Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp 12 chủ động tích cực và trình bày sáng tạo bài học pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.16 KB, 26 trang )

I. MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài
B. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng vấn đề
3. Các biện pháp tiến hành
3.1. Thay đổi quan điểm về giáo dục pháp luật cho học sinh theo hướng chuyển

đổi từ “dạy học pháp luật ” sang “giáo dục pháp luật ”.
3.2. Để học sinh là người tìm hiểu và trực tiếp trình bày sản phẩm của mình
trước lớp, giáo viên là người hướng dẫn .
4. Nguồn tư liệu và phương tiện dạy học:
5. Yêu cầu
6. Kết quả
Ảnh hưởng
Hạn chế
7. Kết luận
C. Kiến nghị và cam kết.

1


II. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên GCDC lớp 12
2. Tình huống pháp luật
3. Một số vụ án điển hình về án dân sự, hình sự… trong tỉnh và cả nước trong
những năm gần đây
4. Các tin, bài, ảnh sưu tập qua thông tin đại chúng…
5. Học hỏi , tham khảo qua bạn bè, đồng nghiệp, học sinh
6. Chương trình giáo dục kĩ năng sống cho thanh thiếu niên…


7. Phong trào quyên góp giúp bạn do nhà trường tổ chức
8. Giải pháp giáo dục học sinh vi phạm kỉ luật trong nhà trường (tổ giám thị
cung cấp)…

2


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lí do chọn đề tài
Những năm gần đây, tình trạng thanh thiếu niên phạm tội có chiều hướng gia
tăng, trong đó có nhiều đối tượng phạm tội khi đang ngồi trên ghế nhà trường.
Đáng phải cảnh báo là cùng với việc tăng về số vụ, thì tính chất phức tạp và mức
độ nghiêm trọng của đối tượng tội phạm này cũng gia tăng.
Thực tế này đã và đang đặt ra vấn đề cần tăng cường hơn nữa những biện
pháp mạnh để hạn chế, ngăn chặn tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội có nguy
cơ ảnh hưởng xấu môi trường học đường. Bên cạnh phần lớn học sinh mê say
học tập, phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, công dân có ích cho xã hội thì
vẫn còn một bộ phận thanh thiếu niên hiếu thắng, ngông cuồng nên lạc bước, trở
thành tội phạm. Đáng buồn là ngày càng nhiều học sinh phạm tội nghiêm trọng
và đặc biệt nghiêm trọng như “giết người”,“cướp tài sản”,“hiếp dâm”... Tình
trạng học sinh phạm tội ở nhiều địa phương có chiều hướng gia tăng do nhiều
nguyên nhân, nhưng trước hết phải kể đến sự buông lỏng trong quản lý giáo dục
của gia đình và nhà trường. Khi những bậc làm cha, làm mẹ nhận ra mình quá
thờ ơ trong việc chăm sóc, giáo dục con em mình thì hậu quả đau lòng cũng đã
xảy ra, trong khi con em họ còn quá nhỏ để gánh chịu những bi kịch ấy.
Với cương vị là một giáo viên dạy môn GDCD tôi thấy mình phải có trách
nhiệm dạy cho học sinh những kiến thực cơ bản nhất, thiết thực nhất, khẩn cấp
nhất khi các em đang “đi học” để có những kĩ năng trong cuộc sống vốn đầy rẫy
những cạm bẫy mà các em khó trách được.
Sự việc đau lòng sau đây là một dẫn chứng:

Trong đêm văn nghệ tại Trường THCS Hàm Chính ngày 26-3, do mâu thuẫn
nên Lê Thiện Phước (16 tuổi, học đến lớp 9 thì nghỉ, ngụ xã Hàm Chính) và
Phạm Hoài Duy (học sinh lớp 12C6 Trường THPT Hàm Thuận Bắc) đánh nhau.
Hồ Văn Hải (học sinh lớp 12C10) là bạn và đi cùng Duy cũng tham gia đánh
nhau với Lê Thiện Phước. Bất ngờ Phước rút dao trong người ra đâm Hải thiệt
mạng(3) .

3


Xu hướng những kẻ phạm tội ở tuổi vị thành niên ngày càng nhiều làm
dấy lên những lo lắng, quan ngại trong dư luận xã hội. Có thể nhận thấy, ngoài
những nhân tố như: hoàn cảnh, môi trường sống, phương pháp giáo dục của gia
đình, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng trên là những
khoảng trống chưa được khỏa lấp trong công tác giáo dục pháp luật cho học sinh
trong nhà trường THPT.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Cơ sở lí luận
1.1. Trong chương trình GDCD ở bậc học phổ thông, những kiến thức cơ
bản về pháp luật đã được đưa vào giảng dạy . Mặc dù vậy, do hạn chế về thời
lượng, cùng với đó là phương pháp truyền thụ của giáo viên chưa thực sự sinh
động, hấp dẫn , những kiến thức pháp luật cần thiết thì còn phổ biến chung
chung nên học sinh thường có suy nghĩ rằng lứa tuổi các em chưa phải chịu
trách nhiệm pháp lý hoặc có chăng thì chỉ là cảnh cáo. Chính những nhận thức,
hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, mơ hồ đã dẫn đến ý thức chấp hành pháp luật
chưa tốt, thậm chí là có những hành vi coi thường pháp luật. Chỉ đến khi bị các
cơ quan chức năng phát hiện, xử lý thì mọi sự đã muộn, những hậu quả đáng
tiếc đã xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác giáo dục pháp luật cho học sinh
ở bậc THPT vẫn chưa mang lại những kết quả như mong muốn. Nhiều kiến thức
pháp luật quan trọng, gần gũi với cuộc sống đã được đưa vào chương trình môn

Giáo dục công dân lớp 12. Đã có không ít học sinh phải bỏ dở chuyện học hành,
thậm chí bị xử lý trước pháp luật bởi những hành vi bột phát, nông nổi bắt
nguồn từ sự thiếu hiểu biết về kiến thức pháp luật, thiếu sự quan tâm giáo dục
từ gia đình và những tác động xấu từ xã hội. Do đó, giáo dục pháp luật cho học
sinh đang là điều rất cần thiết .Việc làm này nhất thiết phải có sự đồng thuận,
thống nhất từ gia đình, nhà trường đến cộng đồng nhằm xây dựng môi trường
xã hội lành mạnh, từ đó, ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển và hoàn thiện nhân
cách của mỗi học sinh.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì lứa tuổi vị thành niên nói
chung và lứa tuổi học sinh THPT nói riêng vẫn phải chịu trách nhiệm hành
4


chính, trách nhiệm hình sự. Do đó, việc trang bị những kiến thức, hiểu biết pháp
luật cho học sinh ở bậc học này vì thế là rất cần thiết.
1.2. Ban Giám hiệu ở các nhà trường vẫn coi việc dạy học môn GDCD như
bao môn học khác: chỉ hoàn thành tiết dạy theo thời khóa biểu, kiểm tra cho
điểm đạt yêu cầu là xong. Nhiều trường chưa phát huy hết sức mạnh của các tổ
chức trong và ngoài đơn vị. Sự phối hợp giữa nhà trường và cơ quan công an chỉ
ở phạm vi giải quyết vụ việc đã xẩy ra chứ chưa có các hoạt động, phối hợp giáo
dục, trao đổi thông tin thường xuyên giữa các bên... để tìm các giải pháp nhằm
giáo dục hiệu quả. Cá biệt còn có trường hợp học sinh vi phạm pháp luật đã bị
cơ quan công an xử lý nhưng không có thông báo đến các nhà trường, để có biện
pháp phối hợp giáo dục.
1.3. Nguyên nhân nào dẫn đến sự gia tăng này và làm thế nào để phòng
ngừa tội phạm ở người chưa thành niên gây ra?
* Nguyên nhân thứ nhất thuộc về chính người chưa thành niên:
Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi người chưa thành niên đang trong quá trình
phát triển, hoàn thiện về thể chất và tinh thần nên phần lớn, họ chưa tự làm chủ
được bản thân nên dễ bị lôi kéo, kích động tham gia vào những việc làm sai trái,

vi phạm pháp luật. Với đặc điểm tâm lý lứa tuổi ở giai đoạn này, khả năng phân
biệt và nhận thức đúng, sai, hợp lý và không hợp lý với lứa tuổi của người chưa
thành niên còn rất hạn chế, hơn nữa nhu cầu học theo, bắt chước theo những gì
các em thấy thông qua bạn bè và các phương tiện thông tin khiến cho hành vi và
nhận thức của thanh thiếu niên càng khó kiểm soát. Khi đó, nếu thiếu đi sự định
hướng, uốn nắn kịp thời từ gia đình và nhà trường thì nguy cơ phạm tội sẽ càng
trở nên rõ rệt. Đây có thể nói là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình
trạng vi phạm pháp luật nói chung, phạm tội cướp tài sản nói riêng của người
chưa thành niên.
* Nguyên nhân thưa hai xuất phát từ gia đình:
Trong những năm qua, vấn đề giáo dục con cái trong nhiều gia đình chưa thật
sự được chú trọng. Do tập trung thời gian cho việc lo cuộc sống, rất nhiều gia
đình gần như giao việc giáo dục con cái cho nhà trường. Một bộ phận gia đình
5


kinh tế khó khăn thì quan niệm chỉ cần học biết chữ, biết đếm, sau đó bỏ học đi
làm kinh tế. Hầu hết các em học sinh hư, học kém… đều rơi vào gia đình hoàn
cảnh khó khăn hoặc éo le như bố mẹ ly hôn, ly thân… Mối quan hệ giữa gia
đình và nhà trường còn lỏng lẻo dẫn đến con bỏ học, chơi bời hư hỏng mà bố mẹ
không biết, không quan tâm đến việc học tập của con cái. Thiếu sự kèm cặp,
giáo dục của gia đình cho nên các em quen với lối sống tự do, buông thả, dễ tiếp
thu những mặt trái, từ đó các em dễ đi vào con đường phạm tội. Mặt khác, một
số ít gia đình do chỉ có một con nên đã nuông chiều con quá mức, tạo cho trẻ lối
sống thích gì được nấy dẫn đến có những nhu cầu vượt quá khả năng của gia
đình và khi không đáp ứng được nhu cầu dẫn đến có những hành vi vi phạm
pháp luật.
* Nguyên nhân thưa ba xuất phát từ môi trường giáo dục ở nhà trường:
Nhà trường là một môi trường giáo dục quan trọng để giúp cho các em ở lứa tuổi
vị thành niên hình thành nhân cách, định hướng cho các em trong cuộc sống sau

này. Nếu không được giáo dục một cách toàn diện, lại sớm phải va chạm với
thực tế cuộc sống khó khăn, dễ dẫn các em vào con đường phạm tội. Mặt khác,
trong những năm vừa qua, nhà trường chỉ chú trọng đến công tác giảng dạy kiến
thức cơ bản về văn hóa, khoa học, kỹ thuật; việc giáo dục nhân cách cho các em
chưa thực sự được quan tâm. Trong mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường
vẫn còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong quản lý, giáo dục học sinh. Bên
cạnh đó, trong học đường còn có một số tiêu cực, chính những tiêu cực này đã
hình thành trong tâm hồn các em những nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội,
dẫn đến sự chán đời, lười học và bỏ học, từ đó nảy sinh tình trạng tụ tập, đàn
đúm thực hiện hành vi phạm pháp.
* Nguyên nhân thứ tư xuất phát từ môi trường xã hội:
Môi trường xã hội có tác động sâu sắc đến quá trình hình thành nhân cách của
mỗi cá nhân và không thể tách rời sự phát triển của cá nhân với xã hội. Trong
thời gian qua, xã hội đã có những biến động do tác động của kinh tế thị trường
kéo theo sự thay đổi của các mặt đời sống xã hội như: sự du nhập của văn hóa,
công nghệ từ môi trường vào một cách ồ ạt. Trong khi đó, một bộ phận dân cư
6


mà đa số là thanh thiếu niên không được trang bị những kiến thức, hiểu biết để
đề kháng với những thay đổi của đời sống xã hội đã bị tác động bởi các tiêu cực
xã hội, hình thành lối sống thực dụng, hưởng thụ. Sự quan tâm của xã hội, nhà
trường và gia đình đối với người chưa thành niên không đủ để trang bị cho họ
những hiểu biết, uốn nắn trước những sai trái, lâu dần hình thành động cơ phạm
tội.
*Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, văn hóa, đạo đức, lối sống trong
quần chúng nhân dân nhất là thanh thiếu niên chưa được coi trọng đúng mức,
còn thiếu cả về bề rộng và chiều sâu. Do vậy, việc nắm vững pháp luật và thực
hiện pháp luật còn hạn chế, nhiều người chưa nhận thức đầy đủ về tội phạm, tính
nguy hiểm của mình do không hiểu biết pháp luật. Một bộ phận không nhỏ đối

tượng là người chưa thành niên khi thực hiện hành vi mà không biết rằng đó là
hành vi phạm tội.
1.4.Với bản thân tôi thay vì lên lớp để tuyên truyền, thuyết trình bài học
cho học sinh như lâu nay thì tôi lại trao cho học sinh quyền chủ động trình bày
,thay giáo viên làm việc với lớp theo cách hiểu, làm việc của trò (tôi thử nghiệm
ở một lớp) . Tôi không hạn chế thời gian theo phân phối chương trình đã lập sẵn,
học sinh tự làm việc theo từng nhóm, từng phần của bài và sau đó các em là
người trình bày nội dung bài học đó. Kết quả thu được thật tuyệt vời, điểm bài
kiểm tra đã minh chứng cách học này đúng với lứa tuổi của các em .Từ đó nhân
rộng mô hình này với cả khối 12 tôi dạy , tiết học GDCD trở nên sôi nổi, học
sinh rất háo hức chuẩn bị,chờ đợi, đến buổi học để chúng muốn nói, hỏi, thảo
luận, tranh luận với cô với bạn tất cả những gì chúng cần . Lúc này tôi trờ thành
khán thính giả của trò để trò bộc bạch tâm tư , suy nghĩ , thắc mắc của chúng về
cuộc sống về bản thân. Chúng cón nói đùa tôi là “bác sĩ hoa súng” là “cô thanh
tâm” của chúng, thật hạnh phúc cho người giáo viên dạy môn GDCD như tôi.
2. Thực trạng vấn đề
Trong nhiều năm qua, công tác giáo dục pháp luật cho học sinh THPT đã
được ngành giáo dục rất coi trọng; các hình thức giáo dục, truyên truyền, phổ
7


biến được thực hiện đa dạng, phong phú bằng nhiều hình thức như đưa vào
chương trình dạy học chính khóa, ngoại khóa, giáo dục lồng ghép, tổ chức tọa
đàm, sân khấu hóa… đem lại những hiệu quả nhất định góp phần nâng cao nhận
thức của đa số học sinh về các quy định của pháp luật , về quyền và nghĩa vụ
của mỗi học sinh trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình trạng vi phạm pháp luật trong
học sinh có chiều hướng gia tăng cả về số vụ việc và tính chất nghiêm trọng,
hành vi phạm pháp của các em trở nên thường xuyên hơn, đa dạng hơn, tạo nên
những bức xúc trong dư luận và nhân dân..., nguyên nhân không chỉ là do thiểu

hiểu biết pháp luật, mà còn là sự bất chấp pháp luật, thậm chí “lách luật” để vi
phạm…Thực trạng đó đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới đòi hỏi những
người làm công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cần có những
thay đổi về quan điểm, cách làm; đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp
giáo dục cho phù hợp với những thay đổi nhanh chóng của xã hội và tâm sinh lý
học sinh. Đó là: chuyển mạnh quá trình trang bị kiến thức sang phát triển năng
lực và phẩm chất cho các em, đặc biệt chú trọng khâu giám sát diễn biến tâm lý,
biểu hiện thái độ, hành vi trong và ngoài nhà trường của các em; lấy sự tiến bộ
về đạo đức, lối sống làm tiêu chí hàng đầu trong đánh giá kết quả học tập của
học sinh, tránh tình trạng chỉ tập trung vào tuyên truyền, phổ biến mà coi nhẹ
hoạt động giáo dục, kiểm tra, kiểm soát... dẫn đến sự đánh giá kết quả học tập
không chính xác, khách quan...
Nội dung giáo dục pháp luật đang có sự “quá tải” khi có rất nhiều ngành luật
được tuyên truyền, giảng dạy trong nhà trường thông qua các hình thức như: tích
hợp, lồng ghép, chuyên đề, thêm tiết... mà thiếu đi sự lựa chọn nội dung trong
việc giáo dục pháp luật cho học sinh. Điều này dẫn tới sự lúng túng trong xây
dựng chương trình môn Giáo dục công dân.
Phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật cho học sinh còn nhiều hạn chế,
bất cập nên chưa tạo được những đột phá trong thay đổi nhận thức cho học sinh
mặc dù đã có những đổi mới bước đầu như: đa dạng hóa các hình thức tuyên
truyền, giáo dục, đổi mới kiểm tra đánh giá môn GDCD theo hình thức vừa bằng
8


cách cho điểm, vừa bằng cách đánh giá biểu hiện hành vi thông qua xếp loại
hạnh kiểm. Giáo viên môn GDCD chưa kiểm soát được hành vi của học sinh do
không có đủ khả năng và điều kiện thời gian thực hiện. Một giáo viên dạy môn
GDCD nếu không kiêm nhiệm các công tác khác sẽ phải dạy 17 tiết/1 tuần, như
vậy mà giáo viên chỉ có 45 phút tiếp cận thì làm sao họ có thể nắm bắt được
diễn biến tâm lý, biểu hiện hành vi của học sinh để đánh giá, xếp loại ghi vào

học bạ.
Hơn nữa, về phương pháp, đa số giáo viên hiện nay vẫn còn nặng về “dạy
học” tức là tuyên truyền, trình bày cặn kẽ, giúp học sinh tiếp thu, nắm vững về
pháp luật. Cách làm này chỉ đạt được mục tiêu nâng cao hiểu biết pháp luật
nhưng lại chưa giáo dục được ý thức, thái độ, hành vi, kỹ năng, kỹ xảo cho học
sinh dẫn đến thực trạng vi phạm pháp luật ở các em có chiều hướng gia tăng
ngay khi chúng ta đang đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
3. Các biện pháp tiến hành
3.1 . Thay đổi quan điểm về giáo dục pháp luật cho học sinh theo hướng
chuyển đổi từ “dạy học pháp luật ” sang “giáo dục pháp luật ”.
( chuyển từ tuyên truyền, trình bày cãn kẽ nội dung các ngành luật cho học sinh
sang giáo dục tri thức, tư tưởng, thái độ, hành vi, kỹ năng sống thông qua tổ
chức cách giáo dục mới) ... nhằm hình thành ý thức tự giác, chủ động trong đánh
giá hành vi của học sinh về bản thân và mọi người trên cơ sở sự định hướng,
kiểm tra, giám sát chặt chẽ của giáo viên và nhà trường, qua đó giảm thiếu hành
vi vi phạm pháp luật trong học sinh và tăng cường tính tự giác chấp hành pháp
luật ở các em ngày một cao hơn.
Khi dạy bài 2: Thực hiện pháp luật , tôi hỏi trò Đinh Đức Hiếu lớp 12b1 độ
tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi vi phạm pháp luật là bao nhiêu ?
thì em trả lời rằng “đủ 18 tuổi trở lên”. Hiểu như vậy là hết sức nhầm lẫn, các
em đang nhầm lẫn giữa người chưa thành niên và người thành niên (theo Điều
18 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là
người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”.)

9


Tại lớp 12b10 tôi cũng hỏi trò Nguyễn Minh Quân câu hỏi: độ tuổi phải chịu
trách nhiệm pháp lý cho hành vi vi phạm pháp luật hành chính là bao nhiêu ? thì
em cũng trả lời là “đủ 18 tuổi trở lên”- điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính

năm 2012 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm
hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt
vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính”.
Cũng câu hỏi : độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi vi phạm
pháp luật hình sự là bao nhiêu? Em có phải chịu trách nhiệm cho hành vi vi
phạm nếu em là người gây ra? Em Phạm Minh Hiếu 12b2 cũng trả lời là “đủ 18
tuổi trở lên”, em ấy chưa đủ 18 tuổi nên không sao hết. - Điều 12- Bộ Luật hình
sự quy định : “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm; Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”.)
3.2. Để học sinh là người tìm hiểu và trực tiếp trình bày sản phẩm của
mình trước lớp, giáo viên là người hướng dẫn .
Với thực trạng như vậy tôi đã trăn trở làm sao để tìm ra các dạy và học bài 2
nói riêng và toàn bộ phần pháp luật lớp 12 nói chung có hiệu quả nhất , học sinh
hiểu luật một cách cơ bản nhất, giáo viên dạy cũng nhàn nhất , để các em không
ngại khi làm quen với pháp luật, không chán khi học GDCD và quan trọng là để
trò biết hậu quả , trách nhiệm pháp lý khi bản thân vi phạm pháp luật để mà
tránh, mà điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp chuẩn mực đạo đức, pháp
luật. Vì thế tôi đã đưa ra giải pháp để học sinh là người tìm hiểu và trực tiếp
trình bày sản phẩm của mình trước lớp cô chỉ là người hướng dẫn cách thực hiện
và góp ý sau khi sản phẩm của các em được hoàn chỉnh theo tổ, nhóm của mình.
Sau một tuần tìm hiểu các em đã chứng minh cho tôi thấy tái năng diễn xuất,
lượng thông tin, kiến thức mà các em có đước không phải ít, không phải chúng
không biết mà chỉ là các tiếp cận vấn đề như thế nào thôi, và phải có thời gian để
trò học bài chuẩn bị bài chứ không phải là cứ học , học , học ngày , học đêm,
10


học thêm…toàn lí thuyết, sách vở mà không có thời gian cho trò nghỉ ngơi, tư

duy , thử nghiệm… Và đây là kết quả của các em sau một tuần tìm hiểu
Em Phạm Minh Hiếu 12b2 với câu hỏi : độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp
lý cho hành vi vi phạm pháp luật hình sự là bao nhiêu? Em có phải chịu trách
nhiệm cho hành vi vi phạm nếu em là người gây ra?
- trước đó em trả lời tôi rằng độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi
vi phạm pháp luật hình sự là “đủ 18 tuổi trở lên”, em ấy chưa đủ 18 tuổi nên
không phải chịu trách nhiệm gì hết
- sau 1 tuần tìm hiểu em đã bổ xung thêm: Tại khoản 1, 2 điều 74- Bộ luật hình
sự quy định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên như
sau: “Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà
điều luật quy định; Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội,
nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có
thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức
phạt tù mà điều luật quy định”.
Trò Nguyễn Minh Quân với câu hỏi: độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý
cho hành vi vi phạm pháp luật hành chính là bao nhiêu ?
- trước thì em đã trả lời là “đủ 18 tuổi trở lên”
- sau 1 tuần em đã có câu trả lời : Tại khoản 3, điều 134 Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 quy định : “Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi vi phạm hành chính thì không áp dụng hình thức phạt tiền; Trường hợp
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính bị phạt tiền thì mức
tiền phạt không quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên”. Và
còn nhiều phương án trả lời bổ xung cho phần tìm hiểu pháp luật của các em
được hoàn thiện đầy đủ.
11



õy l gi trỡnh by ca em Hiu cựng vi giỏo ỏn do em son.
BI 2 (tit 2)
THC HIN PHP LUT
Ngi trỡnh by- hc sinh: Phm Minh Hiu: 12b2

I Mục tiêu bài học.
1. Về kiến thức:

HS cần hiểu rõ các kiến thức sau:

- khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp
luật.
- thế nào là vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí, các loại vi
phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
2. Về kí năng:
- hs biết cách thực hiện pháp luật để phù hợp với lứa tuổi
3. Về thái độ:
- Tôn trọng pháp luật, ủng hộ những hành vi thực hiện đúng pl
và phê phán những hành vi trái quy định của pl
II. Tài liệu và phơng tiện
- Sgk GDCD lớp 12
- Bài tập tình huống 12
- Thông tin số liệu liên quan bài học
III. Bi hc (tit 2,3)
2. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
a. Vi phạm pháp luật : Vi phạm pháp luật có 3 dấu hiệu cơ
bản sau:
Dấu hiệu


Đặc điểm

1.Là hành vi trái pháp luật
+ Hành vi đó có thể là
hành động

- Làm những việc pl đã cấm. vd

+ Hành vi đó có thể là
12


không hành động

- Không làm những việc phải làm
theo qđ của pl. vd

2. Do ngời có năng lực - Ngời đã đạt độ tuổi quy
trách nhiệm pháp lí thực định , ngời đk đợc nhận thực và
hiện

hành vi của mình, ngời tự quyết
định cách c sử của mình .

3. Ngời vi phạm pháp luật - Ngời biết hành vi , thái độ của
phải có lỗi

mình là sai, trái pl có thể gây
hậu quả không tốt nhng vẫn cố ý
hoặc vô tình để xảy ra.


=>Vi phạm pháp luật
Là hành vi trái pháp luật có lỗi do ngời có năng lực trách nhiệm
pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ đợc pháp luật bảo vệ.
b. Trách nhiệm pháp lí
Tình huống sgk- 19
Câu hỏi 1: Hai bố con bạn A phải chịu trách nhiệm tr ai. Vậy
cảnh sát giao thông nhân danh ai ớc ai ?
Câu hỏi 2: Họ cha gây ra tai nạn, cha phảI bồi thờng cho và
căn cứ vào đâu để phạt tiền bố con bạn A? Việc phạt có ý
nghĩa gì ?
=>Trách nhiệm pháp lí: là nghĩa vụ mà các cá nhân hoặc tổ
chức phải gánh chịu hậu quả bất lợi từ hành vi vi phạm pháp luật
của mình.
- Nhằm:
+ Buộc các chủ thể vi phạm pháp luật chấm dứt hành vi trái
pháp luật.
+ Giáo dục, răn đe những ngời khác để họ tránh hoặc kiềm
chế những việc làm trái pháp luật, đồng thời giáo dục họ ý
thức tôn trọng pháp luật
13


c. Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
- Căn cứ vào thực tế, mức độ, tính chất của các hành vi vi
phạm để chia thành 4 loại vi phạm pl và t/n pháp lí tơng ứng
sau đây:
Các loại vi

Dấu hiệu


phạm

Trách nhiệm
pháp lí
- CD từ đủ 14-

ví dụ
- Tội cố ý

Hành vi nguy

dới 16 tuổi về

gây thơng

hiểm cho xh

tội phạm rất

tích , hiếp

bị coi là tội

nghiêm trọng

phạm

hoặc đặt biệt


Vi phạm hình

dâm,lây
truyền HIV

nghiêm trọng với

sự

hành vi cố ý
- CD đủ 16 t trở
lên phải chịu t/n
hình sự về mọi
tội phạm
(CD từ 14
->d18t
giáo dục là
Vi phạm pháp

Vi phạm hành
chính

chính
- CD từ đủ 14-

- Buôn bán

luật nhng mức dới 16 tuổi bị

hàng giả,


độ nguy hiểm xử phạt với tội cố

hàng kém

thấp hơn tội

ý v/p hc

phạm , xâm

- CD đủ 16 t trở

- Vi phạm luật

phạm các quy

lên phải chịu t/n

giao thông

tắc quản lí

về mọi hành vi

nhà nớc

do mình gây

Vi phạm pl


ra.
- CD từ 6t->dới

chất lợng

- Vi phạm
14


Vi phạm dân

xâm phạm tới

18t

hđlđ , hđ

sự

các qh tài sản,

Phải có ngời

mua bán , xác

nhân thân

chịu t/n


định danh
tính, bí mật

xâm phạm

Cán bộ, công

đời t
- Vi phạm

Vi phạm kỉ

các quan hệ

chức, viên

ngày, giờ

luật

lao động,

chức

công lao

công vụ nhà

động theo


nớc mà đc

quy định

luật lđ, luật

Gây rối nơi

hc bảo vệ

công sở

IV.Củng cố
Ông Bình đã xây dựng nhà trên đất công. Cơ quan có
thẩm quyền đã lập biên bản về hành vi vi phạm của ông và yêu
cầu ông tự dỡ bỏ, khôi phục lại nguyên trạng phần đất công mà
ông lấn chiếm trớc khi xây dựng. Sau thời gian quy định, ông
Bình không thực hiện nghĩa vụ của mình, cơ quan có thẩm
quyền đã áp dụng biện pháp cỡng chế là dỡ bỏ công trình trên
và phạt ông Bình phải đền bù chi phí dở bỏ này.
Câu hỏi:
1. Hành vi trên của cơ quan có thẩm quyền có phải là
hành vi truy cứu trách nhiệm pháp lí không ?
2. Nếu đó là việc truy cứu trách nhiệm pháp lí thì mục
đích của việc truy cứu trên là gì ?
3. Theo em, việc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền vừa dỡ
bỏ công trình của ông Bình, vừa bắt buộc phải bồi thờng chi
phí dỡ bỏ có quá mức không ?

15



Sau thnh cụng bi 2 Thc hin phỏp lut, tụi tip tc cho hc sinh cỏc lp
khỏc trin khai cỏc bi tip theo.
Em Nguyn Th Lan Anh lp 12 b6 ó trỡnh by rt thnh cụng bi 3: Cụng dõn
bỡnh ng trc phỏp lut. C lp hiu bi v rt tỏn thnh cỏch dy ca bn,
khụng khớ vui v, gi hc nh nhng m hiu qu.
V õy l gi trỡnh by ca em Lan Anh trc lp cựng vi giỏo ỏn do em son

Bài 3 (1 tiết)
Công dân bình đẳng trớc pháp luật
Ngi trỡnh by- hc sinh: Nguyn Th Lan Anh: 12b6
I/ Mục đích yêu cầu

1. Về kiến thức
+ Nêu đợc đợc thế nào là công dân đợc bình đẳng trớc pháp
luật về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý.
+ Biết đợc thế nào là bình đẳng trớc pháp luật.
16


+ Hiểu trách nhiệm của nhà nớc trong việc bảo đảm quyền
bình đẳng của công dân trớc pháp luật.
2. Về kĩ năng
+ Biết phân tích, đánh giá đúng viẹc thực hiện quyền bình
đẳng của công dân trong thực tế
+ Lấy đợc ví dụ chứng minh mọi công dân đều bình đẳng
trong việc hởng quyền , nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý theo
quy định của pháp luật.
3. Về thái độ

+ Có niềm tin đối với pháp luật , đối với nhà nớc trong việc bảo
đảm cho công dân bình đẳng trớc pháp luật.
II/ Tài liệu, phơng tiện và phơng pháp

+ SGK GDCD lp 12
+ Tài liệu tham khảo
+ máy chiếu và các phơng tiện khác.
+ Đàm thoại, giảng giải, thảo luận lớp, nhóm...
III. BI HC.
1. Khái niệm bình đẳng, quyền bình đẳng, bình
đẳng trớc pháp luật
a. Khái niệm bình đng
- Là việc đối xử nh nhau về các mặt ct, kt, vhko phân biệt
giới tính, dân tộc, tôn giáo, thành phần và địa vị xh.
Bình đẳng luôn // quyền lợi, nếu trong xh còn duy trì shtn
và đặc quyền đặc lợi thì ko có bđ thực sự
b. Quyền bình đẳng
- Là quyền ngang nhau, nh nhau /./ các chủ thể của pl (kể cả pl
quốc gia và pháp luật quốc tế)
Trong qhqt nguyên tắc các quốc gia là bình đẳng về chủ
quyền
Vd: Bản tuyên ngôn nhân quyền của CM Pháp 1789 nêu rõ
17


“ngêi ta sinh ra tù do vµ b×nh ®¼ng vỊ qun lỵi vµ ph¶i lu«n
lu«n ®ỵc tù do vµ b×nh ®¼ng vỊ qun lỵi
Tuyªn ng«n ®éc lËp 1776 cđa Mü K§
“ TÊt c¶ mäi ngêi sinh ra cã qun b×nh ®¼ng. T¹o ho¸ cho
hä nh÷ng qun kh«ng ai cã thĨ x©m ph¹m ®ỵc, trong nh÷ng

qun Êy , cã qun ®c sèng, qun tù do vµ qun mu cÇu
h¹nh phóc ”
c. B×nh ®¼ng tríc ph¸p lt
- lµ mäi c«ng d©n, nam, n÷, thc c¸c d©n téc, t«n gi¸o, thµnh
phÇn ®Þa vÞ x· héi kh¸c nhau ®Ịu kh«ng bÞ ph©n biƯt ®èi xư
trong viƯc hëng qun, thùc hiƯn nghÜa vơ vµ chÞu tr¸ch
nhiƯm ph¸p lý theo quy ®Þnh cđa ph¸p lt.
®©y lµ mét trong nh÷ng nguyªn t¾c c¬ b¶n cđa nỊn d©n
chđ.
Vd:§iỊu 52 Hp 1992 K®:
“ Mäi c«ng d©n ®Ịu b×nh ®¼ng tríc ph¸p lt ”
Theo quy đònh của pháp luật Việt Nam, mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật, phụ nữ bình đẳng với
nam giới về mọi phương diện, các dân tộc sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam đều bình đẳng với nhau, các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế thò trường đònh
hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam đều bình đẳng .
2. C«ng d©n b×nh ®¼ng vỊ qun vµ nghÜa vơ
- Lµ qun ngang nhau, nh nhau /./ c¸c chđ thĨ cđa pl (kĨ c¶ pl
qc gia vµ ph¸p lt qc tÕ)
Trong qhqt nguyªn t¾c c¸c qc gia lµ b×nh ®¼ng vỊ chđ
qun
18


§iỊu 54 Hp 1992 K®:
“C«ng d©n, ko ph©n biƯt dt, nam, n÷, thµnh phÇn xh, tÝn ngìng… ®đ 18 ti trë lªn ®Ịu cã qun bÇu cư, ®đ 21 ti trë
lªn cã qun øng cư v¶o qc héi, h®nd theo q® cđa pl ”
Tuy nhiªn ko ph¶i cø cd nµo ®đ 21 ti ®Ịu cã qun øng cư
mµ ph¶i ®¶m b¶o c¸c ®k cÇn thiÕt nh….

- Cã nghÜa lµ:
- Mét lµ: Mäi c«ng d©n ®Ịu ®ỵc hëng qun vµ ph¶i thùc hiƯn
nghÜa vơ cđa m×nh
- Hai lµ: Qun vµ nghÜa vơ cđa c«ng d©n kh«ng bÞ ph©n biƯt
bëi d©n téc, giíi tÝnh, t«n gi¸o giµu nghÌo, yhµnh phÇn ®Þa vÞ
x· héi.
=> Công dân bình đẳng về quyền và nghóa vụ có
nghóa là bình đẳng về hưởng quyền và làm nghóa vụ
trước Nhà nước và xã hội theo quy đònh của pháp
luật . Quyền của công dân không tách rời nghóa vụ
của công dân .
3. C«ng d©n b×nh ®¼ng vỊ tr¸ch nhiƯm ph¸p lÝ
tình hng:
Một nhóm thanh niên rủ nhau đua ô tô với lí do nhà
hai bạn trong nhóm mới mua ô tô. Bạn A có ý kiến
không đồng ý vì cho rằng các bạn chưa có Giấy phép
lái xe ô tô, đua xe nguy hiểm và dễ gây tai nạn; bạn B
cho rằng bạn A lo xa vì đã có bố bạn B làm trưởng
công an quận, bố bạn C làm thứ trưởng của một bộ.
Nếu tình huống xấu nhất xảy ra đã có phụ huynh bạn
B và bạn C “lo” hết. Cả nhóm nhất trí với B.
=> Bình đẳng về trách nhiệm pháp lí là bất kì công
dân nào vi phạm pháp luật đều phải chòu trách
19


nhiệm về hành vi vi phạm của mính và bò xử lí theo quy
đònh của pháp luật .
Cã nghÜa lµ:
Công dân dù ở đòa vò nào, làm nghề gì khi vppl đều

phải chòu t/npl (trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự,
kỉ luật).
Khi công dân vppl với tính chất và mức độ như nhau
đều phải chòu t/nplù như nhau , không phân biệt đối
xử.
4.Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo
đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp
luật .
- Quyền và nghóa vụ của công dân được Nhà nước
quy đònh trong Hiến pháp và luật.
- Nhà nước và xã hội có trách nhiệm cùng tạo ra
các điều kiện vật chất, tinh thần để bảo đảm cho
công dân có khả năng thực hiện được quyền và
nghóa vụ phù hợp đất nước.
- Xư lÝ nghiªm minh nh÷ng hµnh vi vi ph¹m qun vµ lỵi Ých
cđa c«ng d©n cđa x· héi
- Nhà nước lu«n ®ỉi míi hồn thiện hệ thống pháp luật cho phï hỵp
từng giai đoạn phát triển của đất nước.
IV. Củng cố:
1.

Bạn hiểu thế

nào là công dân bình

đẳng về

quyền, nghóa vụ và trách nhiệm pháp lí ? Cho ví dụ?
2.


Ý nghóa của việc Nhà nước bảo đảm cho công

dân bình đẳng về quyền, nghóa vụ và trách nhiệm
pháp lí?
3. Bạn hãy lựa chọn phương án trả lời đúng trong các
câu sau đây.
20


Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lí là:
a) Công dân ở bất kì độ tuổi nào vi phạm pháp luật
đều bò xử lí như nhau.
b) Công dân nào vi phạm quy đònh của cơ quan, đơn vò,
đều phải chòu trách nhiệm kỉ luật.
c) Công dân nào vi phạm pháp luật cũng bò xử lí theo
quy đònh của pháp luật.
d) Công dân nào do thiếu hiểu biết về pháp luật mà
vi phạm pháp luật thì không phải chòu trách nhiệm
pháp lí.
( Phương án đúng: c )
Nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh lớp 12 được đưa vào với nhiều ngành
luật quan trọng như: Hiến pháp, Luật Hình sự, Luật Dân sự, Hơn nhân gia
đình ... mặc dù chương trình rất nặng (bên cạnh nội dung trọng tâm của các
ngành luật còn đề cập đến các khái niệm, kết cấu của một ngành luật, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức...) song, cũng thể hiện tính hấp dẫn nhất định.
Học sinh rất thích học vì được tiếp cận một cách có hệ thống các chế định luật,
các quy phạm pháp luật gần gũi với cuộc sống của bản thân như: điều kiện kết
hơn, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình (Luật hơn nhân và gia đình),
khái niệm tội phạm, các hình phạt (Luật hình sự)...
Trong chương trình hiện nay, mặc dù đã có sự tinh gọn hơn, học sinh được

tiếp cận pháp luật một cách khái qt hơn..., song lại thiếu thực tế học sinh chỉ
biết có các quy định như vậy mà khơng biết nó được quy định ở luật nào. Đây là
điều cần tránh vì dạy luật khơng những chỉ cho học sinh biết các quy định của
pháp luật mà phải nêu rõ cho các em những quy định đó được ghi ở đâu để có
thể tự tìm hiểu pháp luật. Đồng thời đẩy mạnh cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao kỹ năng, nghiệp vụ về giải đáp, tư vấn, thiết kế, tổ chức các hoạt động dạy
học, cho đội ngũ giáo viên GDCD, trách tình trạng giáo viên bộ mơn có rất ít
thời gian tiếp cận, tìm hiểu, nắm bắt tâm tâm lý, hành động của học sinh.

21


Đa dạng hóa hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật trong các nhà
trường hiện nay thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp , giờ chào cờ , sinh hoạt
đoàn, hội thi, hội diễn, tuyên truyền, nói chuyện pháp luật và đặc biệt là thông
qua hoạt động kỷ luật tích cực học sinh. Thường xuyên coi trọng việc đưa các
nội dung giáo dục pháp luật vào tư vấn, giáo dục cho học sinh, công tác giáo dục
đạo đức, pháp luật, giáo dục ý thức, thái độ, hành vi và các kỹ năng sống cho
học sinh phải được “mềm hóa”, “tích cực hóa” bằng việc tổ chức các hoạt động
để học sinh chủ động học tập, tìm hiểu và tự hoàn thiện phẩm chất của mình.
Giáo viên GDCD, Đoàn thanh niên, công an địa phương và giáo viên chủ nhiệm
phải thường xuyên phối hợp, trao đổi thông tin về đạo đức, lối sống và ý thức
chấp hành pháp luật trong học sinh, kịp thời biểu dương “người tốt việc tốt” và
tìm biện pháp giáo đối với những học sinh có biểu hiện suy thoái, vi phạm pháp
luật .
Để nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật ở bậc học trung học phổ thông trong
giai đoạn hiện nay, đòi hỏi chúng ta cần có quan điểm toàn diện, tạo nên những
bước đột phá mới trong đổi mới trong đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên dạy môn GDCD, đổi mới mạnh mẽ cấu trúc
chương trình, nội dung, phương pháp, phương thức kiểm tra, đánh giá…

4. Nguồn tư liệu và phương tiện dạy học:
- Sgk GCDC lớp 12
- Tình huống
- Các tin, bài, ảnh sưu tập qua thông tin đại chúng…
- Máy tính , máy chiếu, giấy A4, bút dạ…
5. Yêu cầu:
- Các nguồn tư liệu đưa ra phải chính xác, nội dung rõ ràng,có tính giáo dục
- Thông qua các bài học về pháp luật các câu vụ án ở lứa tuổi vị thành niên, học
sinh, các em biết được các vấn đề đã đề cấp từ đó định hướng cho bản thân về
quan niệm , lối sống sao cho không bị lệch so với truyền thống của dân tộc, đạo
đức của con người và pháp luật Việt Nam.
6. Kết quả:
22


- Học sinh đạt điểm giỏi: 35%
- Học sinh đạt điểm khá 64%
- Học sinh đạt điểm trung bình 1%
- Học sinh yếu ,kém 0%.
Với kết quả đạt được cô trò chúng tôi bất ngờ, bản thân tôi là giáo viên hướng
dẫn không sao tin được mình đã trở thành nơi tin cậy để các em trút bầu tâm sự
khi bản thân em cũng đã từng có ý định tiêu cực đối với bản thân , gia đình, từng
nuôi ý định trả thù cá nhân ,chống lại thấy cô giáo. Nhiều học sinh đã khóc khi
xem những thước phim , và sau những phân tích của cô cùng các bạn của mình
đã dần hình thành thế giới quan , phương pháp luận khoa học , định hướng đúng
cho bản thân trên con đường dài mà các em còn phải đi tiếp sau khi tốt nghiệp
THPT.
Ảnh hưởng:
Trường THPT Đào Duy Từ nằm ngay trung tâm thành phố, 98% học sinh là
người thành phố nên suy nghĩ của các em về các vấn đề kinh tế- văn hóa- xã hội

rất nhạy bén nhưng pháp luật thì lại dừng ở mức độ “cũng có nghe nói” chứ thực
sự là chưa biết lắm, chưa hiểu hết . Nếu giáo viên hướng dẫn mà không khóe
léo, cẩn trọng thì rất dễ có tác dụng ngược.
Với kết quả đạt được tôi hoàn toàn yên tâm khi sử dụng phương pháp mới
này và vững tin bước vào giờ dạy , học sinh thì hào hứng chờ đợi giờ GDCD sau
các giờ học toán,lí, hóa… Như vậy “pháp luật” không còn là môn học khô cứng
như các em nghĩ nữa mà trở thành giờ “giải đáp thắc mắc, tư vấn tâm lí, pháp
luật ” cho công dân “nhỏ tuổi”.
Hạn chế:
- Phương pháp này không thể áp dụng cho tất cả chương trình GDCD ba lớp mà
tôi xử dụng chủ yếu cho chương trình GDCD lớp 12- công dân với pháp luât.
- Vẫn có những giờ học không thể chuyển tải hết được nội dung mà sgk đề ra
- Đôi khi còn đụng chạm đế những những người có tư tưởng truyền thống cổ hủ,
tham nhũng, tiêu cực

23


- Các em là đối tượng dễ tổn thương, dễ hiểu nhầm, dễ bị lợi dụng, ngộ nhận
nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nạn bạo lực, ấu dâm đang là đề tài nóng
- Bên cạnh đó thì chính lứa tuồi này cũng lại là thủ phạm gây ra không ít các vụ
án hình sự, dân sự trên cả nước trong mấy năm gần đây
7. Kết luận
Khi dạy pháp luật cho học sinh tôi sử dụng các câu chuyện, clip có thật để minh
họa. phân tích câu chuyện cùng học sinh để tìm ra , ghi nhớ nội dung chính của
bài rất hiệu quả .
Đối với học sinh rất hào hứng, hưởng ứng nhiệt tình và xem đây như một giờ
nói chuyện, tư vấn tâm lí …
Đội với giáo viên thì sự thành công của giờ học càng thôi thúc tôi tìm tòi
phương pháp , mỗi ngày đến trường là một ngày vui

Điều làm tôi vui nữa là đồng nghiệp dạy một số môn xã hội cũng đang nghiên
cứu phương pháp day học của tôi để áp dụng vào môn dạy.
Lãnh đạo nhà trường ủng hội tôi trong cách cải tiến phương pháp , đã góp phần
lớn vào quá trình thay đổi thái độ của học sinh về môn học xã hội nói chung và
môn GDCD nó riêng, làm thay đổi tỉ lệ hạnh kiểm của học sinh so với năm học
trước, giảm đi rõ rệt hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật (nhất là luật giao
thông), không còn học sinh đánh nhau trong và ngoài nhà trường, gần như
không còn học sinh đi học muôn, trốn học , bỏ học vô lí do.
Năm nay là năm đầu tiên môn GDCD được Bộ GD & ĐT đưa vào chương trình
thi THPTQG nhưng các trò rất tự tin vào khả năng nhận thức của mình cho bài
tập pháp luật khi các em đã hoàn toàn làm chủ trong tất cả giờ học thực nghiệm
tại lớp. Tôi cũng có niềm tin rất lớn vào các trò của mình.
C. KIẾN NGHỊ
Trên thực tế việc nghiên cứu và ứng dụng phương pháp này chỉ trong phạm
vi hẹp (lớp 12) ở những lớp tôi dạy . Vì thế chưa thể đánh giá chính xác những
ưu nhược của phương pháp này. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành từ các
đồng nghiệp để sáng kiến dạy học của tôi được hoàn thiện hơn.
24


Thanh Hóa 20 /5 /2017

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan SKKN này do tôi
làm, không sao chép của người khác.

Lê Thị Hằng.

SỞ GD & ĐT THANH HÓA

TRƯỜNG THPT ĐÀO DUY TỪ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI

25


×