Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh nhờ vận dụng những quan điểm tích cực của phật giáo trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT ngọc lặc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.98 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Mục
Phần I:
I.1.
I.2.
I.3.
I.4.
Phần II:
II.1.
II.1.1.

Nội Dung
MỞ ĐẦU

Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Giáo dục đạo đức và vai trò của người GVCN
đối với GDĐĐHS trong tường THPT
II.1.2.
Một số quan điểm tích cực của Phật Giáo về
giáo dục đạo đức cho giới trẻ ngày nay
II.2.
Thực trạng vấn đề
II.2.1.
Vài nét về thực trạng giáo dục đạo đức, lối sống của
học sinh trường THPT Ngọc Lặc trong những năm
qua


II.2.2.
Chất lượng GDĐĐHS lớp 10A4 năm học 2015-2016
và đặc điểm tình hình đầu năm học 2016-2017
II.3.
Các giải pháp sử dụng giải quyết vấn đề
Giải pháp 1:
Giải pháp 2:
Giải pháp 3:
Giải pháp 4:
Giải pháp 5:
II.4.
Hiệu quả của SKKN
Phần III:
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
III.1.
Kết luận
III.2.
Kiến nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Trang
2
3
3
3
3
4
4
4

5
8
8
9
10
10
11
11
13
14
16
20
20
21
22
22

1


I. MỞ ĐẦU
I.1. Lí do chọn đề tài
Tôi từng nghe ở đâu đó câu nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời
khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của nhân loại”. Ở bất cứ thời đại nào,
thanh thiếu niên cũng là mầm non tương lai của tổ quốc và dân tộc. Bởi vậy mà
Đảng, Nhà nước và Ngành Giáo dục (GD) Việt Nam luôn chú trọng giáo dục
toàn diện “đức-trí-thể-mỹ” cho học sinh (HS) ở tất cả các cấp học, đặc biệt coi
trọng giáo dục đạo đức (GDĐĐ) cho thế hệ trẻ. Bác Hồ đã từng dạy: “Đạo đức
là cái gốc rất quan trọng, nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con
người bình thường và cuộc sống xã hội cũng sẽ không phải là cuộc sống xã hội

bình thường, ổn định”. [5]
Ngày nay trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới mở ra nhiều cơ
hội, đưa nền kinh tế đất nước ta từng bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân
dân được nâng lên, cùng với sự tiến bộ mạnh mẽ của khoa học công nghệ đem
lại nhiều ứng dụng rộng rãi trong đời sống… Bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều
nguy cơ lớn cho toàn xã hội, trong đó có sự xuống cấp về đạo đức, lối sống,
đáng buồn thay lại xảy ra nhiều nhất trong thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai
của xã hội. Ngày nay tình trạng vi phạm đạo đức trong thanh, thiếu niên và học
sinh, đặc biệt học sinh lứa tuổi THPT ngày càng có xu hướng gia tăng. Các hành
vi vi phạm đạo đức của học sinh diễn ra ở nhiều góc độ: nặng thì có vi phạm
pháp luật, đánh nhau bằng vũ khí, uống rượu bia, chơi lô đề, cá độ bóng đá, cờ
bạc, trộm cắp…và phổ biến có những hành vi lệch chuẩn về mặt đạo đức như:
không vâng lời cha mẹ, người lớn, vô lễ với thầy cô giáo, chưa biết kính trên
nhường dưới, sống hưởng thụ, thực dụng, mờ nhạt về lý tưởng, lười học, lười
lao động, thiếu ý thức rèn luyện, thiếu kiến thức thực tiễn, thiếu kĩ năng sống,
sống ảo… xảy ra ở một bộ phận không nhỏ HS trong trường THPT, làm ảnh
hưởng tới chất lượng GDĐĐ trong nhà trường.
Như chúng ta biết, nhà trường - gia đình - xã hội là bộ ba có quan hệ chặt chẽ
trong việc tác động, ảnh hưởng đến hành vi đạo đức và nhân cách của người HS.
Trong nhà trường, GVCN là người trực tiếp thực hiện quá trình giáo dục toàn
diện HS và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức,
kỉ luật cho HS ở trường THPT. [2]
Nhận thức được tầm quan trọng ấy, bản thân trong suốt quá trình công tác
(kể cả thời gian làm chủ nhiệm và thời gian tạm nghỉ làm chủ nhiệm) tại trường
THPT Ngọc Lặc, tôi luôn trăn trở làm thế nào để trở thành một giáo viên chủ
nhiệm tốt, không chỉ vững về chuyên môn (truyền thụ cho các em tri thức) mà
cần hoàn thành trọng trách cao cả đó là giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
lớp tôi và nhiều học sinh khác trong một trường trung tâm của huyện. Để làm
được điều này GVCN không những phải thuộc lòng những lí luận và phương
pháp căn bản về công tác chủ nhiệm lớp trong trường THPT mà còn phải linh

hoạt trong thực hiện nhiệm vụ, luôn tìm tòi sáng tạo. Bởi cuộc sống luôn có
những biến đổi không ngừng và con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội,

2


cho nên giáo dục cần phải vận dụng nhiều phương thức khác nhau nhằm đạt đến
những giá trị cao nhất của con người, nhất là giáo dục về đạo đức lối sống.
Trên con đường tìm kiếm những tri thức và phương pháp hữu dụng, tôi bắt
gặp những tư tưởng nhân văn tiến bộ của Phật giáo (PG), trong đó hàm chứa
nhiều giá trị quý báu về giáo dục nhân cách sống cho con người. Tôi nhận thấy,
Phật giáo thế giới cũng như Phật giáo Việt Nam (theo quan điểm chính thống, cơ
bản gồm những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – chứ không phải Phật
giáo tín ngưỡng) đều nhằm giáo dục và xây dựng con người thành những người
có ích, vì thế nó cũng phục vụ đắc lực cho sự nghiệp GD Việt Nam ngày nay,
nhất là đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ, trong đó có lứa
tuổi HS THPT.
Qua một thời gian nghiên cứu lí luận và thực hành vận dụng những quan
điểm tích cực của PG và Phật pháp ứng dụng trong dạy học một cách có hiệu
quả trong việc giáo dục đạo đức cho HS năm học 2016-2017, tôi đã đúc kết
thành SKKN với chủ đề: Nâng cao chất lượng GDĐĐHS nhờ vận dụng những
quan điểm tích cực của PG trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT Ngọc
Lặc.
I.2. Mục đích nghiên cứu
-Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và thực tiễn vận dụng những tư tưởng tiến bộ
của PG vào việc giáo dục đạo đức, lối sống cho HS ngày nay, để đề ra những
giải pháp cụ thể và hiệu quả cho người làm công tác giáo dục, GVCN lớp có thể
áp dụng nhằm góp phần nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS trường THPT Ngọc
Lặc.
I.3. Đối tượng nghiên cứu

- Tìm hiểu thực trạng công tác GDĐĐHS, vai trò của người GVCN với
GDĐĐHS trong trường THPT hiện nay.
-Nghiên cứu lí luận về những giá trị tích cực của PG đối với giáo dục đạo
đức học sinh và Phật pháp ứng dụng trong dạy học.
- Khảo sát thực nghiệm quá trình giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
lớp 11A4 trường THPT Ngọc Lặc.
I.4. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu lí luận từ
các tài liệu hướng dẫn về công tác GVCN trong trường THCS và THPT, các
giáo trình về GD đạo đức; thông qua các nguồn tài liệu, tạp chí trên Internet,
những SKKN của đồng nghiệp về cùng vấn đề, những sách và bài giảng của
Phật giáo và Phật pháp ứng dụng…
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Khảo sát thực
trạng đạo đức học sinh trong xã hội ngày nay, công tác GDĐĐHS của người
GVCN và chất lượng GDĐĐHS tại trường THPT trong những năm học trước,
trò chuyện với các GVCN, GVBM, cán bộ quản lí, học sinh và PHHS, một số
đoàn thể, tổ chức địa phương để thu thập thông tin cho đề tài…

3


- Phương pháp hỗ trợ: thống kê, xử lí số liệu, xây dựng tỉ lệ % về hạnh
kiểm, chất lượng đạo đức học sinh của trường, của lớp chủ nhiệm trước và sau
khi thực hiện đề tài.
II. NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
II.1.1. Giáo dục đạo đức và vai trò của người GVCN đối với GDĐĐHS trong
trường THPT:
Ngày nay, giáo dục đạo đức cho HS là giáo dục cho các em lòng trung

thành đối với Đảng, hiếu với dân, yêu quê hương đất nước, có lòng vị tha, nhân
ái, cần cù lao động, liêm khiết và chính trực. Đó là đạo đức XHCN, là đạo đức
của cá nhân, tập thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân thực, tích cực, khác
với đạo đức vị kỉ, cá nhân. GDĐĐHS gắn chặt với giáo dục tư tưởng - chính trị,
giáo dục truyền thống và giáo dục bản sắc văn hóa, dân tộc, giáo dục pháp luật
Nhà nước XHCN, cung cấp cho HS những phương thức ứng xử đúng đắn trước
những vấn đề của xã hội… Giúp cho các em có khả năng tự kiểm soát được
hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả năng chống lại những biểu hiện
tiêu cực, lệch lạc về lối sống. [5]
Trong trường THPT, “GVCN là người trực tiếp quản lí toàn diện tập thể HS
một lớp học để triển khai các tác động giáo dục, các hoạt động giáo dục nhằm
đạt mục tiêu giáo dục.” [2]. GVCN là người thực hiện sự phối hợp liên kết bền
chặt với giáo viên bộ môn, các đoàn thể trong nhà trường và giữa “Gia đình Nhà trường - Xã hội”.
GDĐĐHS là một công việc đòi hỏi sự kiên trì, cần phải có tâm huyết với
nghề, có phương pháp chủ nhiệm tốt và một kế hoạch toàn diện, hợp lý. Từ việc
tìm hiểu, nắm bắt hoàn cảnh gia đình, năng lực từng học sinh, học sinh có hoàn
cảnh khó khăn, học sinh cá biệt…đến việc xử lí mọi tình huống với học sinh,
phụ huynh, nhà trường và xã hội. Đòi hỏi cần phải có sự nghiêm minh của người
thầy(cô), đồng thời cần phải có tấm lòng yêu thương, thể hiện trách nhiệm, lòng
vị tha như một người cha, người mẹ đối với con cái, thông cảm, chia sẻ niềm vui
nỗi buồn, giúp các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự và cho các
em những lời khuyên bảo chân tình, tạo được niềm tin và động lực cho học sinh
phấn đấu hoàn thiện.
Hình ảnh người thầy (cô) trong trường THPT ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển nhân cách, lối sống của HS. Chính vì vậy GVCN (và tất cả những ai
được gọi tiếng thầy-cô) không những cần năng lực chuyên môn mà đòi hỏi phải
thật sự là tấm gương sáng về tác phong, tư cách đạo đức, chuẩn mực trong trang
phục, lời nói, cách ứng xử… có như vậy lời nói của GVCN mới có trọng lượng
đối với HS, việc GDĐĐ mới có hiệu quả.


4


II.1.2. Một số quan điểm tích cực của Phật giáo về giáo dục đạo đức cho giới
trẻ ngày nay:
* Tư tưởng PG về đạo đức, lối sống: Tư tưởng từ bi, hỉ xả của PG hướng
con người đến việc xây dựng nếp sống trong sáng, lành mạnh, một tinh thần
hướng thiện thực sự.
- Là một trong những thành tố tạo nên nền văn hóa dân tộc trong suốt hàng
nghìn năm, Phật giáo ngày nay vẫn lưu giữ những giá trị tích cực có thể góp
phần xây dựng đạo đức lối sống cho con người Việt Nam. Tính hướng thiện của
PG là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo, lòng từ bi, bác ái,
góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững tinh thần “lá lành đùm lá rách” của
dân tộc. Triết lí Vô thường, Vô ngã giúp con người giảm bớt cái tôi vị kỷ…
- Giáo lý nhà Phật còn khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ
hiếu làm đầu: “Muôn việc trên thế gian này không gì hơn công ơn nuôi dưỡng
của cha mẹ”…
Đó chính là những giá trị tích cực, thiết thực góp phần giáo huấn con
người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước những cám dỗ của cuộc đời, khích lệ
họ quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân
bản…
- Phật giáo khuyên con người giữ ngũ giới: không sát sinh, không trộm
cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu/bia…
- Phật giáo khuyên con người nên đạt được các Pháp hoàn thiện gồm: Bố
thí, Trì giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật, Quyết định, Tâm
từ, Tâm xả. Phật dạy: “Hãy để cho con người vượt qua sự giận dữ bằng tình
thương, hãy để cho con người khắc phục tội lỗi bằng điều thiện”. Đức Phật chỉ
dẫn, nếu bất cứ ai thực hành theo các cách này sẽ gặt hái được ích lợi.
Sau khi thực hành, các đức tính phát triển là đại từ, chánh nhân, vị tha,
chánh kiến và xa lìa kiêu ngạo, tự phụ… Trước lúc nhập diệt, Người còn căn dặn

rằng: “Hủy diệt là thuộc tính của vạn vật trên thế gian này. Các con hãy tự cứu
lấy mình với sự chuyên cần”.
Có thể nói, quan niệm về từ bi, hỉ xả và làm việc thiện là một trong những
quan niệm giá trị nhất của Phật giáo. Nó không chỉ giúp con người sống cuộc
đời đạo đức, lành mạnh mà còn giúp ngăn ngừa và vượt qua các tệ nạn xã hội
(nhất là trong xã hội ngày nay). Đồng thời nó kích thích con người yêu thương
lẫn nhau và làm việc thiện (nhất là trong mặt trái của nền kinh tế thị trường ngày
càng nhiều người sống ích kỷ, mưu lợi cho cá nhân, suy đồi nhân cách). Nếu có
nhiều quốc gia và người dân thực hành các pháp hoàn thiện như Đức Phật đã
thực hành thì chúng ta sẽ xây dựng được một cộng đồng chia sẻ, đùm bọc nhau
trong tình thân ái. Vì thế, Hồ Chí Minh cũng đã nhận xét: “Tôn chỉ mục đích
của đạo phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mĩ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và
no ấm”. [3]
* Trong mối quan hệ giữa con người với con người, tư tưởng Phật giáo
luôn hướng đến việc xây dựng các mối quan hệ bình đẳng, ôn hòa, tôn trọng
lẫn nhau:

5


- Về vấn đề bình đẳng giới: Bình đẳng giới tính và nữ quyền thuộc về những
vấn đề quan trọng nhất của thời đại mới. Trong đa số các nền văn hóa, giới nữ
thường chịu nhiều bất công. Do đó đấu tranh bình đẳng giới thường đồng nghĩa
với đấu tranh cho nữ quyền. Ở Việt Nam hiện nay, công tác đấu tranh cho bình
đẳng giới vẫn đang là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng
một xã hội bình đẳng. Trong cuộc đấu tranh này, sự đấu tranh về tư tưởng là điều
quan trọng nhất, bởi khi nhận thức thay đổi thì hành động cũng thay đổi theo. Về
mặt tư tưởng bình đẳng giới, thì nhiều tạp chí cũng đã chỉ ra Phật giáo chứa
đựng những tư tưởng rất thiết thực. …
- Tư tưởng Phật giáo luôn hướng con người có thái độ hành xử công bằng

và tôn trọng các quyền cơ bản của con người. Từ khi có mặt trên thế giới này, sự
công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do là những ước vọng muôn đời của con
người. Những niệm ý ấy được đặt trên nền tảng của đạo đức. Nếu thiếu đạo đức
thì công bằng xã hội chỉ mang tính lý thuyết nhiều hơn là hiện thực. Liên quan
đến vấn đề này, hơn 2500 năm qua, Phật giáo đã thể hiện được rất nhiều sự quan
tâm thiết thực, mục tiêu của đạo Phật là kiến tạo cho đời sống nhân sinh những
giá trị mang chất liệu của hạnh phúc, yêu thương, an lạc.
Trong rất nhiều bộ Kinh, Đức Phật đã dạy về công bằng xã hội và nhân
quyền. Theo Phật giáo mỗi người đều giống nhau và đáng được giữ gìn nhân
phẩm và sống cuộc sống có phẩm chất. Một trong những lời bình dị đơn giản
của Đức Phật Thích Ca đã nói, nhưng ít ai để ý đến đó là: “Một người trở nên
cao quý hay thấp kém là do ba nghiệp của họ, chứ không phải do nơi chốn mà
họ sinh ra”. [3] …
* Trong mối tương quan giữa con người với tự nhiên, tư tưởng PG
hướng con người đến việc tôn trọng và xây dựng môi trường bền vững:
Phật giáo đưa chúng ta tới thái độ đúng hơn đối với môi trường, một trong
những vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta. Trong lời răn không được hủy diệt
cuộc sống thì quyền sống của thú vật và cây cỏ cũng được tôn trọng như con
người. Thiên nhiên không những lệ thuộc vào con người mà ngược lại con người
cũng lệ thuộc thiên nhiên.
Khi bàn về những ảnh hưởng tích cực đến môi trường sống của nhân loại từ
giáo pháp người ta nhận thấy, yếu tố cần thiết phải xét đến là cách giải quyết đời
sống kinh tế của loài người, bởi đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự
tàn phá môi trường. Về điều này, Đức Phật đã dạy đệ tử cần phải thực hiện
“chánh mạng” trong Bát Chánh Đạo, nghĩa là phải kiếm sống một cách lương
thiện, đúng đắn, không làm tổn hại cho mình, cho người và muôn loài. Có thể
nói đó là những việc làm thiết thực, âm thầm và lâu dài trong việc bảo vệ môi
trường sống của con người một cách hoàn hảo nhất. [3] …
* Quan điểm của Phật giáo về giáo dục:
Hơn 2.500 năm trước cho đến ngày nay, lịch sử hoằng truyền của Phật giáo

thực sự chính là một bộ giáo dục uyên thâm. Hết thảy thế gian này không chỗ
nào không gói gọn trong phạm trù giáo dục của Đức Phật.

6


Đức Phật Thích Ca sinh ra trong dòng tộc cao quý, những thứ Người nhận
được gần như đều thuộc giáo dục quý tộc, nhưng lúc Người tiến hành triển khai
giáo dục, thì hoàn toàn lại đứng trên lập trường tất cả chúng sinh bình đẳng để
thí giáo. Vì vậy, cách làm và tư tưởng giáo dục của Người là thuộc đại chúng
hóa, dân chủ hóa. Mục đích giáo dục của Đức Phật không chỉ là mở mang, phát
hiện tiềm năng hoặc là truyền đạt kinh nghiệm cho chúng sinh, mà điều quan
trọng nhất là cung cấp phương pháp giải thoát tự ngã cho tất cả chúng sinh.
Đức Phật giáo dục (dạy dỗ) đệ tử, không dùng đến biện pháp la mắng
đánh đập, cũng chẳng cần dùng đến cách cự tuyệt, quở trách, phần lớn Người
đều dùng phương thức cử thí (nêu ra ví dụ) hoặc khích lệ, để đệ tử biết được đời
người tốt lành, từ đó mà không làm tổn thương đến danh dự của họ. Khả năng
đặc biệt nhất của Đức Phật là biết quan sát căn cơ của từng đối tượng mà dụ dẫn
dạy bảo. Đồng thời còn khơi gợi “tự ngã giáo dục” (tự giáo dục), như thiên kinh
vạn luận đều hướng dẫn đại chúng cách phát hiện tự tính, tự yêu cầu, tự giải
thoát. Đức Phật rất chú trọng giáo dục tự tâm. [4]
Có thể tóm nêu mấy phương pháp giáo dục của Đức Phật như sau:
1- Mọi người đều nhận được sự giáo dục như nhau (hữu giáo vô loại): Đức Phật
giáo dục chúng sinh, không phân nghèo giàu quý tiện, không từ kẻ trí người ngu
hay cơ lợi tính thuần, Người đều giúp đỡ, giáo hóa trên tinh thần bình đẳng
không phân biệt.
2- Dạy dỗ không biết mệt mỏi (hối nhân bất quyện): Đức Phật không vì chúng
sinh lì lợm, ương bướng mà quăng bỏ chúng, trái lại diễn thuyết vô lượng pháp
môn, làm lợi ích chúng sinh. …
3- Phương tiện thiện xảo: Đức Phật mượn “giấy gói đàn hương” và “dây buộc

cá”, để nói với đệ tử về đạo lý “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”; Đức Phật
dùng chậu nhơ không thể chứa được nước pháp trong sạch, nhằm giáo dục La
Hầu La (Rahula), từ đó làm cho La Hầu La giác ngộ… Đều là do Đức Phật dựa
vào cá tính, hứng thú, nhu cầu của chúng sinh, dùng phương tiện thiện xảo để
giáo hóa, phát huy nghệ thuật cao nhất trong việc dạy học.
4- Lấy mình làm gương (dĩ thân tác tắc): Việc giáo dục lấy mình làm gương của
Đức Phật thì chúng ta có thể thấy rải rác khắp trong các kinh điển, như Đức Phật
từng xe chỉ luồn kim giúp cho Tỳ-kheo (Bhikkhu) già cả bị lù lòa, cho thấy Ngài
đã gương mẫu thể hiện tình thương yêu, lòng từ bi vô hạn.
5- Lấy độc trị độc (dĩ độc công độc): Đôi khi “lấy độc trị độc” cũng là một trong
những phương pháp giáo dục của Đức Phật.
6- Lấy xưa chứng nay (dĩ cổ chứng kim): Mượn các tích xưa của Đức Phật để
dẫn dắt, gợi ý tinh thần tự lợi lợi tha.

7


Tư tưởng giáo dục và phương pháp giáo dục trong Phật pháp, thực sự rất
đáng được chúng ta học tập và vận dụng vào công tác giáo dục và dạy dỗ học
trò, đặc biệt trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Các kinh luận
Phật giáo, đều là cách hướng dẫn, chỉ bảo con người làm thế nào để “thân, khẩu
và ý” trở nên đúng đắn, hài hòa, và trọn vẹn nhất, làm cho con người buông bỏ
mọi thói hư tật xấu như tham lam, sân hận và si mê, từ đó mà có thể thay tâm
đổi tính, sống một cuộc đời lành mạnh, tự tại và an vui. [4]
II.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
II.2.1. Vài nét về thực trạng đạo đức, lối sống của học sinh trường THPT
Ngọc Lặc trong những năm qua:
Trường THPT Ngọc Lặc được thành lập từ năm1961, hiện nay trường có 32
lớp với 1296 học sinh. Là trường nằm ở trung tâm của một huyện miền núi, với
HS chủ yếu là người dân tộc thiểu số, và một bộ phận học sinh cư trú trên địa

bàn Thị trấn huyện Ngọc Lặc thuộc gia đình làm ăn kinh tế, buôn bán, hoặc là
cán bộ, công chức. Còn lại là học sinh con em nông thôn và trong các xã xa thị
trấn, điều kiện kinh tế khó khăn.
- Trải qua bề dày giáo dục hơn 50 năm, nhà trường đã đạt được nhiều thành
tích rất đáng tự hào với biết bao nhiêu thế hệ học sinh thành đạt, trở thành những
công dân có ích cho xã hội… Trong những năm gần đây, chất lượng giáo dục
toàn diện ở trường cũng đạt được những kết quả khả quan. Đa số các em đều có
ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách của mình và phấn đấu
học tập tốt. Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ thì tỉ lệ HS vi phạm các chuẩn
mực đạo đức ở các mức độ khác nhau ngày càng gia tăng. Theo thống kê từ Ban
nền nếp nhà trường trong năm học trước (2015-2016) tỉ lệ HS vi phạm các
chuẩn mực đạo đức quả thực là một con số không nhỏ:
+ Số HS có hành vi vi phạm nhiều nhất là: Nói tục, chửi thề, gây gổ, đánh
nhau, trốn học, chơi games, bỏ giờ, gian lận trong thi cử… (Ở mức độ thỉnh
thoảng chiếm khoảng 85 %, và mức độ thường xuyên khoảng 15%). Hiện tượng
khiến phụ huynh và thầy cô đau lòng nhất là tình trạng học sinh gây gổ đánh
nhau, không chỉ có học sinh nam, mà có cả học sinh nữ, diễn ra cả bên trong và
bên ngoài trường, nguyên nhân chủ yếu là do xích mích trong tình bạn, tình yêu,
kết bè, kết nhóm, do ảnh hưởng của phim ảnh, các trò chơi bạo lực trên mạng…
+ Hiện tượng học sinh bỏ giờ, trốn học chủ yếu rơi vào những em chưa có ý
thức trong học tập, động cơ học tập không rõ ràng, thiếu sự quan tâm của gia
đình, do học yếu, ham chơi nên bị bạn bè lôi kéo, rủ rê…
+ Ngoài ra, số học sinh có những hành vi vi phạm như: gian lận trong thi
cử, hút thuốc lá, uống rượu/bia vô lễ với giáo viên, chơi bài, cá độ, vi phạm luật
giao thông cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể.
Điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường.

8



Có thể thấy việc HS có những hành vi vi phạm đạo đức như hiện nay là do
những nguyên nhân sau:
- Về phía các em là nguyên nhân chủ quan, do những biến đổi tâm sinh lí
lứa tuổi HS THPT. Tâm sinh lí, tình cảm của các em chưa bền vững, không ổn
định, khả năng làm chủ bản thân, “sức đề kháng”, bản lĩnh còn non yếu trước
những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài.
- Về phía gia đình: Gia đình là cái nôi của sự hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ. Những HS có hành vi vi phạm đạo đức kể trên chủ yếu thuộc các
gia đình kinh tế khó khăn, bố mẹ không có điều kiện quan tâm đến việc học
hành của con cái. Hoặc gia đình có điều kiện kinh tế tốt, nhưng do cha mẹ nuông
chiều, đáp ứng mọi nhu cầu về vật chất mà ít quan tâm đến đời sống tinh thần và
những đặc điểm phát triển tâm sinh lí lứa tuổi của con cái. Bố mẹ chỉ lo làm giàu
mà khoán trắng việc giáo dục con cái cho nhà trường. Hoặc gia đình vợ chồng
sống không hạnh phúc, các mối quan hệ trong gia đình thiếu chuẩn mực giữa bố
mẹ và con cái, bố mẹ luôn trong tình trạng mâu thuẫn hoặc đã li hôn, trong gia
đình có thành viên sa vào nghiện hút, rượu chè, cờ bạc… Sự thiếu gương mẫu
của người lớn chính là những tấm gương xấu làm trẻ chịu ảnh hưởng.
- Về phía xã hội ngày càng xuất hiện nhiều tệ nạn như: rượu chè, nghiện
hút, cờ bạc, xâm hại tình dục, trộm cắp… là nguy cơ khiến trẻ bị lôi kéo, hoặc
trước những cám dỗ của đồng tiền, không ít học sinh sa ngã, lơ là học tập vì ham
kiếm tiền sớm…
- Về phía nhà trường: Ban giám hiệu nhà trường đôi lúc còn chưa kịp thời
nắm bắt các hiện tượng vi phạm đạo đức học sinh để răn đe, ngăn chặn kịp thời.
+ Một số giáo viên bộ môn chỉ chú trọng việc “dạy chữ” và cho rằng
GDĐĐ cho HS là việc của GVCN, của Ban nền nếp nhà trường.
+ Một số ít giáo viên và cán bộ quản lí chưa thực là “tấm gương sáng để HS
noi theo”, việc áp dụng các phương pháp GDĐĐ còn cứng nhắc, thậm chí áp
dụng sai nguyên tắc: xem nhẹ yếu tố thuyết phục, đối xử thô bạo với học HS…
+ Một số GVCN chưa tâm huyết, năng lực còn hạn chế, chưa đi sâu, đi sát
từng HS để nắm bắt hoàn cảnh riêng của từng em. Chưa thực hiện tốt sự kết hợp

với gia đình HS trong công tác GDĐĐ.
II.2.2. Chất lượng GDĐĐHS lớp 10A4 năm học 2015-2016 và đặc điểm tình
hình đầu năm học 2016-2017:
- Năm học 2015-2016 lớp 10A4 có tỉ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm tốt
chiếm khoảng 61%, khá 27% và trung bình 12%
- Vào đầu năm học 2016-2017 tôi bắt đầu nhận lại lớp chủ nhiệm và qua
khảo sát ban đầu, tỉ lệ trên hầu như không thay đổi, cụ thể hơn về tình hình đạo
đức của lớp:
Nhìn chung các em đều ngoan, biết vâng lời thầy cô giáo, một số em rất
tích cực trong cả học tập và mọi hoạt động. Song phần lớn các em đều có đặc
điểm là lười lao động, ham đọc truyện hoặc ham xem điện thoại vào các giờ ra
chơi, thậm chí cả trong giờ học, lười học bài cũ ở nhà, các em có quan niệm lệch
lạc về giáo dục, chỉ tập trung chú ý ở một số môn học khối, không chú ý hoặc

9


không học nghiêm túc các môn như GDCD, GD thể chất… một bộ phận HS
(chủ yếu gồm các HS nam và một số ít HS nữ) thường xuyên vi phạm nội quy
trường lớp, kết bè phái, rủ nhau đi chơi điện tử, đi ăn chơi quán xá, uống
rượi/bia, có hành vi vi phạm khi tham gia giao thông, đánh nhau, nghỉ học
không xin phép, hùa theo nhau cười nói tự do, thiếu ý thức trong một số giờ học
gây ảnh hưởng đến giờ dạy của GVBM và tập thể lớp. Những HS ngoan gọi một
số bạn như thế là “nhây”, là “lầy”…
- Về HS cá biệt: theo những thông tin của năm học trước, và quan sát ban
đầu thống kê được trong lớp có 5 HS được coi là “cá biệt” (4HS nam và 1 HS
nữ), trong đó 2 HS thuộc gia đình có điều kiện, là con một nên được nuông
chiều, sinh ra tâm lí kiêu ngạo thích thể hiện, hay có biểu hiện vô lễ với giáo
viên, tâm lí không cần học, đặc biệt rất lười lao động, vô tổ chức về mặt thời
gian. Một em mẹ mất sớm, ở cùng bác ruột để ăn học lại có những hành vi như

thờ ơ với nhiệm vụ học tập, lười tham gia lao động và các hoạt động tập thể, bỏ
học đi chơi điện tử; và một HS nữ có mẹ đi lao động xa nhà, ở với bố mà bố
thường xuyên say xỉn, em lười học, hay nghỉ học vô cớ, hoặc uể oải, ngủ trong
giờ học, được biết em hay bán một số mặt hàng online, ham kiếm tiền sớm…
II.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
II.3.1. Giải pháp 1: Thay đổi nhận thức của mỗi người trong tập thể sư phạm
nhà trường (các nhà quản lí giáo dục, giáo viên, học sinh) về Phật giáo và
những quan điểm tích cực của Phật giáo, nên xem tư tưởng Phật giáo về giáo
dục là một trong những tư tưởng giáo dục tiến bộ của nhân loại.
- Bản thân những người làm công tác giáo dục, dù trong lĩnh vực khoa học
xã hội hay khoa học tự nhiên cũng đều nhắm đến việc giáo dục cho con người
phát triển toàn diện, nên để việc giáo dục hiệu quả và sâu sắc hơn, các nhà giáo
dục nên vận dụng kết hợp tư tưởng Phật giáo với các tư tưởng khác để tuyên
truyền và giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh trong giảng dạy cũng như
trong các hoạt động giáo dục khác. (Hiện nay tư tưởng giáo dục chính thống ở
Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tư tưởng
này không chỉ có ý nghĩ trong đời sống chính trị xã hội mà còn được vận dụng
và mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu lí luận
cho thấy những tư tưởng của Phật Giáo về giáo dục có nhiều nét tương đồng với
chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn nữa ngôn từ và cách diễn
giải của Phật giáo lại rất gần gũi, dễ hiểu, dễ đi sâu vào lòng người).
Tuy vậy, để học sinh và giới trẻ ngày nay quan tâm và thực hành những lời
dạy tốt đẹp của Đức Phật về cách làm người thì việc cố vấn, chỉ dẫn và định
hướng của các thầy giáo, cô giáo và những người làm công tác giáo dục là rất
cần thiết. Để làm được điều này, người dạy cần phải có những hiểu biết và nhận
thức nhất định về Phật giáo nói chung và giá trị về đạo đức, lối sống của Phật
giáo nói riêng.

10



II.3.2. Giải pháp 2: Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “mỗi thầy cô giáo là một
tấm gương đạo đức và sáng tạo”
Theo quan điểm “lấy mình làm gương” trong giáo dục của PG cũng như
theo lí luận GD cơ bản, chúng ta nhận thấy để góp phần nâng cao chất lượng
GDĐĐ cho HS, trước hết đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và mỗi thầy cô giáo
cần là một “tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, có ý thức tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, thường xuyên tự học nâng cao
trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và sáng tạo trong các hoạt động giáo
dục. Muốn vậy cần:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tọa đàm, hội thảo về những phẩm chất đạo
đức nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học, nhận thức đúng vai trò, vị trí của cuộc vận
động.
- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện cuộc vận động một cách khoa học, phù
hợp với thực tiễn của nhà trường và đơn vị.
- Tổ chức cuộc vận động gắn liền với đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước,
dạy tốt - học tốt và lồng ghép với các cuộc vận động khác đang tổ chức trong
nhà trường và đơn vị.
- Tăng cường công tác kiểm tra việc tổ chức thực hiện cuộc vận động.
II.3.3. Giải pháp 3: GVCN khéo vận dụng những những bài học của PG vào
các tình huống sư phạm nhằm GDĐĐ cho HS
Quan trọng hơn cả người thực hiện (giáo viên, nhà giáo dục) phải biết cách
lồng ghép, đưa vào một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, hợp lý, hợp tình huống những
tư tưởng tiến bộ của PG trong các tiết dạy, các tiết sinh hoạt đầu giờ, trong
những bài nói chuyện, những buổi hoạt động ngoại khóa, những lần giảng giải,
căn dặn, khuyên bảo về kỹ năng, cách sống… cho học sinh.
Chẳng hạn:
- Trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, ngoài cách sinh hoạt theo các
chủ đề thông thường (hát, chữa bài tập, thu tiền…), GVCN có thể xen kẽ vào
chủ đề kể chuyện (điều này cần thông qua trước với Ban nền nếp và Đoàn

trường). Theo đó, ban đầu giáo viên có thể kể những câu chuyện dí dỏm, các
tình huống thực tế qua “lăng kính” Phật pháp để tạo được ấn tượng sâu sắc cho
học sinh về những nguyên lý sống và cách hành xử trong cuộc sống đời thường.
Giáo viên cũng có thể cho học sinh tự kể về mình và những chuyện xảy ra trong
cuộc sống xung quanh các em, về gia đình, về xã hội… rồi cùng các em phân
tích thảo luận (dựa theo những triết lý của Phật giáo). Dần dần giáo viên có thể
đưa vào các buổi sinh hoạt những bài giảng của Phật pháp phù hợp với lứa tuổi,
tâm lí của các em, có ý nghĩa giáo dục đạo đức sâu sắc với lứa tuổi… để học
sinh nghe, suy ngẫm và hành động.
- Dựa theo Phật pháp ứng dụng trong dạy học mà người giáo viên có thể tự
chế biến ra những câu “niệm chú” nôm na, dễ nhớ, dể hiểu mà chứa đựng ý
nghĩa giáo dục thâm sâu cho học sinh đọc ở mỗi tình huống cụ thể. Ví dụ như:
Vào đầu mỗi tiết học, khi giáo viên vào lớp, các em thường còn lộn xộn, chưa
ổn định, có em thì còn đùa nghịch nhau, có em còn mải mê xem điện thoại, chơi

11


games, có em mải mê đọc truyện ngôn tình, có em còn gục đầu xuống bàn ngái
ngủ… để các em nhanh chóng ổn định và tập trung vào bài học, giáo viên có thể
yêu cầu các em đọc 3 câu:
“Cha mẹ cho tôi cơm ăn, áo mặc và cuộc sống.
Thầy cô cho tôi chữ nghĩa và tri thức.
Bản thân tôi phải tập trung học tốt”
Về sau giáo viên có thể hướng dẫn cho các em niệm các câu chú ấy vào
mỗi tối trước khi đi ngủ, như một bài tập tự luyện ở nhà. Kết thúc mỗi tiết học
bằng các câu “Hãy đem kiến thức đã học hôm nay mà phục vụ cho nhân loại
mai sau”. (Ứng dụng từ những lời phát nguyện, nhắc nhở trách nhiệm trong đạo
Phật).
- Một cách khác cũng rất thiết thực và phù hợp với tâm lý trẻ. Đó là, dựa

vào giáo lý nhân quả của Phật giáo để giải thích cho các em nghe về điển tích
“hạt đậu trắng, hạt đậu đen” (trong môn học GDCD có thể dùng để minh họa
cho bài học quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập), GVCN
dùng nó để rèn luyện các em thói quen làm việc thiện cho chính mình. Nhắc các
em, buổi tối trước khi đi ngủ, hãy tự phản tỉnh lại bản thân, tự nhận xét, đánh giá
lại những hành vi của mình trong một ngày, nếu tốt thì cho đậu trắng, nếu sai thì
cho đậu đen (vào hai chiếc lọ), (hoặc dùng ghạch mực đỏ - ghạch mực đen nếu
không có đậu) và thường xuyên đếm kỹ xem hạt nào nhiều hơn để tự điều chỉnh
suy nghĩ, ngôn ngữ và hành vi của mình cho tốt hơn…
- Trong suốt quá trình GDĐĐ cho HS cần khuyến khích các em tìm về
những giá trị đạo đức tốt đẹp của nhân loại được chứa đựng trong các tôn giáo,
đặc biệt là “Bát chánh đạo” và “Tam học” của Phật giáo. Ngày nay, từ phương
Tây cho tới phương Đông, giáo dục thường nhắm đến hiệu quả về mặt kinh tế xã hội, do vậy thường nghiêng về giáo dục tri thức, về khoa học công nghệ, về
kỹ năng nghề nghiệp cho người học mà thường coi nhẹ việc phổ biến những giá
trị đạo đức cho học sinh. Trong khi đó, giáo dục ở nhiều nơi đều nhấn mạnh phải
phát triển toàn diện cho người học. Trong thực tế, giáo dục nhân cách sống cho
người học là một việc vô cùng quan trọng nhưng không hề đơn giản, thậm chí
còn khó khăn hơn rất nhiều lần so với việc trang bị về tri thức, kỹ năng. Do đó,
chúng ta không chỉ rao giảng, khuyên bảo một cách máy móc về các bài học đạo
đức, lối sống theo những mô - tip quen thuộc. Điều quan trọng là phải làm cho
học sinh, thanh niên tự ý thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện nhân cách
sống và khuyến khích họ chủ động tìm về những giá trị tốt đẹp của truyền thống
dân tộc, giá trị đạo đức, lối sống của Phật giáo… Chúng ta hãy làm điều này
một cách tự nhiên, không áp đặt, không ra lệnh mà hãy làm người gợi ý, động
viên, khuyến khích cho họ. Hãy để họ tự lựa chọn, tự “chiêm nghiệm”, tự “tu
tập” những tư tưởng đạo đức tích cực của Phật giáo hay bất kỳ một giá trị đạo
đức tốt đẹp nào khác mà họ thấy phù hợp và yêu thích.

12



II.3.4. Giải pháp 4: GVCN kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh và nhà trường
trong công tác giáo dục đạo đức học sinh:
Vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách của thế hệ trẻ rất cần sự góp sức từ
gia đình. Nếu gia đình không có một phương pháp giáo dục đúng đắn thì gia
đình nói riêng và xã hội nói chung phải gánh chịu những hậu quả không thể
lường trước được.
Vì vậy, các bậc cha mẹ cần nắm thông tin, hiểu rõ tâm lý, nhất là hiểu
đúng vai trò hết sức to lớn của mình trong việc đào tạo nên những “con ngoan
-trò giỏi”. Nếu con mắc lỗi, cha mẹ hãy phân tích góp ý và tạo cho con những cơ
hội để sửa chữa lỗi lầm. Thường xuyên quan tâm đến tâm tư, tình cảm, mối quan
hệ bạn bè của con. Giúp con tự chủ, có tính độc lập, không ỷ lại vào cha mẹ và
người khác. Cha mẹ cần làm gương cho con noi theo. Trong gia đình, cha mẹ
phải luôn chú ý rèn luyện, tu dưỡng mình là tấm gương về đạo đức, nhân cách,
là điểm tựa tinh thần của con để con noi theo và học tập.
Đặc biệt, ở lứa tuổi này, các em đang trong quá trình hoàn thiện nhân cách
và khẳng định bản thân, cha mẹ cần phải hiểu và thông cảm, luôn gần gũi, chia
sẻ với con, thường xuyên theo dõi mọi sự thay đổi của con để có biện pháp giáo
dục phù hợp. Cân nhắc, đáp ứng đúng những mong muốn, đề nghị của con nếu
chính đáng, trao đổi giúp con hiểu rõ thông tin và đi đến có quyết định đúng.
Gia đình cần kết hợp với nhà trường, xã hội trong việc giáo dục giá trị đạo
đức, nhân cách cho các em, không nên phó mặc trách nhiệm giáo dục con em
mình cho nhà trường và xã hội. Các bậc phụ huynh phải đầu tư nhiều thời gian
hơn, kết hợp trao đổi thông tin với nhà trường để động viên thành tích học tập và
rèn luyện của các em, để phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm, những tác
nhân xấu đang “rình rập” ngoài xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình đối với sự hình thành nhân
cách và giáo dục đạo đức cho học sinh, người GVCN cần:
- Chủ động thu hút sự tham gia của cha mẹ học sinh vào công tác giáo dục
cùng nhà trường và đồng thời hỗ trợ gia đình trong giáo dục các em. GVCN phải

lên kế hoạch tổng thể và chi tiết ngay từ đầu năm học về việc kết hợp với phụ
huynh trong GDĐĐHS, nắm vững thông tin về gia đình của từng hs (càng nhiều
thông tin càng tốt, nhất là với gia đình của những em học sinh cá biệt), lưu trữ
thông tin liên hệ đầy đủ với tất cả phụ huynh, sao cho có thể liên hệ được một
cách nhanh chóng kịp thời, tiện lợi cho cả đôi bên.
- Tổ chức các cuộc họp phụ huynh định kỳ: Ngoài việc thực hiện tốt các
nội dung cơ bản của cuộc họp (thông báo về chương trình học, kế hoạch hoạt
động của nhà trường, của lớp trong năm học, về cách đánh giá học sinh, bầu Ban
đại diện CMHS, thông báo các khoản đóng góp, thu thập thông tin về gia đình,
phụ huynh HS, địa chỉ, số điện thoại liên hệ, chữ kí mẫu của tất cả phụ huynh,
cung cấp số điện thoại của GVCN…). GVCN cần dành thời gian ưu tiên và
dùng thiện ý để hướng sự bàn luận của CMHS vào việc thảo luận về công tác
giáo dục đạo đức, lối sống cho con em họ.

13


- Ngoài các cuộc họp phụ huynh định kỳ, GVCN cố gắng lên kế hoạch và
lựa chọn một thời điểm thích hợp nào đó (như vào ngày gia đình Việt Nam, hay
ngày HS - SV Việt nam…) tổ chức một cuộc hội thảo ngắn với toàn thể CMHS
của lớp, mục đích giao lưu, thảo luận giữa gvcn với phụ huynh và giữa các phụ
huynh với nhau về việc làm thế nào để các em trở thành những “con ngoan, trò
giỏi” của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong hội thảo, GVCN có thể khéo léo
đưa vào các bài giảng có ý nghĩa rất tích cực và dễ hiểu, dễ vận dụng của Phật
pháp ứng dụng, như bài “Nuôi dạy con trong thời hiện đại” của Thầy Thích
Phước Tiến (Phó Tổng Thư Ký Viện Nghiên Cứu Phật Học, Ủy viên Ban Hoằng pháp T.Ư
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Ban Văn Hóa Phật giáo Thành Phố Hồ Chí Minh, Trụ trì
Tu Viện Tường Vân), và nhiều bài khác nữa về giáo dục con cái, GD hôn nhân và

hạnh phúc gia đình…

- GVCN cần thường xuyên liên lạc với tất cả PHHS để trao đổi, cập nhật
mọi vấn đề liên quan đến các em một cách kịp thời, hợp lý, tế nhị. GVCN đến
nhà học sinh để gặp gỡ, trao đổi hoặc thăm hỏi gia đình học sinh khi cần thiết.
II.3.5. Giải pháp 5: Tăng cường giáo dục học sinh cá biệt trên cơ sở vận dụng
những quan điểm tích cực của Phật giáo:
Trong một tập thể lớp luôn tồn tại những học sinh dễ giáo dục và học sinh
khó giáo dục, học sinh có hành vi không mong đợi. Các em này thường có
những thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy truyền thống của tập
thể, không thực hiện tròn trách nhiệm và bổn phận của người học sinh, thiếu văn
hóa, đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người mặc dù đã được giáo viên và
gia đình quan tâm chỉ dẫn… Nếu hành vi không mong đợi của các em lặp lại
thường xuyên và trở thành có hệ thống thì thực tiễn gọi là HS cá biệt. Nếu trong
một lớp có những HS cá biệt sẽ luôn có những hành vi tiêu cực, không phù hợp
thì ảnh hưởng đến tập thể và những em khác. Trên thực tế nhiều GVCN cảm
thấy rất áp lực, có khi là bất lực khi trong lớp có học sinh được gọi là cá biệt, bởi
vì GVCN không chỉ gặp khó khăn trong ứng phó với chính em đó, mà còn cảm
thấy “khó chịu” khi học sinh đó làm ảnh hưởng đến những HS khác, đến thi đua
của tập thể lớp. Vì vậy, đối với HS cá biệt, GVCN thực sự cần là “Kĩ sư của tâm
hồn”, có trách nhiệm và yêu thương, sâu sát, hiểu rõ học sinh và kiên trì giáo
dục bằng mọi biện pháp. GVCN cần thông tường tri thức về nhiều lĩnh vực, đặc
biệt trong đạo đức, lối sống, các giá trị văn hóa xã hội, trong đó có những tư
tưởng tích cực của Phật giáo, để giữ vai trò là người hướng đạo cho học sinh
trong ứng xử với mọi người và trong cả lựa chọn những giá trị, nghề nghiệp,
viễn cảnh tương lai.
Muốn vậy, GVCN cần làm:
- Ngay từ đầu năm học GVCN cần nhanh chóng nắm được tình hình chung
của lớp, thuộc lòng tên HS, đặc điểm từng em, đặc biệt lên danh sách “kín” về
những học sinh có những biểu hiện được coi là cá biệt (tức không để chính
những HS đó hay cả lớp biết các em bị gọi là HS cá biệt, không rêu rao, kỳ thị
về các em), chú ý rằng trong danh sách đặc biệt này GVCN có thể “đánh nhầm

còn hơn bỏ sót”, càng có thể quan tâm đặc biệt đến nhiều em càng tốt. Theo đó,

14


GVCN lên kế hoạch giáo dục đối với từng em. (Việc này nên hoàn tất trong
vòng một tháng sau khi nhận lớp chủ nhiệm).
- Dựa vào những quan điểm tích cực của Phật giáo về giáo dục và cảm hóa
con người, GVCN phải luôn giữ được trạng thái bình tĩnh và kiên trì trong giáo
dục HS cá biệt, học tập các phương pháp giáo dục của Đức Phật như đã nêu ở
phần lí luận. Người GVCN khi đứng trước những học sinh có hành vi không
mong đợi phải biết kiềm chế, biết lắng nghe tích cực, hiểu học sinh, tôn trọng
học sinh để hiểu được nguyên nhân, mục đích của những hành vi tiêu cực, cũng
như những khó khăn trở ngại về mặt tâm lí của HS… từ đó có cách ứng xử phù
hợp. Chẳng hạn:
+ Với HS có hành vi nhằm thu hút sự chú ý, GVCN cần giảm thiểu hoặc
không để ý đến hành vi của HS lúc đó mà chủ động chú ý đến học sinh vào lúc
khác, những lúc phù hợp và dễ chịu hơn. Khi các em có hành vi GVCN có thể
nhìn nghiêm nghị nhưng không nói gì, hướng các em vào hành vi có ích hơn,
nhắc nhở cụ thể (tên, công việc phải làm) cho học sinh lựa chọn có giới hạn.
+ Với HS có hành vi nhằm thể hiện quyền lực, GVCN nên bình tĩnh rút
khỏi cuộc đôi co, xung đột, không “tham chiến” với HS, để học sinh nguôi, hiểu
cảm xúc của học sinh và thể hiện mình hiểu cảm xúc đó, chia sẻ cảm xúc của
mình về tình huống đó, cùng trao đổi để phòng tránh vấn đề tương tự trong
tương lai, khi có cơ hội nói chuyện với các em, GVCN tận dụng để xen vào
những câu chuyện, những câu nói mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc của Phật giáo
về tính thiện lương, hiền hòa, nhân ái… để cảm hóa và giúp các em chuyển hóa
sức mạnh, quyền lực theo cách tích cực hơn. Đối với những em này cần khích lệ
các em tự quyết định xem mình sẽ làm gì chứ không phải bắt các em làm gì.
+ Với HS có hành vi chống đối, làm ngược, hằn học, lầm lì, trả đũa, GVCN

nên kiên nhẫn, tránh dùng các hình thức trừng phạt HS, duy trì tâm lí bình
thường trong khi chờ đợi HS nguôi dần. Đồng thời khích lệ sự hợp tác, xây dựng
lòng tin từ HS, tìm cách tâm sự riêng với HS để giải quyết khó khăn, tăng cường
sử dụng kỹ năng khích lệ, cho thấy HS được yêu thương, tôn trọng. Từ đó HS sẽ
thuần phục và hồi tâm, chuyển ý trở thành HS cởi mở, biết vâng lời.
+ Với những HS có hành vi thể hiện sự không hòa hợp trong tập thể:
GVCN không nên phê phán, chê bai HS, mà dành thời gian rèn luyện phụ đạo
cho HS, đặc biệt về học tập, chia nhỏ nhiệm vụ, bắt đầu từ việc dễ để HS có thể
đạt thành công ban đầu, sử dụng kỹ năng khích lệ tập trung vào điểm mạnh của
HS, không thể hiện thương hại, không đầu hàng, dành thời gian thường xuyên
cho học sinh, giúp đỡ học sinh… Cách này theo Phật pháp gọi là“giáo dục
không biết mệt mỏi” và dùng thiện tâm trong giáo dục…
Tóm lại, dựa vào những quan điểm giáo dục tích cực của Phật giáo, mà
người GVCN trong quá trình thực hiện các kế hoạch với HS cá biệt sẽ biết kết
hợp linh hoạt giữa các biện pháp nghiêm minh khi cần thiết và xử lý mọi tình
huống trên suy nghĩ rằng: Trẻ không có tội, nếu sống trong một gia đình lành
mạnh thì trẻ sẽ có một nhân cách tốt, và ngược lại. Vì thế những hành vi không
mong đợi của trẻ chỉ là cái “quả” của cái “nhân” nào đó từ phía gia đình, xã hội

15


mà thôi. Vậy chúng ta hãy thương yêu trẻ, cố gắng để giúp trẻ vượt qua những
lỗi lầm, những biến cố, những vấn đề xảy ra trong quá trình sống… Không phải
tự nhiên mà trẻ trở thành “cá biệt”, đó là hậu quả của các vết thương tâm lý mà
vô tình người lớn đã gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc sống trong môi trường
gia đình cũng như ở trường học. Về bản chất trẻ luôn cần được hiểu và đáp ứng
những nhu cầu, từ nhu cầu sinh học đến nhu cầu được an toàn, được yêu thương
chia sẻ, tôn trọng và có giá trị…
II.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với

bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Sau một năm nghiên cứu và vận dụng những tư tưởng tích cực của Phật
giáo vào giáo dục đạo đức học sinh trong công tác chủ nhiệm tôi đã thu những
kết quả khả quan:
- Đối với bản thân:
Vẫn biết rằng con người không ai hoàn hảo cả, nhưng tôi chắc rằng bất kỳ
người GVCN tâm huyết nào cũng luôn muốn mình hoàn hảo hơn trong mắt HS.
Bởi vậy họ sẽ luôn tìm tòi, học hỏi những giá trị văn hóa tích cực của nhân loại,
luôn cập nhật những vấn đề hiện đại liên quan tới giáo dục HS. Đối với tôi, sau
khi hiểu và thực hành những tư tưởng tích cực của Phật giáo, nghiên cứu về Phật
pháp ứng dụng vào dạy học trong thời đại ngày nay, tôi nhận thấy, trước hết tự
bản thân sống tích cực và lành mạnh hơn, cố gắng bồi dưỡng năng lực chuyên
môn để làm tốt công tác, không ngừng hoàn thiện bản thân để xứng đáng là “tấm
gương sáng” cho HS noi theo.
Việc thực hành Phật pháp ứng dụng còn giúp tôi luôn có hướng xử lý mọi
tình huống sư phạm với HS, đồng nghiệp, phụ huynh, lãnh đạo…một cách bình
tĩnh, kiềm chế, nhẹ nhàng, khiêm tốn, kiên nhẫn, sáng suốt, nhìn nhận sự việc
thấu đáo, sâu sắc, nhìn thấu tâm tư học sinh để đưa ra những tác động giáo dục
hiệu quả… nhờ đó mà tôi đã thực sự có được cảm giác “thăng hoa” trong sự
nghiệp, đó không phải là những tấm bằng khen hay tiền tài lợi lộc gì, mà đó
chính là những “vị khách qua đò” của tôi với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp, lương
thiện, biết làm chủ cuộc sống và phấn đấu chân chính cho tương lai. Đây thực sự
là cảm xúc nghề nghiệp mà tôi chưa từng có trong suốt gần 10 năm công tác
trước đây, mặc dù khi đó tôi cũng luôn nhiệt tình và trách nhiệm trong công
việc.
- Đối với học sinh và tập thể lớp chủ nhiệm:
Trong năm học 2016-2017, nhờ sự kết hợp tất cả các biện pháp giáo dục cơ
bản của công tác chủ nhiệm và vận dụng những quan điểm tích cực của Phật
giáo trong công tác GDĐĐ HS mà chất lượng đạo đức của học sinh lớp tôi chủ
nhiệm đã được cải thiện rõ rệt. Cụ thể là:

+ 100% HS đều nhận thức được sự cần thiết phải tu dưỡng đạo đức, lối
sống, rèn luyện nhân cách tốt ở trường và ở nhà, chỉ còn khác nhau ở mức độ
quyết tâm và hành động. Hơn 70% HS có quyết tâm cao và trở thành những HS
ngoan, có ý thức tự giác trong học tập, rất hiếm khi vi phạm nội quy trường lớp,
các em được xếp loại hạnh kiểm tốt cuối năm học. Các em còn lại đã nhận thức

16


được, nhưng chưa thực sự quyết tâm và chưa có động lực lớn để cố gắng, các
em đã có nhiều tiến bộ song đôi khi vẫn còn vi phạm nội quy trường lớp như: đi
học muộn, nghỉ học không xin phép, không chuẩn bị bài ở nhà, chưa tập trung
chú ý, chưa nghiêm túc trong giờ học… song so với đầu năm học và năm học
trước thì mức độ và mật độ vi phạm đã thuyên giảm nhiều.
+ Hầu hết các em đều hiểu và biết cách thể hiện đạo “hiếu” với cha mẹ, ông
bà, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, đồng cảm với người nghèo khổ, có ý
thức bảo vệ môi trường, giữ gìn tài sản, cảnh quan trường lớp, làm vệ sinh sạch
sẽ, có ý thức khi tham gia giao thông…
+ Đáng mừng hơn cả là 5 em HS có hạnh kiểm trung bình ở năm học trước,
và ở đầu năm học vẫn có những biểu hiện “cá biệt” thì giờ đây các em đã có
nhiều tiến bộ. 2 em đã trở thành học sinh ngoan, hoàn thành nhiệm vụ học tập,
và vươn lên xếp loại hạnh kiểm tốt. 3 em còn lại cố gắng đạt được hạnh kiểm
khá. Có em đã thực sự trở nên thân thiết, gần gũi với tôi và một phần vì “nể” mà
các em tốt lên, ít vi phạm nội quy trường lớp hơn hẳn, những hành vi vi phạm
đạo đức nghiêm trọng không còn.
+ Từ đó mà thành tích thi đua của tập thể lớp cũng được nâng lên đáng kể ở
cuối năm học.
- Đối với nhà trường và giáo viên bộ môn: Chất lượng giáo dục đạo đức
học sinh của lớp góp phần làm nâng cao chất lượng GDĐĐHS của toàn trường,
tạo điều kiện thuận lợi giúp các GVBM truyền thụ kiến thức đến HS đạt hiệu

quả cao hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà
trường.
* Dưới đây tôi xin kể một ví dụ:
Em Lê. V. N: được coi là một HS cá biệt, xếp hạnh kiểm trung bình ở năm
học trước, qua hồ sơ, qua GVCN cũ và qua quan sát đầu năm cho thấy những
biểu hiện của em là thường xuyên bỏ học đi chơi điện tử, ngồi trong lớp học
luôn uể oải, kém tinh thần, không chú ý nghe giảng, thường hay nói ngang với
giáo viên, nói tự do trong lớp (các GVBM cho là hỗn láo), tham gia hời hợt các
hoạt động tập thể, lười lao động, chống đối cán sự lớp… Ngay khi nhận lớp tôi
đã có kế hoạch riêng với em, mà chỉ tôi biết. Tôi tích cực quan sát và tìm hiểu
em qua mọi kênh, tôi được biết em đã mất mẹ từ nhỏ, em phải xa bố và em gái
lên ở với nhà bác ruột để ăn học. Bác em là một bác sĩ giỏi của bệnh viện huyện
nhưng lại là người khá độc đoán, gia trưởng (theo như tôi tìm hiểu và tiếp xúc).
Em có đầy đủ điều kiện để ăn học, nhưng em lớn lên trong một môi trường quá
nghiêm khắc và thiếu sự quan tâm thực sự dành cho em. Em không được tham
gia các hoạt động vui chơi giải trí, thể thao ngoài giờ học như những bạn bè
cùng trang lứa, không được dùng đến máy tính, điện thoại, không được giao lưu,
gặp gỡ bạn bè ở nhà… Khi chẳng may em phạm lỗi ở trường mà bác em biết thì
em sẽ bị chửi phạt, trách móc, thậm chí đánh đòn, dọa đuổi về… Bác gái (bác
dâu) mặc dù tốt với em, chăm sóc cho em lớn nhưng cũng không thể gần gũi, và
quan tâm em thực sự như một người mẹ… Hiểu đến đây tôi lại thấy thương em

17


hơn là trách. Tôi tự hỏi có phải vì sống trong hoàn cảnh như thế, mà em trở nên
như thế?... Em bị cấm đoán “chơi games” và những nhu cầu khác, nên em phải
bỏ học để chơi, em phải nói dối người nhà, nói dối thầy cô để “tự bảo vệ mình”
khỏi những trận lôi đình của bác. Em nói ngang, nói hỗn với thầy cô, cư sử thiếu
tế nhị với bạn bè là do em “chưa biết cách”, chưa có người nhẹ nhàng bảo ban

em điều đó. Em thờ ơ với cuộc sống, thiếu lý tưởng tương lai là do chưa có ai
“khai đường, mở lối” giúp em. Em dễ bị bạn bè lôi kéo đi chơi và rủ rê uống
rượu/bia (em đã từng say xỉn tới không biết gì ở cái lứa tuổi này!) sở dĩ là vì em
thiếu kỹ năng sống, không biết cách tự bảo vệ mình, chán nản về cuộc sống thực
tại…
Tôi bắt đầu tiếp cận em một cách tích cực, xuất phát từ lòng chân thành
muốn giúp em thay đổi, bằng sự cảm thông “như một người mẹ”. Ngoài thời
gian dạy dỗ, tiếp xúc trên lớp, tôi cố gắng tìm cách gần gũi em hơn trong những
lần lao động hay hoạt động ngoại khóa. Tôi chủ động tạo ra những tình huống
chỉ có cô và trò, lợi dụng không gian riêng để nói chuyện với em, giảng giải cho
em về những bài học cuộc sống sâu sắc, dễ hiểu theo những quan điểm của Phật
giáo. Khi em bắt đầu có sự tin tưởng và cảm nhận được thiện ý của tôi, tôi chủ
động bảo em đến nhà để học kèm (tôi phát hiện ra nếu em tập trung chú ý em
cũng tiếp thu bài nhanh và thông minh). Qua tiếp xúc nhiều với em tôi cũng thấy
em là một đứa trẻ vốn rất khoan dung và tình cảm (mặc dù là con trai nhưng em
dễ khóc khi các bạn lỡ lời nhắc đến mẹ). Tôi tác động đến em bằng những cử
chỉ, lời nói đơn giản như: Có lần thấy đầu tóc em rậm rạp, bù xù tôi đứng gần
cười bảo: “chiều về đi cắt tóc đi nhé N”, em hất mặt lên và nói một câu cũng
trống “không có tiền!”, khi ấy tôi hơi nghiêm nét mặt lại nhìn em bằng ánh mắt
ấm áp “chiều em vào nhà, cô đưa tiền cho đi cắt nhé!”, rồi tôi bước đi cho em ở
đó với dòng suy nghĩ… Niềm vui nhỏ trong tôi bắt đầu xuất hiện khi sáng hôm
sau tôi đến lớp thấy em đầu tóc đã được cắt gọn gàng, khi ấy trước đông bạn tôi
trêu vui em một câu: “hôm nay N có tóc mới đẹp trai quá các em nhỉ”, em hơi
ngượng và nhìn tôi mỉm cười…
Rồi một lần, em nói dối người nhà để đi dự sinh nhật cùng với chúng bạn,
bị một nhóm bạn trong buổi sinh nhật hôm ấy rủ rê, khích bác uống rượu đến
say không biết gì. May cho em một số HS nữ ở đó đã nghĩ đến việc không thể
đưa N về nhà trong tình trạng ấy, bởi nếu bác N biết thì sẽ “thật đáng sợ”, bởi
vậy chúng không biết nhờ ai khác ngoài tôi. Chúng gọi cho tôi và nhờ cô “xử lý”
giúp. Sau một hồi đắn đo, tôi cũng bình tĩnh tìm ra cách giải quyết. Tôi đến đó

và thấy tình trạng của em, trông em hoàn toàn bất tỉnh, mặt tím tái, tôi lo nghĩ
đến tình huống ko hay về sức khỏe đối với em bởi như các bạn nói em cũng
không biết uống mà các bạn lớp khác ép em uống dồn dập nên em đã gục
nhanh… Trước hết tôi nhờ một số HS còn ở lại đưa N vào giường nghỉ, tôi cũng
nhận định rằng không thể đưa em về nhà bác bởi tôi hiểu những gì diễn ra sau
đó… Tôi cũng không thể đưa em về nhà mình, bởi nhỡ đâu em có “mệnh hệ” gì
thì tôi biết giải thích sao cho bố em, người nhà em… Vậy là tôi gọi cho dì của
em (người mà tôi thường xuyên liên hệ để trao đổi về em hơn, bởi em ở với bác

18


nhưng người đại diện cho em lúc đi học lại chủ yếu là dì, dì đi họp phụ huynh
cho em hồi đầu năm học và do là cán bộ công chức nên dì cũng nằm trong Ban
đại diện CMHS của lớp). Khi ấy cũng muộn rồi, khoảng hơn 10h tối, gọi một
cuộc không được, gọi thử cuộc thứ hai, và đến lần thứ ba may chị ấy đã nghe
máy, chị bảo vừa đi đón con đi học về. Tôi nhanh chóng trao đổi tình hình với
chị và cùng tìm ra hướng giải quyết. Chị cũng đến và nhận định như tôi, lo N bị
ngộ độc rượu tôi và chị gọi xe đưa N đến trung tâm y tế để truyền, trước khi về
tôi nhờ chị làm thế nào để không cho gia đình bác biết, chị cũng hiểu và làm như
vậy… đêm hôm đó tôi thức trắng vì giận, vì lo. Hôm sau, sáng sớm tôi đã gọi
chị để biết tình hình của N, biết N đã tỉnh và đi học tôi mới thở phào. Nhưng
cũng chiều hôm ấy, theo lịch N đến nhà tôi học kèm, em vẫn đến và có vẻ như
biết việc mình làm tối qua, cũng như “có vẻ biết ơn” vì tôi đã giúp em “thoát
nạn”. Tôi gọi em vào ngồi cạnh, đưa cho em một cốc nước mát, ban đầu em cúi
mặt không nói gì. Tôi bắt đầu kể lại cho em về hình ảnh em tối qua, (mà có thể
khi ấy quá say em không nhớ gì), lúc ấy trông em bất tỉnh, nôn mửa, khó nhìn,
khó chấp nhận… như thế nào, rồi khó khăn mới dìu được em - một cơ thể mềm
nhũn ra xe chở đi truyền, rồi tôi và dì em đã lo lắng cho em ra sao, hiểu cho em
không để bác em biết để bảo vệ em và cho em cơ hội sửa chữa chứ không phải

để bao che… Rồi sau đó tôi cũng khuyên giảng, răn đe em từ nay không nên lặp
lại việc này, đồng thời nói cho em hiểu hơn về những đạo lý cơ bản (theo cách
răn dạy của nhà Phật) để em nhận thức và biết vượt lên chính mình, không bị
bạn bè lôi kéo vào những thói hư, tật xấu cũng như khắc phục được những gì
yếu kém trong bản thân. Tôi nói cho em biết “ Nếu có lỗi mà sửa thì sẽ coi như
không có lỗi, nếu có lỗi mà không sửa thì đúng là có lỗi vậy”…
Qua nhiều lần cùng trò chuyện, em đã cởi mở với tôi hơn, tôi dùng thiện chí
và kỹ năng lắng nghe tích cực để gợi ý em kể cho tôi nghe nhiều chuyện về cuộc
sống của em, dần dần chúng tôi trở nên thân thiết, qua những lần cô trò còn nói
chuyện trên facebook, (nhờ mạng xã hội tôi có thêm một cách hữu ích để tiếp
cận, tìm hiểu và quản lí HS) do ngại nói trực tiếp, có lần em gửi tôi một tin nhắn
nhỏ:

19


Câu chuyện của tôi và em còn dài, nhưng cuối cùng thì hết năm lớp 11, qua
tròn một năm tôi chủ nhiệm lớp, em N đã có sự tiến bộ vượt bậc, được bạn bè và
các thầy cô giáo bộ môn ghi nhận. Em có ý thức tốt hơn trong các giờ học,
không còn bỏ học đi chơi điện tử. Với tố chất thông minh của mình nhưng trước
đây do chưa có ý thức và động cơ học tập đúng đắn nên kết quả học tập năm lớp
10 của em chỉ đạt học lực trung bình. Năm nay, ở học kỳ hai em bắt đầu có sự
lay chuyển về ý thức, rèn luyện đạo đức nên cũng chú tâm hơn vào học tập do
đó đạt học lực khá cả năm học.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận
GDĐĐ lối sống cho thế hệ trẻ là một nội dung cơ bản, thường xuyên của
mọi nền giáo dục trên thế giới từ xưa đến nay nhưng trong từng giai đoạn cụ thể
thì giáo dục cần phải vận dụng những tư tưởng, phương thức giáo dục phù hợp
thì mới có thể mang lại hiệu quả. Xuất phát từ kết quả nghiên cứu tôi nhận thấy,

người GVCN ở trường THTP là người có trọng trách lớn lao trong việc giáo dục
ĐĐHS. Muốn nâng cao chất lượng GDĐĐ học sinh lớp chủ nhiệm thì không
những phải sử dụng thành thạo, uyển chuyển tất cả những biện pháp truyền
thống đã được nhắc đến trong các tài liệu về công tác chủ nhiệm mà còn có thể
vận dụng những tư tưởng tích cực trước mắt và lâu dài cho việc giáo dục đạo
đức học sinh THPT trong thời đại ngày nay.
Nhiệm vụ của mỗi người giáo viên chủ nhiệm là giúp cho học sinh nắm
được những giá trị cốt lõi để làm người. Trong thời đại mới, đó là những giá trị
về đạo đức của con người đang tiến đến một kỷ nguyên mới: Con người lao
động sáng tạo trong một xã hội tri thức, phát triển một nền kinh tế tri thức trong
một thế giới hòa bình, dân chủ và hội nhập quốc tế. Cái thế giới hiện đại ấy sau
khi trải nghiệm riêng tôi thấy nó rất phù hợp với những giá trị của Phật giáo và
cũng được chứng minh trên những tài liệu, tạp chí khoa học. Đó là:
Giúp học sinh yêu chuộng hòa bình, yêu chuộng tự do, bình đẳng, bác ái,
chống chiến tranh. Yêu thương con người, biết khoan dung và thông cảm, giúp
đỡ những người nghèo khổ, bảo vệ môi trường thân thiện.
Cuối cùng mỗi người phải có ý thức học tập vươn lên đạt tới trình độ phát
triển trí tuệ để làm chủ bản thân mình, xây dựng cho mình một kho tàng tri thức
phong phú để dân tộc mình là một dân tộc thông thái, để thế giới có được một xã
hội minh triết trong tương lai như lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:
“ Tự mình hãy là ngọn đèn của mình”.
GDĐĐ học sinh là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó giáo dục ở nhà
trường có vai trò định hướng mà người GVCN giữ vai trò sứ mệnh vinh dự và là
người trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển đạo đức, hoàn thành nhân cách ở
người học sinh. Do vậy tôi mong rằng tất cả những người làm công tác “trồng
người” chúng ta hãy khéo vận dụng thêm những giá trị tích cực của Phật giáo
cùng với những tâm huyết bấy lâu của quý vị để không chỉ ứng dụng vào cuộc
sống mà còn vào nghề nghiệp mình đang làm để có được sự an lạc cho mình và
giáo dục nên những con người của thế hệ tương lai “từ bi và trí tuệ”.


20


III.2. Kiến nghị
Qua bài viết tôi xin có một số đề xuất:
- Đối với những người đang làm công tác giáo dục nhà trường cần có cái
nhìn tích cực hơn về đạo Phật, chúng ta không nên quan niệm rằng đạo Phật là
một tôn giáo, mà chỉ nghiên cứu những giá trị tích cực của Phật giáo, vận dụng
vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh để đem lại hiệu quả giáo dục cao
nhất.
- Đối với BGH nhà trường và lãnh đạo cấp trên cần tạo điều kiện tốt hơn về
cơ sở vật chất trường học như: trang bị thêm máy chiếu trong phòng học, đưa
thêm những tài liệu Phật giáo có ý nghĩa giáo dục vào thư viện nhà trường…
Đồng thời tạo điều kiện tổ chức những buổi “Hội thảo về công tác chủ nhiệm”
để bản thân và đồng nghiệp có cơ hội trao đổi kinh nghiệm, nâng cao năng lực
chủ nhiệm lớp, đặc biệt công tác GDĐĐHS.
- Đối với đồng nghiệp tôi mong rằng chúng ta luôn tâm huyết với nghề, yêu
thương trẻ như con em, trau dồi năng lực sư phạm, cũng như những kiến thức
mới về tâm lý giới trẻ đương đại, hiểu biết về các giá trị tốt đẹp của Phật giáo…
Kết hợp công nghệ thông tin trong dạy học và giáo dục, sử dụng thành thạo vi
tính, internet, sử dụng mạng xã hội một cách hiệu quả… các em học sinh sẽ dễ
dàng bị thu hút bởi các thầy cô giáo nhiệt tình, năng động và chia sẻ được những
điều mà chúng không thể thổ lộ cùng người thân trong gia đình, GVCN trở
thành chỗ dựa tinh thần đáng tin cậy cho các em.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã và đang áp dụng trong
công tác GDĐĐHS tại trường THPT Ngọc Lặc. Quá trình thực hiện bước đầu đã
đem lại những kết quả đáng khích lệ mà tôi tự gọi đó là “sự thăng hoa” trong sự
nghiệp trồng người. Hy vọng rằng, kinh nghiệm nhỏ có thể góp phần vào việc
nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường trong bối cảnh xã hội hiện nay. Bài
viết không tránh khỏi những nhận định chủ quan và những thiếu sót, rất mong

nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp và quý vị giám khảo để tôi
hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày19 tháng 05 năm2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Bé

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo dục đạo đức cho HS THPT: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Tác giả Lê
Duy Hùng, đăng trên Tạp chí khoa học-ĐHSP TPHCM, 2013
[2]. Tài liệu tập huấn về công tác GVCN trong trường THCS, THPT của Vụ GD trung
học, chủ biên PGS.TS.Nguyễn Thanh Bình (quyển 2), Xb 2011
[3]. Phật giáo và vận dụng tư tưởng PG vào việc GD đạo đức, lối sống cho HS - SV Việt
Nam, PGS.TS Đặng Thanh Chương và ThS. Trần Đình Hùng (ĐHSP Huế), 2013
[4]. Phật giáo và thế tục, NXB. Từ Thư Thượng Hải, tr.118-122 (HT.Tinh Vân - Nguyễn
Phước Tâm dịch), 2008
[5]. Nguồn internet


/> />
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT:
GDĐĐHS : Giáo dục đạo đức học sinh

PG: Phật giáo
GVCN: Giáo viên chủ nhiệm
GVBM: Giáo viên bộ môn
BGH: Ban giám hiệu
HS: Học sinh
CMHS: Cha mẹ học sinh
THPT: Trung học phổ thông
SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm

22



×