Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

“ một số vấn đề đổi mới quản lý nhà nước về khoa học công nghệ ở việt nam hiện nay tiểu luận cao học quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.08 KB, 36 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Ngày nay , khoa học - cơng nghệ đã trở thành một lực lượng sản xuất
quan trọng hàng đầu của nhân loại . Phát triển giáo dục , khoa học - công
nghệ đã được Đảng ta khẳng định là ‘’ Quốc sách hàng đầu “ , từ đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991. Đến hội nghị lần thứ hai
Ban chấp hành Trung ương ( khoá VIII tháng 12 năm 1996 ) , tư tưởng này
đã trở thành một chủ trương , hành động của toàn Đảng , toàn dân ta . Đối
với nước ta , phát triển giáo dục và đào tạo , phát triển khoa học - công
nghệ là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ; là “ khâu đột phá ” để Việt Nam hội nhập được với
thế giới hiện đại và vươn lên trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh, văn minh .
Thế nhưng còn một khoảng cách rất xa giữa tiềm năng phát triển khoa
học - công nghệ nước ta với thực trạng của nó . Nghị quyết Hội nghị lần thứ
hai Ban chấp hành Trung ương ( khoá VIII ) đã nhận định : “ Nền khoa học
- công nghệ nước ta phát triển chậm chưa tương xứng với tiềm năng sẵn
có , chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ cơng nghiệp hóa , hiện đại
hóa, cịn thua kém so với nhiều nước trong khu vực ” Vì vậy , yêu cầu đưa
khoa học - công nghệ thành cơ sở và động lực cho sự phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước , để công nghiệp hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa
học - công nghệ đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước và nhân
dân ta, trong đó có lực lượng làm công tác nghiên cứu lý luận thuộc lĩnh vưc
khoa học - cơng nghệ . Chính tính chất cấp bách của thực tiễn phát triển kinh
tế – xã hội và thực tiễn công tác quản lý Nhà nước về khoa học - công nghệ
trong những năm qua nên em đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Một số vấn

1


đề đổi mới quản lý Nhà nước về khoa học - công nghệ ở Việt Nam hiện nay


Do đề tài rộng và phức tạp , trong khi khả năng của em là có hạn , cho
nên , đề án của em viết chắc chắn còn nhiều điểm yếu và sai sót . Vì vây ,
em mong nhận được ý kiến nhận xét quý báu của các thầy ( cô ) giáo dạy các
bộ môn và nhất là ý kiến của cô giá, người đã trực tiếp hướng dẫn em làm
đề tài này .

PHẦN I : TỔNG QUAN VỀ KHOA HỌC - CƠNG NGHỆ
1) Khái niệm về khoa học - cơng nghệ.
1.1) Khái niệm về khoa học
Khoa học theo cách hiểu thơng thường là một hình thái ý thức xã hội ,
bao gồm tập hợp các hiểu của con người về các quy luật tự nhiên , xã hội , tư
duy và nó sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi nó được đem áp dụng
trong cuộc sống của con nguời .
Trong từ điển Oxford , thuật ngữ khoa học dùng để chỉ những hoạt
động nghiên cứu cơ cấu , bản chất cũng như hành vi của thế giới vật chất và
tự nhiên cũng như xã hội . Chính vì vậy , có thể chia khoa học thành khoa
học tự nhiên , khoa học xã hội và một cách chi tiết hơn , các ngành khoa học
khác .
1.2) Khái niệm công nghệ
Thuật ngữ công nghệ gần đây đã trở thành một cụm từ được nhiều
người ở các lĩnh vực khác nhau nhắc tới . Có thể cơng nghệ xuất hiện đông

2


thời với sự hình thành lồi người . Từ “ Công nghệ ” xuất phát từ chữ Hy
Lạp “ Techno ” có nghĩa là một nghệ thuật hay một kỹ năng và “ loga ” có
nghĩa là một khoa học , hay sự nghiên cứu ở Việt Nam , cho đến nay cơng
nghệ thường được hiểu là q trình để tiến hành một công đoạn sản xuất , là
thiết bị để thực hiện một cơng việc ( do đó cơng nghệ thường là tính từ của

một cụm thuật ngữ như từ qui trình cơng nghệ , thiết bị cơng nghệ , dây
chuyền công nghệ ). Nhưng cách đây từ vài chục năm , Anh , Mỹ , rồi Tây
Âu bắt đầu sử dụng thuật ngữ công nghệ để chỉ các kỹ thuật cụ thể bắt
nguồn từ các thành tực khoa học , coi các kỹ thuật đó như một sự phát triển
của khoa học ứng dụng trong thực tiễn .
Học giả nước ngồi , D.L.Spencer cho rằng cơng nghệ là sách giáo
khoa trình bày cách thức kết hợp các yếu tố đầu vào để tạo ra một đầu ra tốt
cho nền kinh tế . K.Galraith coi công nghệ là sự áp dụng một cách hệ thống
khoa học và kiến thức liên quan vào các nhiệm vụ thực tế .
Theo nhóm nghiên cứu thuộc chương trình khoa học - cơng nghệ cấp
Nhà nước , thuật ngữ này được tiếp cận theo ba cách khác nhau.
• Cơng nghệ là một nền khoa học ứng dụng nhằm vận dung các quy
luật tự nhiên và các nguyên ký khoa học để đáp ứng nhu cầu về vật
chất và tinh thần của con người .
• Công nghệ như là các phương tiện kỹ thuật , là sự thể hiện vật chất
hóa của tri thức ứng dụng .
• Cơng nghệ như là một tập hợp các cách thức , phương pháp dựa
trên cơ sở khoa học và sử dụng vào sản xuất trong các ngành khác
nhau để tạo ra các sản phẩm vật chất .
3


Như vậy , theo cách tiếp cận này , công nghệ bao gồm cả tri thức
(khoa học ) cũng như toàn bộ cách thức khác nhau để sử dụng tri thức đó
nhằm tạo ra những sản phẩm vật chất mới . Sự kết hợp của các hệ thống tri
thức đó là một địi hỏi tất yếu để tạo ra cơng nghệ và nế khơng có cách thức
xử lý hợp lý , khoa học , khó có được cái mà chúng ta gọi là công nghệ .
Một cách tư duy khác về thuật ngữ này được các giới sản xuất , kinh
doanh quan tâm là : Công nghệ gồm tất cả những gì , bao gồm cả tài năng
,trí tụê cũng như các thiết bị , phương pháp được sử dụng trong sản xuất

kinh doanh cung cấp dịch vụ và có thể mua bán trao đổi trên thị trường .
Khi nghiên cứu công nghệ một số nhà nghiên cứu “coi công nghệ
bao gồm hai yếu tố ” :
Phần cứng : bao gồm máy móc , trang thiết bị . Trong nột số trường
hợp gọi đó là trang thiết bị kỹ thuật . Phâng cứng này được mua bán , trao
đổi trên thị trường như những loại hàng hóa bình thường khác .
Phần mềm : bao gồm những tri thức , kỹ năng , bí quyết cũng như
các cơng thức hướng dẫn sử dụng , phối kết hợp các thiết bị với nhau. Phần
mềm cũng là yếu tố được mua bán , trao đổi trên thị trường .
Các thành phần cấu thành cơng nghệ :
+ Nhóm các yếu tố về kỹ thuật ( Technoware ) : bao gồm các trang
thiết bị cầm tay hoặc cơ giới hóa ; trang thiết bị tự động , trang thiết bị được
máy tính hóa và trang thiết bị liên kết .

4


+ Nhóm các yếu tố thuộc về con người ( Humanware ) : bao gồm
những năng lực vận hành và khởi động , năng lực và tái sản xuất , năng lực
thích nghi và hồn thiện và năng lực phát minh sáng tạo .
+ Nhóm các yếu tố về thơng tin ( Infoware ) : bao gồm các thông tin
dữ liệu và bí quyết liên quan đến việc sử dụng thành thạo và khai thác trang
thiết bị .
+ Nhóm các yếu tố thuộc về tổ chức ( Orgaware ) : bao gồm những
cách thức tổ chức nhằm vận hành liên kết các yếu tố khác của công nghệ .
Bốn thành phần trên của công nghệ liên quan chặt chẽ với nhau và
cung cần thiết cho việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ .

2.


Mối quan hệ giữa khoa học và cơng nghệ .

Khoa học được nói đến là việc tìm kiếm các các quy luật điều chỉnh
hiện tượng tự nhiên , không phụ thuộc vào bất cứ sự quan tâm nào đến khả
năng áp dụng trên giác độ kinh tế . Theo nghĩa này , khoa học đơn thuần là
sự tìm kiếm chân lý . Trong khi đó cơng nghệ lại có mụa đích áp dụng trực
tiếp các ngun tắc và quy luật khoa học vào cuộc sống của con người hay
vào một quá trình sản xuất . Khoa học cho ta kiến thức , cịn cơng nghệ giúp
tạo ra của cải vất chất . Phát triển khoa học tạo ra những thơng tin mang
tính tiềm năng được sử dụng để sáng tạo cơng nghệ . Giữa chúng có mối
quan hệ thiết , như ông Abdus Salam , nhà vật lý nổi tiếng thế giới đã nói :
“ Khoa học của hôm nay là công nghệ của ngày mai ” .
Ngày nay , khoa học gắn liền với công nghệ tức là gắn trực tiếp việc
sử dụng các phát minh khoa học để đưa vào cuộc sống .

5


3.

Đặc điểm của hoạt động Khoa học - công nghệ .

Có thể nói hoạt động nghiên cứu khoa học và từ đố chuyển sang khoa
học - công nghệ là một trong những hoạt động có những nét đặc thù riêng
của nó và cũng là lĩnh vực có thể tạo ra những thành công rất to lớn . Hoạt
động nghiên cứu khoa học - cơng nghệ có những nét đặc biệt sau :
+ Hoạt động nghiên cứu khoa học thường đòi hỏi chi phí rất cao .
Những nhà bác học của thế kỷ trước là con em của các gia đình giàu có
hoặc phải được các tổ chức hay gia đình giàu có đỡ đầu mới nghiên cứu
được . Ngày nay , tuy có nhiều cơ hội để tiếp xúc với hoạt động nghiên cứu

khoa học , song chi phí cũng vượt rất xa khả năng thu nhập của những
người có thu nhập trung bình . Nhiều nhà khoa học có tên tuổi của các nước
đang phát triển có thể thành và phát triển được tài năng của mình khi họ có
điều kiện sang các nước phát triển và được các nước đó tạo cho những điều
kiện cần thiết để nghiên cứu .
+ Khả năng tự hạch tốn nói chung của hoạt động nghiên cứu khoa
học cũng như các hoạt động nghiên cứu triển khai rất khó khăn .
+ Các hoạt động nghiên cứu khoa học cũng như nghiên cứu triển
khai chứa đựng bên trong rủi ro khá lớn . Mức độ rủi ro phụ thuộc vào lĩnh
vực khoa học - công nghệ nghiên cứu .
+ Hoạt động nghiên cứu khoa học – cơng nghệ có tác dụng rất lớn
đối với cộng đồng . Các thành tựu nghiên cứu , phát minh được lan truyền ,
phổ biến nhanh và có tác động đến nhiều mặt sinh hoạt của xã hội .

6


+ Hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ chịu sự cạnh tranh
khá cao khi mà những vấn đề liên quan trực tiếp đến sản xuất cungx được
nhiều người quan tâm .
+ Hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ , đặc biệt là những
thành tựu khoa học là sản phẩm chung của nhân loại . Ai cũng có quyền tiếp
cận với tri thức đó .
+ Hoạt động nghiên cứu khoa học - cơng nghệ địi hỏi sự đổi mới
mang tính chất thường xuyên nhằm đáp ứng sự thay đổi của đời sống kinh tế
xã hội .

4.

Vai trò của Khoa học - công nghệ trong phát triển

Kinh tế – xã hội .

Một trong những đặc điểm quan trọng của thời đại ngày nay là sự phát
triển năng động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và ảnh
hưởng to lớn của nó đến mọi mặt của đời sống xã hội loài , đặc biệt là với
lĩnh vực kinh tế . Trong vài thập kỷ gần đây , cơng nghệ nổi lên như vấn đề
nóng hổi của thời đại . Vai trị có tính quyết định của công nghệ đối với công
cuộc phát triển kinh tế – xã hội đã được cộng đồng quốc tế công nhận , đặc
biệt là đối với các nước đang phát triển
Bảng 1 : Sự đóng góp vào tăng trưởng kinh tế theo các yếu tố ở
một ssố nước tư bản phát triển trong giai đoạn 1950 – 1985.
Nước

Tư bản

Lao động

7

Tiến bộ công nghệ


Pháp

28

- 4

76


Đức

32

- 10

78

Nhật Bản

40

- 5

55

Anh

32

- 5

73

Mỹ

24

27


49

Ủy ban Kinh tế – xã hội Châu Á Thái Bình Dương ( ESCAP ) của
Liên hợp quốc đã khẳng định rằng : Nếu có kế hoạch sử dụng cơng nghệ
thích hợp , nó có thể là chiếc chìa khố cho một xã hội phồn vinh .
Trong giai đoạn cất cách của Châu Âu ( 1850 đến đầu thế kỷ 20 ) , của
Mỹ ( 1890 đến đầu thế kỷ 20 ) và của Nhật Bản ( 1955 – 1970 ) , sự tăng
trưởng dựa vào nhân tố vốn là 35,7% , vào lao động là 14,8% , và dựa vào
khoa học - công nghệ là 49,8%.
Trong vòng 20 năm qua , một số nước Châu Á đã thành ccông trong
việc đuổi kịp các nước phát triển ở những lĩnh vực và chiếm được thị phần
ngày càng tăng cho các sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ
cao .Giai đoạn 1970 – 1987 , tham gia thị trường xuất khẩu sản phẩm chế tạo
có hàm lượng khoa học - cơng nghệ cao của các nước đang phát triển tăng
liên tục . Khối lượng mặt hàng này tham gia thị trường tăng từ 2,6% trong
năm 1970 lên 13,1% năm 1987 . Tỷ lệ hàng công nghệ chế biến trên tổng
sản lượng xuất khẩu ở Hàn Quốc đã là 90% trong năm 1980 và 93% trong
năm 1993 , của Malaixia tương ứng là 19% và 65% , của Thái Lan là 28%
và 73%.
8


Ấ n Độ đã đạt được thành công nổi bật trong lĩnh vực phát triển phần
mềm . Sản lượng phần mềm tài khóa 1996 – 1997 là 2,2 tỷ USD so với tài
khóa 1985 – 1986 cỡ 10 triệu USD .
Sự tác động của Khoa học - công nghệ đối với kinh tế thị trường ở
nước ta .
Việc phát triển khoa học - công nghệ đã làm thay đổi về chất của lực
lượng sản xuất và nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất của nước ta , nhằm
thúc đẩy quá trình chuyển biến nền kinh tế từ chậm phát triển sang phát

triển .
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ theo hướng
đã xác định , đã làm cho nền kinh tế thị trường nước ta từng bước thích nghi
với tốc độ nhanh của tính chất mới , của nền kinh tế thị trường thế giới .
Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua sự phân công lao động
làm thay đổi từng bước cơ cấu ngành ,vùng ,thay đổi chiến lược kinh doanh ;
thay đổi sự hình thành cơ cấu giá trị hàng hóa , nhất là trong các ngành cơng
nghệ mới . Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , nângh cao năng lực tích luỹ từ nội
bộ nền kinh tế tạo điều kiện thay đổi chiến lược tái sản xuất từ giản đơn sang
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu .

9


PHẦN II.

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHOA HỌC -

CÔNG NGHỆ Ở VIÊT NAM .
1) Khái niệm quản lý công nghệ .
Về khái niệm quản lý , chúng ta có thể hiểu Quản lý là sự tác động có
chủ đích , có tổ chức , của chủ thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng , các cơ của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến động của môi trường .
Trong lĩnh vực công nghệ :
Quản lý công nghệ là sự tác động liên tục , có tổ chức , có hướng đích
của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý , để sử dụng các tiềm
năng , các cơ hội của hoạt động công nghệ nhằm đạt được mục tiêu trước
mắt và lâu dài .
Như vậy , trong khái niệm này có ba nội dung cần chú ý :

- Các hoạt động công nghệ .
10


- Các mục tiêu cần đặt ra .
- Mối quan hệ giữa hoạt động và mục tiêu.
1.1) Hoạt động công nghệ :
Là hoạt động có liên quan tới cơng nghệ và các thành phần công nghệ.
1.2) Mục tiêu :
Đối với quản lý công nghệ , xây dựng và xác định mục tiêu là vấn đề
cốt lõi và quan trọng , nó quyết định sự thành bại , hiệu quả của hoạt động
công nghệ .
Mục tiêu tổng quát :
Quản lý công nghệ nhằm giải phóng mọi năng lực sẵn có , khai thác
mọi khả năng tiềm tàng đất nước và sử dụng có hiệu quả quan hệ quốc tế để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất , đi đôi với củng cố quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa , phục vụ và giải quyết thị trườngốt nhất mục tiêu kinh tế –
chính trị – văn hóa – xã hội đặt ra .
Để thực hiện được mục tiêu đó , cần chú ý các mục tiêu cụ thể sau :
Tạo bầu khơng khí hướng về cơng nghệ :
+ Xóa bỏ những quan niệm không đúng về công nghệ , như có người
cho rằng , cơng nghệ là thứ gì đó biến con người thành nô lệ , công nghệ làm
mất việc làm …
+ Phát triển các nguồn lực cơ bản để thúc đẩy triển khai có hiệu quả
và phát triển cơng nghệ , đó là nhân lực cơng nghệ , đào tạo người lao động.

11


+ Có sự khuyến khích , sự lành nghề và sáng tạo của người lao động.

+ Có sự trợ giúp lĩnh vực khoa học - công nghệ .
+ Đẩy mạnh hợp tác cơng nghệ trong nước và ngồi nước .
1.3) Mối quan hệ giữa các hoạt động và mục tiêu của nó :
Trong cơng nghệ các hoạt động đa dạng và phức tạp . Quản lý công
nghệ phải chú ý hoạt động tổng thể và mục tiêu cuối cùng . Ngoài ra trong
từng hoạt động , trong từng khâu , trong từng công đoạn phải luôn luôn xem
xét mối quan hệ giữa hoạt động và kết quả cần đạt . Chính vì vậy , người ta
nhấn mạnh và đặc biệt chú ý khâu kiểm tra , kiểm soát trong quản lý công
nghệ .

2)

Nội dung quản lý Nhà nước về khoa học - công nghệ

Nội dung quản lý Nhà nước về khoa học - công nghệ bao gồm :
+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiên chiến lược , chính sách , quy hoạch
kế hoạch , nhiệm vụ khoa học và công nghệ .
+ Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
khoa học - công nghệ .
+ Tổ chức bộ máy quản lý khoa học - công nghệ .
+ Tổ chức hướng dẫn đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và
công nghệ . Quỹ phát triển khoa học và công nghệ .
+ Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ .

12


+ Quy định việc đánh giá , nghiệm thu , ứng dụng và công bố kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ; chức vụ khoa học ; giải
thưởng khoa học và cơng nghệ và các hình thức nghi nhận công lao về khoa

học - công nghệ của tổ chức cá nhân .
+ Tổ chức , quản lý công tác thẩm định khoa học - công nghệ .
+ Tổ chức , chỉ đạo công tác thống kê , thônh tin khoa học và công
nghệ .
+ Tổ chức , chỉ đạo việc đào tạo , bồi dưỡng nâng cao trình độ
chun mơn , nghiệp vụ về khoa học - công nghệ .
+ Tổ chức , quản lý hơph tác quốc tế về khoa học và công nghệ .
+ Thanh tra , kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học và công
nghệ ; giải quyết tranh chấp , khiếu nại tố cáo trong hoạt động khoa học công nghệ ; xử lý các vi phạm pháp luật về khoa học - công nghệ .

3) Đặc điểm chiến lược khoa học - công nghệ ở Việt Nam .
Thế giới chứng kiến nhiều loại hình chiến lược khoa học - công nghệ ,
tuỳ thuộc sự phát triển của bản thân hoạt động khoa học - công nghệ , sự
phát triển của kinh tế thị trường và mối quan hệ giữa khoa học - cơng nghệ
và thị trường :
• Chiến lược khoa học - công nghệ thúc đẩy ( Sand T Pusn ) ;
• Chiến lược cơng nghệ kéo ( Technology Pull / Driven ) ;
• Chiến lược sản phẩm kéo ( Product Pull / Driven ) ;

13


• Chiến lược thị trường kéo ( Market Pull / Driven ) hoặc rộng hơn.
• Chiến lược nhu cầu kéo ( Demand Pull / Driven ).
Trong mỗi loại hình chiến lược đã xuất hiện những chỉ số khoa học công nghệ khác nhau .
Chiến lược khoa học - công nghệ ở Việt Nam có thể trải qua những
loại hình sau :


Từ sau kháng chiến chống Pháp đến cuối thập niên 1970 ,


chiến lược khoa học - công nghệ đẩy chiếm vị trí độc tơn . Tác nhân quyết
định tới chính sách là Nhà nước , các nhà lãnh đạo là người quyết định các
chủ trương phát triển khoa học - cơng nghệ .


Từ năm 1979 xuất hiện những nhân tố của chiến lược công

nghệ kéo và thị trường kéo , nhưng chiến lược công nghệ đẩy vẫn chiếm ưu
thế . Trong giai đoạn này , ngoài tác nhân Nhà nước , các doanh nghiệp và
các nhà cơng nghệ đã đóng vai trò như những tác nhân , song còn yếu .


Từ năm 1987 – 1990 , yếu tố chiến lược thị trường kéo và nhu

cầu kéo mạnh dần lên . Vai trò những ngành nghiên cứu và dịch vụ khoa
học - công nghệ tư nhân bắt đầu xuất hiện . Bên cạnh các doanh nghiệp , các
nhà nghiên cứu tư nhân bắt đầu đóng vai trị là tác nhân của chính sách .
Pháp lệnh chuyển giao cơng nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và pháp lệnh
bảo vệ các quyền sở hữu công nghiệp là những đảm bảo pháp lý , và là một
thiết chế có tác dụng thúc đẩy nhu cầu của thị trường .


Từ năm 1992 , sự cho phép hình thành các tổ chức nghiên cứu

tư nhân đã thúc đẩy phát triển thị trường khoa học - công nghệ . Các hiệp
14


hội khoa học - công nghệ nổi lên như một tác nhân quan trọng . Các xí

nghiệp liên doanh , doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bắt đầu tham gia qúa
trình đổi mới nền cơng nghệ lạc hậu của Việt Nam . Vấn đề cải cách kinh tế
và xã hội cũng đặt trước cộng đồng nghiên cứu những đòi hỏi bức bách về
nghiên cứu luận cứ khoa học cho các quyết định chiến lược và chính sách .
Trên nền của hệ thống kinh tế và xã hội đó , chiến lược thị trường kéo và
chiến lược nhu cầu kéo ngày càng khẳng định chỗ đứng trong hệ thống khoa
học - công nghệ .

4) Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động khoa
học - công nghệ ở nước ta từ năm 1954 đến 1996 kết
quả và tồn tại .
• Giai đoạn 1954 – 1975 :
Trong thời kỳ 1954 – 1964 , hoạt động khoa học - công nghệ ở nước
ta đã được triển khai mạnh mẽ trên cả ba khía cạnh : tri thức – đào tạo , thể
chế – tổ chức và kỹ thuật – sản xuất thông qua công tác quản lý của Nhà
nước . Đồng thời Nhà nước ta thực hiện tách công tác quản lý khoa học công nghệ ra khỏi công tác ngành giáo dục – đào tạo . Ngày 4-3-1959 Chủ
tịch nước đã ký sắc lệnh 016-SL , thành lập uỷ ban Khoa học Nhà nước ,
một thành viên của văn phịng Chính phủ điều hành mọi hoạt động khoa học
của Nhà nước , đồng thời giúp Chính phủ hoạch định chính sách phát triển
khoa học – kỹ thuật của đất nước .
Công tác quản lý các hoạt động khoa học - công nghệ thời kỳ 1954 –
1964 đã đạt được những thành tựu nổi bật , có ý nghĩa đặc biệt quan đối với
sự nghiệp cách mạng của nước ta .

15


Thứ nhất , Nhà nước đã phối hợp được những nỗ lực của khoa học công nghệ với ngành giáo dục , tập trung phổ biến kiến thức khoa học , đào
tạo ra một tầng lớp tri thức mới làm lực lượng khoa học nòng cốt để xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà .

Thứ hai , hệ thống các tổ chức hoạt động khoa học và kỹ thuật
chuyên nghiệp hình thành như : trường Đại học Bách Khoa Hà Nội , viện
liên hiệp khoa học tự nhiên , viện khoa học xã hội .
Thứ ba , Nhà nước đã tranh thủ được viện trợ và sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa để đào tạo cán bộ và trang bị tư liệu lao động cho các
tổ chức khoa học của nước ta , tạo ra những tiền đề và truyền thống hợp tác
khoa học giữa nước ta với những nước khác .
Xét dưới góc độ quản lý khoa học , đây là giai đoạn của chủ thể quản
lý Nhà nước về khoa học - công nghệ trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung .
Ngày 20-5-1975 , Chính phủ quyết định thành lập Viện Khoa học Việt Nam
Bên cạnh thành công trên , sự quản lý của Nhà nước về khoa học công nghệ cũng bộc lộ một số nhược điểm và thiếu sót đó là : Về nội dung
nghiên cứu , các khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật chưa chú trọng tạo
ra những giải pháp có tính tồn bộ , tính cơng nghệ để phục vụ sản xuất . Hệ
thống tổ chức các viện nghiên cứu của nước ta được tạo lập trong thời kỳ
này theo mơ hình của Liên Xơ , vốn là sản phẩm của cơ chế kế hoạch hóa
tập trung cao độ , thích hợp cho thời chiến tranh , khơng thích hợp cho thời
bình.
• Giai đoạn 1975 – 1986 :

16


Đây là thời kỳ đã thống nhất đất nước , và đã diễn ra Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ IV năm 1976 .
Đường lối của đại hội IV sau đó được pháp luật hóa trong Hiến pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 . Điều 42 của
Hiến pháp 1980 viết :
“ Nhà nước đẩy mạnh Cách mạng khoa học – kỹ thuâth nhằm phát
triển lực lượng sản xuất , tăng năng suất lao động , thúc đẩy sự nghiệp cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa , nâng cao đời sống nhân dân và củng cố quốc

phòng , xây dựng nền khoa học , kỹ thuật tiên tiến của nước ta ”.
Như vậy , khoa học - công nghệ đã được Đảng và Nhà nước ta coi như
là một vấn đề then chốt của lực lượng sản xuất , là động lực cơ bản của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa và ưu tiên phát triển . Tuy nhiên muốn biến nó
thành hiện thực địi hỏi phải có một thể chế phù hợp và năng lực quản lý tốt.
Đến đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng , tháng 4-1982 ,
đặt ra mục tiêu cho khoa học – kỹ thuật thiết thực hơn : “ Kết hợp chặt chẽ
khoa học xã hội , khoa học tự nhiên , khoa học kỹ thuật , coi trọng công tác
phối hợp giữa các bộ mơn khoa học bằng những hoạt động hình thức hoạt
động liên ngành để cùng nhau nghiên cứu giải quyết các vấn đề quan
trọng”.
Điểm yếu của chính sách quản lý khoa học - công nghệ thời kỳ này
bộc lộ trong việc lựa chọn mục tiêu nghiên cứu . Với kinh phí Nhà nước
chưa tới 0,4% GDP , trong khi GNP được xác định 12 tỷ USD ( theo WB ,
UNDP ) nhưng Nhà nước đã đầu tư hết số tiền đó , cộng thêm số tiền viện
trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho 76 chương trình tiến bộ khoa học – kỹ

17


thuật trọng điểm phục vụ mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân thời kỳ
1981 – 1985 .
Thành tựu lớn nhất của sự nghiệp khoa học và kỹ thuật nước ta trong
thời kỳ này là duy trì được đội ngũ và tiếp tục phát triển , kể cả con người và
tổ chức .
• Giai đoạn 1986 – 1996 :
Nếu như thời kỳ 1975 – 1986 được coi như là thời kỳ trung gian giữa
cơ chế quản lý bao cấp và cơ chế quản lý theo thị trường , thì thời kỳ 986 –
1996 Nhà nước nươc ta sẽ tiếp tục hoàn thiện sự chuyển đổi này .
Sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng , trên đất nước ta

đã diễn ra quá trình đổi mới toàn diện mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội
và văn hóa , trong đó có sự đổi mới của sự nghiệp khoa học - công nghệ .
Đổi mới lãnh đạo và quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ ở
nước ta bắt đầu từ sự thay đổi quan niệm về vai trò của khoa học và công
nghệ ở các cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia . Báo cáo chính trị Đại
hội tồn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 khẳng định :
“ Phát triển sự nghiệp khoa học , giáo dục , văn hóa nhằm phát huy
nhân tố con người và về con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc .
Khoa học và giáo dục đóng vai trị then chốt trong toàn bộ sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc , là một động lực đưa đất nước
thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu , sánh kịp với các nước .

18


Kể từ Đại hội VII Đảng ta khẳng định phát triển giáo dục và khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu . Vai trị của khoa học - cơng nghệ đã đưịc
Đảng nhìn nhận tương hợp với bài học phát triển mà Liên Hiệp Quốc đã rút
ra khuyến cáo : “ Khoa học - công nghệ là nền tảng của cơng nghiệp hóa ,
hiện đại hóa ” .
Cùng với việc hình thành một thị trường cho các sản phẩm khoa học công nghệ , nhu cầu về khoa học , kỹ thuật quản lý và các tài năng quản lý
khoa học và công nghệ đã trơt thành bức xức đói với sự nghiệp cơng nghiệp
hóa , hiện đại hóa của đất nước .
Đến đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996 ) vai
trò của khoa học - công nghệ không chỉ là nền tảng và động lực trong phát
triển kinh tế mà còn là yếu tố cơ bản để phát triển mọi nguồn lực và các
lĩnh vực của xã hội .
Nhà nước , mà trước hết là Chính phủ với chức năng quản lý đất nước
đã có nhiều cố gắng trong việc thể chế hóa và thực hiện các chính sách của

Đảng về khoa học - công nghệ trong thời kỳ đổi mới mở cửa .
Năm 1990 , bộ máy quản lý Nhà nước về khoa học - cơng nghệ được
kiện tồn . Ủy ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước đổi tên thành Ủy ban
Khoa học Nhà nước với chức năng là cơ quan quản lý cấp Bộ về các hoạt
động khoa học và công nghệ . Năm 1992 , Nhà nước giao thêm nhiệm vụ
quản lý môi trường và cơ quan quản lý này đổi tên thành Bộ Khoa học công nghệ và môi trường với một bộ máy thống nhất từ trung ương .


Những vấn đề cịn tồn tại trong công tác quản lý khoa học -

công nghệ của Nhà nước :
19


Sau 50 năm phấn đấu bền bỉ , dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý của Nhà nước , ngành khoa học và công nghệ nước ta đã trưởng thành vè
mọi mặt , góp phần xứng đáng vào các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa .
Bên cạnh đó , cơng tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động khoa
học - cơng nghệ vẫn cịn những yếu kém cần khắc phục dứt điểm :
+ Công tác hoạch định chiến lược phát triển khoa học - công nghệ
của Nhà nước , thuộc vai trò quản lý của Chính phủ , cịn nhiều yếu kém .
+ Chính phủ , với chức năng là cơ quan Nhà nước quản lý kinh tế ,
chưa đầu tư tài chính đủ mức cho khoa học và công nghệ phát triển .
+ Hệ thống các tổ chức nghiên cứu và triển khai ( R and D )của nước
ta quá cồng kềnh và có quá nhiều đầu mối quản lý , trong khi năng lực quản
lý Nhà nước ngành của Bộ khoa học - cơng nghệ và mơi trường lại có hạn .
+ Cơ sở vật chất của cơng tác R và D cịn thiếu thốn , lạc hậu . Đội
ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ cịn bất cập trước u cầu của thực tiễn .


PHẦN III : MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .
1. Một số nguyên tắc quản lý Nhà nước về hoạt động
khoa học - công nghệ.
1.1) Mục đích của sự nghiệp khoa học và cơng nghệ nước ta là phục
vụ sự phát triển của con người Việt Nam , cho nên cách thức phát triển
20


khoa học và công nghệ cần phù hợp với giá trị nhân văn – bản sắc văn hóa
dân tộc để đạt tới sự lâu bền .
Những nước nghèo đã bị giam hãm trong cái “ vòng luẩn quẩn ” của
sự kém phát triển như nước ta thì tư tưởng coi khoa học - công nghệ như
một thứ “ báu vật giáo ” mới vẫn ít nhiều cịn đất sống . Thực tiễn đã cho
thấy , bất kỳ một chiến lược phát triển khoa học và công nghệ nào mà phải
hy sinh về phương diện “ sự phát triển người ” mặc dù được biện minh hy
sinh hiện tại cho tương lai tốt đẹp hơn đều sớm muộn sẽ thất bại vì làm hại
đến chính chủ nhân của khoa học - công nghệ là con người .
Mục tiêu cơ bản , quan trọng nhất của sự nghiệp khoa học - công nghệ
nước ta là phục vụ cho công tác phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ,
cịn cơng cuộc này , xét đến cùng là nhằm phát triển con người ở nước ta .
Một vấn đề quan trọng hàng đầu đói với Nhà nước ta hiện nay là sự
quản lý và phát triển ngành khoa học - công nghệ như thế nào để đem lại
nhiều lợi ích cho quốc gia và đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất cho đất
nước . Nếu đồng ý với quan niệm văn hóa là kiểu của sự phát triển , mọi sự
phát triển muốn trở thành bền vững phải nằm trong quỹ đạo của văn hóa thì
sự phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta chỉ thực sự vì con người khi
có phù hợp với các giá trị nhân đạo và nhân văn của người Việt , khi các
hình thức phát triển của nó khơng làm phương hại đến bản sắc văn hóa dân

tộc .
Sự nghiệp khoa học - công nghệ nước ta sẽ đạt tới hiệu quả cao và sự
phát triển bền vững khi Nhà nước biết kết hợp hài hòa nguyên tắc khoa học
và văn hóa trong quản lý ; kết hợp giữa tính hợp lý chính xác và tối ưu của
quản lý khoa học với tinh thần chủ động dễ thích ứng , tính sáng tạo của bản
21


sắc văn hóa dân tộc . Sự phát triển lâu bền của ngành khoa học - cơng nghệ
nước ta địi hỏi các cách thức quản lý triển khai chúng với những cơ chế ,
chính sách quản lý Nhà nước phải phát huy đơng lực văn hóa trong cộng
đồng người Việt Nam .
1.2) Phát triển sự nghiệp khoa học - công nghệ cần chú trọng tính
đồng bộ về cơ cấu giữa khoa học tự nhiên , kỹ thuật với khoa học xã hội và
nhân văn ; cần kết hợp giữa mục tiêu làm chủ các công nghệ tiên tiến ở
những ngành kinh tế mũi nhọn với việc phát triển những công nghệ thích
hợp với các nguồn lực sẵn có của nước ta trên cơ sở bảo tồn tự nhiên và
bảo vệ môi trường sinh thái .
Ở nước ta, từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng , vai
trò của khoa học xã hội và nhân văn đã được chính thức đánh giá cao trong
nhiệm vụ quản lý và phát triển quốc gia . Khoa học xã hội và nhân văn cung
cấp cho con người một hệ thống tri thức thiết yếu , phong phú để phát triển
cá nhân và xã hội ; nó nhấn mạnh vào cách tiếp cận nhân bản và nhân văn
đối với các vấn đề kinh tế và kỹ thuật .
Muốn cho ngành khoa học và công nghệ nước ta đạt hiệu quả cao và
phát triển bền vững thì Nhà nước cần điều chỉnh về cơ cấu lĩnh vực khoa
học và đầu tư mộ cách hợp lý , cân đối cho khoa học xã hội và nhân văn .
Chúng ta đã biết tầm quan trọng của công nghệ cao , công nghệ tiên
tiến đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia . Nhưng nếu cho rằng phải
phát triển công nghệ cao với mọi giá mà khơng tính đến các điều kiện kinh

tế , xã hội cụ thể của đất nước thì đó có thể là phiêu liêu hoang tưởng . Sự
nghiệp cơng nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước đang địi hỏi Chính phủ phải
đầu tư phát triển và tìm nhiều cách thức , để nhập khẩu cả hai loại hình cơng
22


nghệ : cơng nghệ tiên tiến và cơng nghệ thích hợp ; trong đó trọng tâm là
cơng nghệ tiên tiến , công nghệ cao . Đồng thời cần kết hợp mục tiêu đầu tư
phát triển công nghệ , công nghiệp với mục tiêu bảo tồn tự nhiên , bảo tồn
tính đa dạng của sinh học và bảo vệ sự trong sạch và tính bền vững của mơi
trường sinh thái .
1.3) Phương pháp phát triển khoa học và công nghệ cần duy trì ở hai
yếu tố : kế hoạch thị trường ; chủ thể quản lý lập kế hoạch và điều hành
dựa trên cơ sở các nhu cầu của thị trường và hướng tới mục tiêu dài hạn .
Trong những trường phái quản lý học hiện đại , chỉ trừ những người
theo thuyết ngẫu nhiên cịn tất cả đều khơng phải nhận vai trị của cơng tác
kế hoạch trong quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp .
Đối với hoạt động khoa học và cơng nghệ , thị trường chính là một
động lực , có thể là động lực mạnh nhất , khiến cho các chủ thể của nó – các
nhà khoa học , cơng nghệ khơng ngừng tìm cách nâng cao hiệu quả và tìm
tịi từ những sản phẩm mới mà nhu cầu xã hội đòi hỏi .
Nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường đòi hỏi Nhà nước , cụ thể
là Chính phủ , cần chủ động xây dựng kế hoạch tổng thể ( master plan ) và
các chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia một cách khoa
học và thực tế .
Riêng mục tiêu xây dựng thị trường cho các hoạt động khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay cần quyết được ba vấn đề có mối quan hệ hữu
cơ với nhau.:
+ Hoàn thiện hệ thống luật pháp để các hoạt động khoa học - công
nghệ diễn ra trong cơ chế thị trường .
23



+ Trong cơ chế và tổ chức đã xác định rằng những chương trình , đề
tài do Chính phủ cấp kinh phí là thực sự xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước chứ khơng phải từ lợi ích cá nhân và cục bộ của một
số nhà khoa học , công nghệ .
+ Các cấp , các ngành trong hệ thống quản lý Nhà nước cần coi khoa
học - công nghệ là một ngành sản xuất hàng hóa đặc biệt . Vì vậy , tạo lập
một thị trường cho khoa học - công nghệ địi hỏi Nhà nước cần hồn thiện hệ
thống luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và khuyến khích chuyển giao
cơng nghệ .
2 ) Một số giải pháp quản lý Nhà nước đối với sự khoa học - cơng
nghệ ở nước ta .
Theo cách ví của Marx , quản lý giống như lao động của người nhạc
trưởng chỉ huy dàn nhạc thì vai trị của “ nhạc trưởng Nhà nước ” đối với sự
nghiệp khoa học - công nghệ ở nước ta hiện nay là nhạc trưởng của các nhạc
trưởng . Bởi vì , với một lực lượng “ nhạc cơng ” đơng đảo gồm 48,1 nghìn
lao động trong 334 cơ quan R – D ( số liệu năm 1993 ) và trong số 21.484
cán bộ giảng dạy tại 96 trường đại học và cao đẳng ( số liệu năm 1995 )
cũng ít nhiều tham gia hoạt động khoa học - công nghệ , Nhà nước không
thể chỉ huy- quản lý đội ngũ “nhạc công ” này bằng các mệnh lệnh hành
chính như trong thời kỳ “ nền kinh tế chỉ huy ” trước đây . Tuy nhiên , Nhà
nước ta vẫn chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của bản giao hưởng khoa
học và công nghệ ở Việt Nam . Đổi mới các giải pháp quản lý của Nhà nước
là nhằm tạo ra môi trường thuận lợi và thúc đẩy sự phát triển của ngành
khoa học - công nghệ nước ta .

24



2.1) Xây dựng một hệ thống chính sách và cơ chế pháp lý cho sự
nghiệp khoa học - công nghệ phát triển thuận lợi .
Trước hết cần xác định rõ mối quan hệ giữa chính sách và cơ chế
pháp lý của các hoạt động khoa học - công nghệ . Chính sách phát triển
khoa học - cơng nghệ là cụ thể hóa một bước đường lối , chủ trương của
Đảng ta về vấn đề này .
Cơ chế pháp lý của các hoạt động khoa học - công nghệ là hệ thống
pháp luật của Nhà nước ta về vấn đề này , nhằm thể chế hóa đường lối , chủ
trương và chính sách của Đảng đối với các hoạt động khoa học và cơng
nghệ . Chính sách mang tính định hướng , khuyến khích tinh thần tự giác
thực hiện , cịn cơ chế pháp lý lại mang tính cưỡng chế , tạo ra một hành
lang giới hạn sự vận động của các cá nhân và tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực khoa học - cơng nghệ .
Các chính sách và cơ chế pháp lý đúng đắn kết hợp được với nhau sẽ
tạo ra một môi trường luật pháp xã hội thuận lợi cho các hoạt động khoa
học - công nghệ , khuyến khích tính hiệu quả và sự phát triển bền vững của
sự nghiệp khoa học - cơng nghệ .
Các chính sách và cơ chế pháp lý có tính ổn định , nhưng khi cuộc
sống có những biến đổi lớn , nó cũng được cải tiến cho phù hợp với thực
tiễn.
Nhà nước cần sớm ban hành luật khoa học và công nghệ làm bộ
khung pháp luật điều chỉnh các hành vi hoạt động khoa học - công nghệ ,
bảo vệ những lợi chính đáng , trước hết là quyền tác giả của những người
làm khoa học - công nghệ nước ta . Xây dựng một cơ chế pháp luật hoàn

25


×