Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUAN HỆ LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.47 KB, 10 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUAN HỆ LAO ĐỘNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN
1- Một số khái niệm cơ bản
1.1 Quản lý nhà nước
Là điều hành của bộ máy nhà nước, hoạt động của các tổ chức nhà
nước trên các phương diện luật pháp, hành pháp và tư pháp. Hay có thể
hiểu là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân lao động
làm chủ ”
1.2.Quan hệ lao động
Là những mối quan hệ cá nhân và tập thể giữa những người lao động
và những người sử dụng lao động tại nơi làm việc và nảy sinh từ công
việc, cũng như những mối quan hệ giữa các đại diện của những người
lao động và người sử dụng lao động ở cấp ngành, cấp quốc gia, và sự
tương tác của những chủ thể này với nhà nước.
1.3.Quản lý nhà nước về lao động
Là một trong những lĩnh vực quản lý của Nhà nước thông qua các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, căn cứ vào nội dung quản lý, sử dụng các
biện pháp quản lý nhằm tác động vào đối tượng quản lý, bảo đảm và
thúc đẩy quan hệ lao động, thị trường lao động phát triển theo những
định hướng mà Nhà nước đã đặt ra.Những mối quan hệ như thế xoay
quanh các khía cạnh về luật pháp, kinh tế, xã hội học và tâm lý học, bao
gồm cả những vấn đề như: tuyển dụng, thuê mướn, sắp xếp công việc,
đào tạo, kỷ luật, thăng chức, buộc thôi việc, kết thúc hợp đồng, làm
ngoài giờ, tiền thưởng, phân chia lợi nhuận, giáo dục, y tế, an toàn, giải
trí, chỗ ở, giờ làm việc, nghỉ ngơi, nghỉ phép và các phúc lợi cho người
thất nghiệp, ốm đau, tai nạn, tuổi cao và tàn tật.


2. Nội dung của quản lý nhà nước về quam hệ lao động bao gồm:











Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về lao
động;
Theo dõi, thống kê, cung cấp thông tin về cung cầu và sự biến
động cung cầu lao động; quyết định chính sách, quy hoạch, kế
hoạch về nguồn nhân lực, dạy nghề, phát triển kỹ năng nghề, xây
dựng khung trình độ nghề quốc gia, phân bố và sử dụng lao động
toàn xã hội. Quy định danh mục những nghề chỉ được sử dụng lao
động đã qua đào tạo nghề hoặc có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc
gia;
Tổ chức và tiến hành nghiên cứu khoa học về lao động, thống kê,
thông tin về lao động và thị trường lao động, về mức sống, thu
nhập của người lao động;
Xây dựng các cơ chế, thiết chế hỗ trợ phát triển quan hệ lao động
hài hòa, ‘ổn định và tiến bộ;
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về lao động; giải quyết tranh chấp lao động theo quy
định của pháp luật;
Hợp tác quốc tế về lao động”.

CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ QUAN HỆ LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY
2.1 Về ban hành chính sách và pháp luật
Ban hành chính sách và pháp luật trong qhlđ:
Điều 7 bộ luật lao động: Quan hệ lao động


1. Quan hệ lao động giữa người lao động hoặc tập thể lao động với
người sử dụng lao động được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thoả
thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng
quyền và lợi ích hợp pháp của nhau.
2. Công đoàn, tổ chức đại diện người sử dụng lao động tham gia cùng
với cơ quan nhà nước hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định
và tiến bộ; giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật về lao
động; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử
dụng lao động.
Trong Bộ luật Lao động (BLLĐ), quan hệ lao động được quy định gồm
hai loại: Quan hệ ba bên (Nhà nước, người lao động và người sử dụng
lao động) và quan hệ hai bên (người lao động và người sử dụng lao
động)
-

Những quy định về quyền và trách nhiệm của Nhà nước:
• Nhà nước (trong quan hệ ba bên) không đứng “bên trong” để
can thiệp quá sâu vào quá trình sản xuất – kinh doanh và quá
trình thỏa thuận để đi đến tổ chức và sử dụng lao động của
doanh nghiệp, nhưng Nhà nước với tư cách là người đứng “bên
trên” có vai trò định hướng, có trách nhiệm hỗ trợ cho quan hệ
hai bên và có nhiệm vụ thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật lao
động.
• (Điều 10 và Điều 11 BLLĐ đã quy định) : Nhà nước thống nhất

quản lý nguồn nhân lực và quản lý lao động bằng pháp luật và
có chính sách để phát triển, phân bố nguồn nhân lực, phát triển
đa dạng các hình thức sử dụng lao động và giới thiệu việc làm.
• Nhà nước hướng dẫn người lao động và người sử dụng lao động
xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa và ổn định, cùng nhau
hợp tác vì sự phát triển của doanh nghiệp.
• Nhà nước khuyến khích việc quản lý lao động dân chủ, công
bằng, văn minh trong doanh nghiệp…


-

-

Những quy định về quyền và trách nhiệm của người sử dụng lao
động



Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí,
điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh; có quyền
khen thưởng và xử lý các vi phạm kỷ luật lao động theo quy định
của pháp luật lao động;



Người sử dụng lao động có quyền cử đại diện để thương lượng, ký
kết thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp hoặc thỏa ước
lao động tập thể của ngành; có trách nhiệm cộng tác với công
đoàn bàn bạc các vấn đề về quan hệ lao động, cải thiện đời sống

vật chất và tinh thần của người lao động.



Người sử dụng lao động có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng lao động,
thỏa ước lao động tập thể và những thỏa thuận khác với người lao
động, tôn trọng danh dự, nhân phẩm và đối xử đúng đắn với người
lao động.

Những quy định về quyền và trách nhiệm của người lao động


Người lao động được trả lương trên cơ sở thỏa thuận với người
sử dụng lao động nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu do
Nhà nước quy định và theo năng suất, chất lượng, hiệu quả công
việc; được bảo hộ lao động, làm việc trong những điều kiện bảo
đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ,
nghỉ hàng năm có lương và được bảo hiểm xã hội theo quy định
của pháp luật. Nhà nước quy định chế độ lao động và chính sách
xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ và các loại lao động có đặc
điểm riêng.



Người lao động có quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công
đoàn theo Luật Công đoàn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình; được hưởng phúc lợi tập thể, tham gia quản lý doanh


nghiệp theo nội quy của doanh nghiệp và các quy định của pháp

luật.


Người lao động có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng lao động, thỏa
ước lao động tập thể, chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao
động và tuân theo sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao
động.



Người lao động có quyền đình công theo quy định của pháp
luật.

 So với yêu cầu thực tiễn, trong bối cảnh các quan hệ lao động có sự
thay đổi về chất, hệ thống pháp luật lao động không thể tránh khỏi
những hạn chế cần khắc phục. Nhìn một cách tổng quát, về hình thức hệ
thống pháp luật lao động tuy đã có những văn bản pháp luật có hiệu lực
cao nhưng không đủ cụ thể, chi tiết để có thể áp dụng chúng một cách
trực tiếp, độc lập. Hệ thống văn bản hướng dẫn Bộ luật Lao động còn
khá cồng kềnh, do nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau ban hành nên
không tránh khỏi sự mâu thuẫn, trùng chéo, làm giảm tính hiệu lực của
các văn bản luật, dẫn đến hệ thống pháp luật này khó tra cứu và thực
hiện một cách đồng bộ.
Hệ thống pháp luật lao động ở nước ta đã có nhiều thay đổi và từng
bước được hoàn thiện
Trong khi nhiều nước phát triển điều chỉnh quan hệ lao động theo
hướng tạo ra một thị trường lao động năng động, thông qua đó phân
công lao động hợp lý hơn và sử dụng nguồn lực có hiệu quả thì pháp luật
lao động Việt Nam vẫn có nhiều qui định để bảo hộ việc làm dài hạn cho
người lao động.



Trong quá trình thực thi còn khá nhiều qui định chưa rõ ràng, gây những
tranh chấp không đáng có giữa các bên hoặc tạo ra sự không thống nhất
trong quá trình điều chỉnh và thực hiện pháp luật.
Hệ thống luật lao động còn thiếu một số nội dung cần thiết để điều
chỉnh QHLĐ theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường như qui định về
hợp đồng lao động vô hiệu, chưa có qui định rõ về cơ chế ba bên, về
TƯLĐTT ngành..
Đó là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến nhiều nhận định, đánh
giá chi phí sa thải lao động ở Việt Nam thuộc hàng cao nhất so với các
nước trên thế giới.
=> Điều đó có thể làm ngần ngại các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
làm chậm quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, phản tác dụng bảo
vệ người lao động nên không đáp ứng được mong muốn của các nhà làm
luật.
2.2 Về cơ quan quản lý nhà nước
Theo qui định của pháp luật lao động, quản lý Nhà nước về lao động có
thể khái quát thành 3 nội dung cơ bản sau:
- Các hoạt động nghiên cứu, ban hành văn bản pháp luật, chính sách về
lao động. Đây là hoạt động đóng vai trò quan trọng, có tính chất nền
tảng thể hiện quyền lực Nhà nước về lao động, bởi chỉ khi ban hành
được hệ thống các văn bản phù hợp và khả thi thì mới đảm bảo việc thực
hiện tốt pháp luật lao động trong thực tế.
- Tổ chức, thực hiện chính sách, pháp luật về lao động. Nội dung này
bao gồm nhiều hoạt động, trong đó việc thông tin, tuyên truyền pháp luật
lao động là quan trọng nhất. Ngoài ra, còn có nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học về lao động, thống kê thông tin lao động, thị trường lao động, mở
rộng hợp tác quốc tế về lao động.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thi hành chính sách, pháp luật về lao

động nhằm đảm bảo quyền lực Nhà nước trong việc thực thi pháp luật


lao động và tăng cường pháp chế. Thông qua đó sẽ phát hiện các sai
phạm, kịp thời xử lý theo đúng pháp luật, hạn chế tranh chấp lao động
phát sinh trong thực tiễn.
Trong thực tế, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động
còn khá nhiều vấn đề cần phải bàn đến, trong đó nổi bật lên ba vấn đề:
Thứ nhất, hiện nay vẫn chưa có văn bản chính thức nào qui định bộ,
ngành nào đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước về quan hệ lao động.
Mặc dù, khi qui định về chức năng và nhiệm vụ của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã qui định một số điểm song không cụ thể nên
chức năng quản lý Nhà nước về QHLĐ hiện nay còn thiếu khá nhiều,
nội dung quản lý thì khá tản mạn, không thành hệ thống, thậm chí bị
nhầm lẫn giữa quản lý pháp luật về lao động và QHLĐ. Trong khi lại có
những chức năng được giao không đúng với vai trò của Nhà nước trong
quan hệ lao động của kinh tế thị trường, nhất là những vấn đề liên quan
đến tiền lương.
Thứ hai, đã có qui định về các thiết chế và cơ chế cho một hệ thống
QHLĐ nhưng vì nhiều nguyên nhân, bao gồm cả những nguyên nhân về
năng lực và nhận thức, những thiết chế và cơ chế này vẫn chưa được
thực hiện và thậm chí không hiệu quả trong thực tế. Ví dụ như: chế tài
xử phạt vi phạm trong lĩnh vực lao động chưa đủ răn đe, chưa bao quát
hết các hành vi vi phạm. Thiếu các thiết chế và dịch vụ hỗ trợ để thực
hiện những chức năng cần thiết trong QHLĐ như thương lượng, trung
gian, hòa giải.
Thứ ba, mặc dù mặc dù Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chịu
trách nhiệm chính về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực lao động và là
một trong ba bên của QHLĐ nhưng trên thực tế mối quan hệ này lại
được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật như: Dân sự, Doanh nghiệp, Đầu
tư, Hành chính... thuộc chức năng quản lý của nhiều bộ, ngành, cơ quan

khác. Do đó, để thực hiện quản lý Nhà nước có hiệu quả, đòi hỏi phải có
sự phối hợp liên ngành, đồng bộ và thống nhất.
2.3 Về công tác thanh tra, kiểm tra giám sát


a.

Về công tác tổ chức, xây dựng lực lượng

Đối với công tác thanh tra và có ý nghĩa quyết định, chi phối toàn
bộ hoạt động thanh tra. Sau khi Pháp lệnh được thông qua, việc kiện
toàn, tổ chức, xây dựng hệ thống Thanh tra vững mạnh là nhiệm vụ
được đặt lên hàng đầu, dưới sự chỉ đạo của Tổng Thanh tra nhà nước,
ngành Thanh tra đã tiến hành nhiều biện pháp để triển khai thực hiện.
- Đối với Thanh tra các bộ, ngành trung ương Hầu hết các bộ, ngành
đều đã thành lập tổ chức Thanh tra, đầu tư trang thiết bị, bố trí cán bộ có
khả năng đảm đương nhiệm vụ này.
- Đối với Thanh tra các địa phương Thanh tra các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương về mặt tổ chức tương đối hoàn chỉnh. Song, về chất
lượng cán bộ chưa thật sự đáp ứng yêu cầu. Trong hoạt động còn nhiều
hạn chế, nhất là việc triển khai những cuộc thanh tra tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trong việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối
với thanh tra cấp dưới chưa thực hiện một cách đầy đủ.
b. Xây dựng chương trình, kế hoạch, hướng dẫn chỉ đạo công tác thanh
tra
. Chú trọng xem xét, giải quyết các điểm nóng, những vụ việc phát sinh
tại cơ sở. Do có định hướng đúng, nhiều cuộc thanh tra đã được tiến
hành tốt, thu được nhiều kết quả nên được các cấp, các ngành đánh giá
cao như các cuộc thanh tra về dự trữ quốc gia, tài chính, ngân hàng,
năng lượng, bảo hiểm, thực hiện chương trình, dự án về đầu tư phát triển

nông thôn…
Có các biện pháp hữu hiệu khắc phục, ngăn chặn những vụ việc diễn ra
với phạm vi và quy mô rộng liên quan đến chính sách, chủ trương của
Nhà nước.
Trong các công cuộc thanh tra diện rộng, Thanh tra nhà nước thường có
các hướng dẫn chỉ đạo thường xuyên, tổ chức các đợt tập huấn, thống
nhất phương pháp chỉ đạo, điều hành, biện pháp xử lý đều bảo đảm nhất
quán trong hoạt động thanh tra của các tổ chức Thanh tra nhà nước.


. Hàng năm, Thanh tra nhà nước tổ chức nhiều hội nghị tổng kết đánh
giá, kiểm điểm công tác thanh tra trong ngành, đồng thời xây dựng
phương hướng, kế hoạch thanh tra trong năm tới.
c. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra, nghiên cứu khoa học
và xây dựng nghiệp về vụ thanh tra
Hàng năm, Thanh tra nhà nước tập trung mở các lớp bồi dưỡng cho cán
bộ mới vào ngành, đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ với bộ, ngành,
các tỉnh, thành phố mở các lớp bồi duỡng, đào tạo cho cán bộ, Thanh tra
viên, cán bộ quản lý của bộ, ngành, địa phương.
Về công tác nghiên cứu khoa học: Những năm gần đây, công tác nghiên
cứu khoa học được quan tâm nhất định. Từ năm 1992, Trung tâm
Nghiên cứu khoa học - Thông tin Thanh tra được thành lập, có nhiệm vụ
giúp Tổng Thanh tra nhà nước tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu
khoa học. Công tác nghiên cứu tập trung giải quyết những vấn đề có tính
chất lý luận cơ bản về công tác thanh tra, lý luận về nghiệp vụ thanh tra,
những vấn đề đặt ra trong công tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
chống tham nhũng, quản lý nhà nước về công tác thanh tra v.v…
Số cán bộ thanh tra có trình độ đại học chiếm tỷ lệ khá cao, song chủ
yếu được đào tạo một chuyên ngành. Quá trình công tác quá dài, không
được đào tạo, bồi dưỡng lại nên kiến thức cũ kỹ, lạc hậu, nhất là về quản

lý kinh tế và kiến thức pháp luật.
Số người có trình độ sau đại học chiếm tỷ lện quá ít, thiếu những chuyên
gia giỏi trong một số lĩnh vực.
Việc tuyển dụng cán bộ chưa thật hợp lý, thiếu chú ý đến tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ. Số cán bộ tuổi cao chiếm tỷ lệ trong ngành khá
cao, do đó dẫn đến tình trạng trì trệ, yếu kém trong tư duy, thiếu năng
động, sáng tạo trong giải quyết công việc.
d. Về hợp tác quốc tế về công tác thanh tra
Chúng ta thường xuyên tổ chức những đợt học tập trao đổi, nghiên
cứu, khảo sát kinh nghiệm công tác ở nước bạn, đồng thời mời các
chuyên gia nước ngoài đến Việt Nam để hướng dẫn, trao đổi kinh


nghiệm trong tổ chức và hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo…
Những năm gần đây, Thanh tra nhà nước đẩy mạnh quan hệ với các
nước có chế độ chính trị khác nhau. Chúng ta đã cử nhiều đoàn cán bộ
nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm của nước ngoài về tổ chức và hoạt
động thanh tra, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xây
dựng Toà án Hành chính v.v…
Mặc dù vậy, nội dung chương trình hợp tác quốc tế về công tác thanh tra
còn mang nặng hình thức, quan hệ hữu nghị, các vấn đề chuyên sâu về
nghiệp vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng
chưa được đầu tư nghiên cứu một cách đúng mức.
Việc hợp tác để học tập, bồi dưỡng, đào tạo cho cán bộ thanh tra chưa
được thực hiện. Hoạt động đối ngoại của cơ quan chưa gắn bó, liên quan
với hoạt động nghiên cứu khoa học.
Phương thức trao đổi thông tin giữa các bên còn nghèo nàn, đơn điệu.
Bộ phận chuyên trách đối ngoại của Thanh tra nhà nước còn thiếu những
cán bộ năng lực, chuyên môn, do đó hoạt động còn nặng về sự vụ, thiếu

tính chủ động sáng tạo, chưa thật sự trở thành cơ quan tham mưu đầy đủ
cho Tổng Thanh tra nhà nước về công tác đối ngoại.



×