nghỉ của 10.642 liệt sỹ cả nước. Tuy công việc rất vất
vả nhưng chị luôn thấy hạnh phúc và hết lòng với công việc.
Câu hỏi: Em suy nghĩ như thế nào về việc làm của chị Bé? [5]
Ví dụ 2: Đền bù, giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề quan tâm trong các công
trình xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, mặc dù không có kinh phí hỗ trợ đền bù, gần
chục hộ dân thôn Tân Mỹ, xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
đã hiến gần 200m2 đất ở của gia đình để công trình giao thông thuộc dự án Giao

thông nông thôn 3 do Bộ Giao thông- vận tải làm chủ đầu tư đi qua địa bàn được
triển khai đúng tiến độ.
Câu hỏi: Em suy nghĩ như thế nào về việc làm của các hộ dân thôn Tân
Mỹ, xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang? [6]
Tổng kết bài giáo viên cho học sinh thảo luận lớp hai tình huống để kiểm
tra khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết tình huống. Qua đó học sinh rút
ra bài học ý nghĩa cho bản thân.
Tình huống 1: Lan là người chăm chỉ học tập, từ lớp 1 đến lớp 10 luôn là học
sinh giỏi. Lan cho rằng, đối với học sinh phổ thông thì nhiệm vụ chủ yếu là học
tập nên chỉ cần học giỏi là đủ lắm rồi. Chính vì có suy nghĩ như vậy nên Lan
thường thờ ơ với các hoạt động tập thể của lớp, của trường. Những khi lớp tổ
chức đi dã ngoại Lan đều tìm cách từ chối tham gia. Trong các giờ hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp, Lan thường tham gia cho xong việc, thiếu nhiệt tình.
Các bạn trong lớp góp ý thì Lan nói mọi người đừng nên can thiệp vào sở thích
riêng của bạn ấy.
Câu hỏi: 1. Theo em, suy nghĩ và việc làm của Lan như vậy có phù hợp không?
2. Em có thể góp ý kiến gì cho Lan?[3]
Tình huống 2: Chuẩn bị cho giờ kiểm tra một tiết vào tuần sau, An bảo Bình: có
10 câu hỏi ôn tập, cậu về học 5 câu đầu, tớ học 5 câu cuối, đến giờ kiểm tra ai
trúng tủ câu nào thì cho người kia chép, được không? Học thế cho nhàn.
Câu hỏi: Theo em như thế có phải là hợp tác không? Tại sao? Em sẽ
khuyên An và Bình như thế nào?[1]
Bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bài học giáo viên cần hình thành cho học sinh một số kĩ năng sống phù
hợp như:
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
- Kĩ năng tư duy phê phán
- Kĩ năng giải quyết các vấn đề, kĩ năng kiên định ...
Giáo viên dùng phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp nêu vấn đề;
phương pháp động não; phương pháp đàm thoại ...

Khi dạy mục 2: Trách nhiệm xây dựng Tổ quốc, giáo viên có thể minh
họa bằng những nhận định của Ăng- ghen: “ Một dân tộc muốn trên đỉnh cao
của nhân loại thì không thể không có tư duy khoa học”; của Bác Hồ: “ Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu, thế hệ trẻ phải biết hăng say tìm tòi học tập vì học tập
10


tốt chính là yêu nước” [1]. Từ đó học sinh nêu trách nhiệm của mình phải làm để
xây dựng Tổ quốc.
Giáo viên có thể giáo dục kĩ năng sống bằng việc đưa ra tình huống sau:
Anh Nguyễn Văn Hùng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất xã Hương Điền, huyện Vũ
Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi học xong cấp 3, anh đậu vào trường Đại học nông
nghiệp I - Hà Nội, ra trường với tấm bằng loại giỏi. Anh được rất nhiều cơ quan,
xí nghiệp ở thủ đô Hà Nội mời về làm việc với mức lương rất cao, nhưng anh đã
từ chối. Vì anh muốn trở về mảnh đất nơi mình sinh ra để góp một phần sức lực
của bản thân mình xây dựng quê hương, đất nước.
Câu hỏi: Em suy nghĩ gì về hành động của anh Hùng? Nếu sau này học
xong Đại học em có hành động như anh Hùng không? Vì sao? [6]
Khi dạy mục 3: Trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, giáo viên có thể tích hợp
giáo dục kĩ năng sống bằng việc đưa ra tình huống sau: Anh trai Nam có giấy
gọi nhập ngũ. Bố mẹ Nam không muốn con đi bộ đội nên bàn nhau tìm cách xin
cho anh ở lại.
Câu hỏi: Theo em, Nam nên làm gì khi biết ý định của bố mẹ? Vì sao?[1]
Tổng kết bài giáo viên yêu cầu học sinh xử lí tình huống sau:
Nhân dịp ngày Quốc phòng toàn dân 22- 12, lớp em có kế hoạch tổ chức
đi thăm quan và tặng quà cho một số gia đình thương binh, liệt sĩ ở địa phương.
Song hôm đó trời mưa phùn, vừa lạnh, một số bạn trong lớp tỏ ra ngại ngần
không muốn đi…
Câu hỏi: Là một thành viên của lớp, em có ý kiến như thế nào trong tình
huống trên? Vì sao? [3]

Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại.
Bài học này giáo viên cần hình thành cho học sinh một số kĩ năng sống
phù hợp như:
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin
- Kĩ năng lắng nghe
- Kĩ năng phê phán
Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não; phương pháp giải quyết
vấn đề; xử lý tình huống; phân tích thông tin; phương pháp thảo luận nhóm…
Khi dạy đến các nội dung cấp thiết của nhân loại hiện nay, giáo viên cho
trình chiếu các đoạn băng hình hoặc giáo viên yêu cầu trình bày các sản phẩm tự
sưu tầm được (yêu cầu học sinh chuẩn bị trước) về tình hình ô nhiễm môi
trường; sự bùng nổ dân số; đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam và trên thế giới.
Ví dụ 1: Phóng sự thảm họa biển Miền Trung- Cá chết hàng loạt ở Việt Nam
2016. [6]
Ví dụ 2: Video bùng nổ dân số (ngày 11/7/2011) [6]
Ví dụ 3: Clip đau lòng và những điều bạn không muốn biết về HIV/AIDS (ngày
01/12/2011) [6]
Câu hỏi: Em suy nghĩ như thế nào về những vấn đề này?
11


Giáo viên yêu cầu đại diện các nhóm trình bày các sản phẩm tự sưu tầm
được về tình hình ô nhiễm môi trường; sự bùng nổ dân số; đại dịch HIV/AIDS ở
Việt Nam và trên thế giới. Các nhóm khác chất vấn, nhận xét, bổ sung, sau đó
giáo viên kết luận.
Tổng kết bài giáo viên chia lớp thành hai nhóm để xử lí tình huống, thông
qua đó giáo viên nắm bắt được mức độ hiểu bài và khả năng vận dụng bài học
vào xử lí tình huống của học sinh.
Nhóm 1: Giả sử em là giám đốc một công ty hóa chất. Chất thải của sản phẩm

mà công ty em sản xuất rất độc hại có thể gây ung thư. Tuy nhiên, nếu đầu tư
vào việc xử lí chất thải sẽ làm giảm 50% lợi nhuận của công ty.
Câu hỏi: Em nên xử lí như thế nào? [1]
Nhóm 2: Vô tình em nghe thấy cuộc trao đổi giữa hai bạn Hồng và Hà:
Hồng: Này hà, hồi học kì I lớp 10 tớ còn nhớ cô giáo dạy GDCD cho chúng
mình thảo luận và kết luận là con người làm ra của cải vật chất, vậy sao hôm nay
trong giờ GDCD cô lại bảo dân số mà tăng quá nhanh thì sẽ dẫn đến đói nghèo.
Hà: Ừ tớ cũng thấy vô lí làm sao ấy, đáng lẽ càng đông dân thì càng giàu
nhanh chứ nhỉ.
Câu hỏi: Em sẽ giải thích như thế nào về thắc mắc của Hồng và Hà? [1]
Bài 16: Tự hoàn thiện bản thân.
Bài học này giáo viên cần hình thành cho học sinh một số kĩ năng sống
phù hợp:
- Kĩ năng đạt mục tiêu
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
- Kĩ năng giải quyết vấn đề
- Kĩ năng ra quyết định
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin.
Giáo viên dùng phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp động não;
phương pháp phân tích tình huống; phương pháp giải quyết vấn đề ...
Khi dạy mục 2.a. Thế nào là tự hoàn thiện bản thân? Giáo viên cho học
sinh nghiên cứu 2 mẫu chuyện sau đây để tích hợp vào bài:
Mẩu chuyện 1: Người thầy và những giấc mơ khoảng trời
Đó là thầy Nguyễn Ngọc Ký, quê ở Hải Thanh, Hải Hậu, Nam định. Nhắc
đến thầy, nhiều người nghĩ ngay đến tấm gương nghị lực phi thường và ý chí
mạnh mẽ vượt lên số phận, trở thành một người thầy giáo ưu tú.
Năm lên 4 tuổi, một cơn bệnh đã khiến thầy Nguyễn Ngọc Ký bị bại liệt cả
hai tay. Niềm khao khát được viết chữ mãnh liệt đến nỗi Nguyễn Ngọc Ký phải
nghĩ ra mọi cách để viết cho bằng được. Thoạt đầu cậu viết bằng miệng nhưng
không thành công vì chỉ viết được một lúc thì nước mắt nước mũi thi nhau chảy.

Thất bại, cậu lại chuyển sang cách khác, nhưng lại thất bại. Tình cờ một lần cậu
nhìn thấy đàn gà bới đất bằng chân, cậu đã lóe lên ý định dùng chân để viết. Thế
là Ký ngày đêm rèn luyện. Kết quả, Nguyễn Ngọc Ký không những viết thành
thạo mà còn viết rất đẹp và trở thành một học sinh giỏi trong nhiều năm, hai lần
được Bác Hồ tặng huy hiệu học sinh giỏi. Năm 1966, Nguyễn Ngọc Ký được
12


tuyển thẳng vào khoa văn trường đại học tổng hợp Hà Nội. Năm 1983, thầy đạt
giải nhất giáo viên dạy giỏi tỉnh Nam Định.
Hiện nay, ngoài việc dạy học thầy còn viết sách cho thiếu nhi, viết chuyên
luận văn học, giáo dục công dân và thầy còn là tư vấn tâm lí của tổng đài 1088.
Triết lí cuộc đời được thầy Nguyễn Ngọc Ký bộc bạch bằng những câu thơ giản
dị sau:
“ Biết mơ những khoảng trời
Biết cười trong nước mắt
Biết cắt những cái thừa” [1]
Mẩu chuyện 2: Anh Nguyễn Công Hùng- 24 tuổi, quê ở xã Nghi Diên, huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, bị liệt và teo hai chân từ nhỏ, nhưng với nghị lực vượt
lên số phận, anh tự học tin học, trở thành thầy giáo dạy tin học ngay tại nhà anh.
Hiện nay cơ sở anh dạy tin học cho gần 200 cháu nhỏ, riêng những cháu khuyết
tật được anh dạy miễn phí. Công Hùng từ năm 2005 đến 2006 đã nhận được
nhiều giải thưởng như: "Hiệp sĩ công nghệ thông tin"- 2005, giải thưởng “Ngày
sáng tạo Việt Nam”, giải thưởng "Hội thi tin học không chuyên toàn quốc lần
thứ 11", và gần đây nhất- giải thưởng “Quỹ học bổng mãi mãi tuổi 20″ (Quỹ liệt
sĩ Đặng Thuỳ Trâm – tặng giải thưởng cho những gương mặt thanh niên, sinh
viên xuất sắc nhất toàn quốc- 2006).[6]
Câu hỏi: Nêu suy nghĩ của bản thân về các nhân vật trên?
Việc giáo dục kĩ năng sống là hướng đến người học, một mặt đáp ứng nhu
cầu của người học tạo ra những năng lực để đáp ứng trước những thử thách của

cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt khác việc
giáo dục kĩ năng sống vào bộ môn thông qua những phương pháp hướng đến
học sinh, phương pháp dạy học tương tác, cùng tham gia, đề cao vai trò chủ
động, tự giác của học sinh sẽ có những tác động tích cực đến mối quan hệ giữa
thầy, cô giáo và học sinh, giữa học sinh với học sinh. Đồng thời học sinh sẽ cảm
thấy mình được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống của
bản thân, học sinh sẽ thích thú và tích cực học tập hơn. Trên cơ sở đó chất lượng
giáo dục cũng được nâng lên. Thiết nghĩ việc giáo dục kĩ năng sống chỉ là một
trong rất nhiều các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, cần khẳng
định việc giáo dục kĩ năng sống không phải là giải pháp vạn năng để giải quyết
được tất cả những tồn tại trên. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, giáo viên
cần tích cực chủ động áp dụng các biện pháp khác nhau để giúp cho học sinh
hình thành các kĩ năng sống phù hợp với các lứa tuổi. Bản thân tôi nhận thấy
không chỉ môn GDCD tích hợp giáo dục kĩ năng sống, mà các môn khác trong
hệ thống giáo dục cũng có thể làm được điều này.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Việc giáo dục, rèn luyện KNS là một phạm trù rộng, tất cả các bộ môn,
các tổ chức đoàn thể, tất cả giáo viên và học sinh đều phải bắt tay vào thực hiện.
Trong đó môn GDCD là môn học có nhiều khả năng để thực hiện nội dung này
nhất.
13


Sáng kiến kinh nghiệm: Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh lớp 10 Trường THPT Ngọc Lặc qua phần học “Công dân
với đạo đức” được thử nghiệm trong 3 năm học .
+ Năm học 2014- 2015 thực hiện ở các lớp:10A1, 10A2, 10A3.
+ Năm học 2015- 2016 thực hiện ở các lớp:10A4, 10A6, 10A8.
+ Năm học 2016- 2017 thực hiện ở các lớp:10A5, 10A7, 10A9.
* Kết quả thu được như sau:

- Khả năng giao tiếp và trình bày trước tập thể của học sinh đã được tăng
lên. Các em học sinh khá giỏi, thường tham gia các hoạt động tập thể thì đã đi
vào độ chuyên nghiệp hơn, dám nhận một số công việc trong các hoạt động lớn
của trường như dẫn chương trình, hùng biện, trình bày các vấn đề trước tập thể;
đối với các học sinh còn hạn chế về nhận thức thì nay các em cũng đã mạnh dạn
hơn, dám đưa tay phát biểu và trình bày ý kiến của mình trước lớp…
- Việc chấp hành nội quy của học sinh cũng nghiêm túc hơn…
- Học sinh hứng thú, say mê với bộ môn, thích khám phá bày tỏ ý kiến
của mình với từng tình huống được đặt ra trong từng tiết học, nhờ vậy mà chất
lượng bộ môn cũng tăng lên.
- Học sinh hình thành mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, gia đình, người
thân và xã hội.
- Sống chủ động tích cực, tránh xa các tệ nạn xã hội, có trách nhiệm với
bản thân, gia đình, cộng đồng, Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
* Kết quả khảo sát
Năm học
2014- 2015
2015-2016
2016- 2017

Lớp
10A1
10A2
10A3
10A4
10A6
10A8
10A5
10A7
10A9


Số HS
được
Giỏi
KS

%

Kết quả thu được
Kh
% TB %
á

Yếu

%

123

13

10,
5

45

36,
5

60


48,
8

5

4

125

21

17

51

41

52

41,
5

1

0,8

120

24


20

58

48

38

31,
6

0

0

14


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
lớp 10 Trường THPT Ngọc Lặc qua phần học “Công dân với đạo đức” bước
đầu đã thu được những kết quả khả quan về chất lượng dạy và học của bộ môn,
đặc biệt là góp phần to lớn trong việc giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống, KNS
cho học sinh. Quá trình thực hiện giáo dục KNS cho học sinh qua phần học
“Công dân với đạo đức” bản thân tôi đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu
như sau:
- Giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD cần phải nắm chắc khái quát nội
dung chương trình, các nội dung cần tích hợp liên quan đến từng bài dạy cụ thể.

- Sưu tầm các tình huống thực tế liên quan đến nội dung bài học và gần
gũi thân thiết với các em, giúp các em dễ dàng liên hệ và vận dụng cho bản
thân.
- Trong những lần sinh hoạt tổ chuyên môn , giáo viên cần tập trung thảo
luận, trao đổi những vướng mắc khi giảng dạy bộ môn này.
- Để làm tốt việc giáo dục KNS cho học sinh qua bài học môn GDCD,
giáo viên cần không ngừng tự học, mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, sử
dụng các kĩ thuật dạy học trong điều kiện cụ thể để nâng cao hiệu quả giảng dạy,
giáo dục KNS cho học sinh.
- Giáo viên cần tích cực trau dồi và rèn luyện các KNS cho bản thân, vì
hơn ai hết chính sự tự tin và khả năng giải quyết khéo léo mọi tình huống xảy ra
trong thực tế giảng dạy và cuộc sống của giáo viên chính là những bài học tự
nhiên và có hiệu quả nhất đối với học sinh. “Mỗi giáo viên phải thực sự là tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
- Cần có những giải pháp để tuyên truyền trong học sinh và phụ huynh về
tầm quan trọng của việc giáo dục KNS để từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng
giáo dục.
Dạy học gắn với việc giáo dục KNS cho học sinh là một việc làm cần
thiết và có vai trò hết sức quan trọng. Nó trang bị cho các em những kỹ năng khi
nghiên cứu bài mới, vận dụng bài học vào thực tiễn, làm cho cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn, chủ động trong học tập để kết quả ngày càng cao hơn. Hơn
nữa việc rèn luyện KNS cho học sinh được xác định là một nội dung cơ bản
trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” trong nhà trường phổ thông.
Trên đây là một sáng kiến kinh nghiệm nhỏ, xin được chia sẻ với các đồng
nghiệp. Rất mong sự đóng góp thêm của đồng nghiệp để đề tài này được hoàn
thiện hơn. Qua đó, vận dụng hiệu quả nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 10 qua phần học “ Công dân với đạo đức”.
3.2. Kiến nghị
Từ những kết quả đã đạt được khẳng định rằng giáo dục kĩ năng sống rất

quan trọng và cần thiết trong nhà trường Trung học phổ thông. Nhận thức rõ
được tầm quan trọng đó, bản thân tôi đã và đang nỗ lực học hỏi, lựa chọn
15


phương pháp dạy học trong đó có việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho phù
hợp với đặc thù môn học, bám sát đối tượng học sinh, rèn luyện kĩ năng và tinh
thần tự giác, trung thực trong hoạt động học tập, qua kiểm tra đánh giá phản ánh
đúng năng lực của học sinh. Tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
* Đối với Sở GD&ĐT Thanh Hóa
- Tổ chức các hội thảo nâng cao chất lượng bộ môn, qua hội thảo giáo viên
có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp trong việc thực hiện các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
- Quan tâm, chỉ đạo sát sao việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng
giáo dục, kịp thời động viên, khen thưởng những giáo viên đã có những sáng tạo
và thu được kết quả tốt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
- Cần hỗ trợ, tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, các phương tiện dạy
học như: các phòng chức năng, đồ dùng dạy học, băng đĩa, các tư liệu tham khảo
... Để tạo điều kiện cho giáo viên có thể thực hiện đổi mới phương pháp và tích
hợp các vấn đề chính trị xã hội vào bài dạy môn GDCD tích cực, hiệu quả hơn.
* Đối với trường THPT
- Để chương trình giáo dục KNS trong nhà trường THPT ngày một nâng
cao tính hiệu quả thì cần phải có sự chỉ đạo cụ thể của Ban giám hiệu nhà
trường, sự thống nhất cao của Hội đồng sư phạm và sự hợp tác nhịp nhàng của
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, sự đồng bộ trong các môn học.
- Tổ chức các buổi ngoại khóa với các nội dung trong chương trình, tạo
sân chơi lành mạnh cho học sinh, giúp các em phát huy hết năng lực, sở trường
của bản thân mình, tránh xa các tệ nạn xã hội.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc
giáo dục thái độ, động cơ, mục đích học tập, lao động đúng đắn.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hằng

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đinh Văn Đức "Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn giáo dục công
dân" - NXB Đại học sư phạm, 2010.
[2] Đặng Thúy Anh, Lê Minh Châu, Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Thị Tố
Oanh ... "Giáo dục kĩ năng sống trong môn giáo dục công dân ở Trường THPT"
- NXB giáo dục, 2010.
[3] Trần Văn Chương "Tình huống giáo dục công dân 10" - NXB giáo dục,
2008.
[4] Mai Văn Bính “ Giáo dục công dân 10”- NXB Giáo dục
[5] Hồ Thanh Diện "Thiết kế bài giảng giáo dục công dân 10" - NXB Hà Nội,
2006.
[6] Tài liệu tham khảo từ nguồn Internet:
-
-
-
-



17



×