Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

MÔI TRƯỜNG HỌC ĐẠI CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.91 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
==========================================================

BỘ MÔN HÓA PHÂN TÍCH VÀ ĐỘC CHẤT

TIỂU LUẬN

MƯA ACID
TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP
NHÓM 5 – A3K69 – ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
********************************


MƯA ACID
TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP
LỜI MỞ ĐẦU
Mưa rất quan trọng cho cuộc sống, tất cả mọi sinh vật
đều cần có nước để sống, kể cả con người. Mưa đem đến cho
chúng ta nước mà chúng ta cần. Thế nhưng, ở nhiều nơi trên thế
giới, thậm chí ngay nơi chúng ta sống, mưa đang trở thành một
mối nguy hại. Bởi vì khí quyển bị ô nhiễm, các khí thải từ các
nhà máy, xe ôtô và các hoạt động của con người đã làm cho
mưa đang trở nên nguy hiểm cho sự sống của mọi sinh vật sống. Loại mưa đó được
gọi là “Mưa acid”.
Nhưng, chúng ta hiểu như thế nào là mưa acid?, nguyên nhân và tác hại của
chúng được thể hiện qua đâu?.... Từ những câu hỏi trên và thực tiễn cuộc sống,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu: "Mưa acid – Những tác động và giải pháp"


1 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.1 MƯA ACID


Thuật ngữ “mưa acid” được sử dụng chủ yếu để chỉ các dạng lắng ướt có độ acid nhỏ
hơn 5,6 như: tuyết, khói, sương hay các hạt bụi lơ lửng. Thuật ngữ chính xác hơn là “giáng thủy
acid”. Nước cất không chứa CO2 có độ pH trung tính (pH=7). Chất lỏng với độ pH nhỏ hơn 7
được xem là có tính acid và lớn hơn 7 được xem là có tính bazơ. Bình tường nước mưa có pH
khoảng 5,6 do trong khí quyển có CO 2, và CO2 đó cùng với nước trong không khí phản ứng tạo
môi trương acid nhẹ:
H2O (lỏng) + CO2 (khí) → H2CO3 (dung dịch)
Acid cacbonic sau đó phân ly thành ion trong nước tạo ra một nồng độ thấp ion H+:
2H2O (lỏng) + H2CO3 (dung dịch) ⇌ CO32- (dung dịch) + 2H3O+(dung dịch)
Trong phân định thực tế, các cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (ERA) đã coi nước mưa
có độ pH nằm trong khoảng từ 5 - 6,5 là mưa trung tính. Nếu mưa có pH ≤ 5 là mưa acid. Các
nước thuộc Ủy ban kinh tế châu Âu (ECE) lại coi nước mưa có pH ≤ 5,5 là mưa acid. Đối với
các như Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan lại lấy pH là 5,6 để làm căn cứ xác định; nước
mưa có pH < 5,6 là mưa acid. Người ta gọi tính chất mưa như sau:
Tiêu chuẩn phân loại mưa theo pH nước mưa
pH nước mưa
<4
4 - 4,9
5,0 - 5,5
5,6
5,7 - 6,0
6,1 - 7,0
> 7,0

Tính chất mưa
Mưa acid nặng
Mưa acid
Mưa acid nhẹ
Trung tính
Mưa kiềm nhẹ

Mưa kiềm
Mưa kiềm cao

Tính acid bổ sung trong nước mưa đến từ phản ứng giữa các chất ô nhiễm sơ cấp, chủ
yếu là SO2 và NOx và nước trong khí quyển để tạo thành các acid mạnh (như acid sulphuric và


acid nitric). Các nguồn chủ yếu của các loại chất ô nhiễm này là các loại xe cộ và hoạt động công
nghiệp, đặc biệt là các nhà máy điện.
Trong hoặc gần các vùng sử dụng các nguyên liệu hóa thạch làm nhiên liệu, pH nước
mưa có thể xuống dưới 4. Nếu lại gặp sương mù dày đặc pH nước mưa còn xuống thấp nữa.
Phân tích nước mưa ở một trận mưa acid có pH nước mưa là 4,2 người ta thu được kết quả:

Nồng độ cation và anion trong nước mưa có pH 4,2
Cation

Nồng độ
Anion
Nồng độ
(ppm Mol)
(ppm Mol)
H+
56
SO4=
51
+
NH4
10
NO3
20

++
Ca
7
Cl
12
K+
5
Mg++
3
Na+
2
Tổng cộng
83
83
Nguồn: Anil Kumar De. Environmental chemirstry - Trang 116 Wiley eastern limited publication
1986
Do vậy UBKT Châu Âu định nghĩa mưa acid là mưa có chứa các acid H2SO4 và HNO3 có
pH ≤ 5,5.


1.2 NGUYÊN NHÂN, NGUỒN GỐC VÀ CƠ CHẾ GÂY MƯA ACID
1.2.1 Nguyên nhân
Sự gia tăng năng lượng oxit của lưu huỳnh và nitơ ở trong khí quyển do hoạt động của con
người là nguyên nhân gây nên mưa acid. Ô tô, nhà máy nhiệt điện và một số nhà máy khác như
nhà máy luyện kim, nhà máy lọc dầu,... khi đốt nhiên liệu đã thải khí SO2 vào khí quyển. Trong
khí xả, ngoài SO2 còn có khí NOx được không khí tạo nên ở nhiệt độ cao của phản ứng đốt
nhiên liệu. Các loại nhiên liệu như than đá, dầu khí mà chúng ta đang dùng đều có chứa S và N.
Khi cháy trong môi trường không khí có thành phần O2, chúng sẽ biến thành SO2 và NO2, rất dễ
hòa tan trong nước. Trong quá trình mưa, dưới tác dụng của bức xạ môi trường, các oxít này sẽ
phản ứng với hơi nước trong khí quyển để hình thành các acid như H2SO4, acid sunfur, acid

nitric. Chúng lại rơi xuống mặt đất cùng với các hạt mưa hay lưu lại trong khí quyển cùng mây
trên trời. Chính các acid này đã làm cho nước mưa có tính acid.
Một vài quặng kim loại như đồng (Cu) chẳng hạn, có chứa lưu huỳnh (S) và khí SO2 được
tạo thành khi người ta tìm cách khai thác chúng. Khí SO2 cũng có thể được thải ra từ hoạt động
núi lửa. Khi núi lửa hoạt động thường tung vào khí quyển H2S và SO2.
Ngoài ra, khí SO2 cũng có thể được thải từ
sự mục nát của các loài thực vật đã chết từ lâu.
Khí SO2 có nguồn tự nhiên chỉ chiếm một
tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 1/10) so với nguồn gốc nhân
tạo (từ những hoạt động công nghiệp, giao
thông...).
Bên cạnh đó, các nhà máy điện khi sử dụng
nhiên liệu hóa thạch để phát điện cũng đã thải vào
không khí một lượng lớn NOx. Ở một số nước,
lượng khí thải này do các nhà máy nhiệt điện chiếm 40%, còn 60% là do các hoạt động giao
thông vận tải.
Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu vẫn bắt nguồn các
hoạt động của con người, đặc biệt chính là sự lạm dụng
các nhiên liệu hóa thạch đã khiến những cơn mưa chứa
đầy chất acid bởi do các hoạt động như: các phương tiện
giao thông, các nhà máy nhiệt điện dựng than, các thiết bị
công nghiệp, khai khoáng,...và từ các hoạt động như chặt
phá rừng bừa bãi, đốt rác, phun thuốc trừ sâu,... Trong đó,
80% oxit sulfur là do hoạt động của các thiết bị tạo năng
lượng, 15% là do hoạt động đốt cháy của các ngành công nghiệp khác nhau, và 5% từ các nguồn
khác. Còn đối với oxit nitơ, 1/3 là do hoạt động của các máy phát năng lượng, 1/3 khác là do
hoạt động đốt nhiên liệu để chuyển hóa thành năng lượng và phần còn lại cũng do các nguồn
khác nhau.




1.2.2 Cơ chế gây mưa acid
Lưu huỳnh là một lượng lớn có trong thành phần các chất đốt tự nhiên như than đá và dầu
mỏ, còn nitơ lại chứa nhiều trong không khí nên các khí độc hại như: lưu huỳnh đioxit(SO2) và
nitơ đioxit (NO2) sẽ được sản sinh trong quá trình đốt. Các khí này hòa tan với hơi nước trong
không khí tạo thành các acid sunfuric (H2SO4) và acid nitric (HNO3). Khi trời mưa, các hạt acid
này tan lẫn vào nước mưa, làm độ pH của nước mưa giảm. Nếu nước mưa có độ pH dưới 5 được
gọi là mưa acid. Do có độ chua khá lớn, nước mưa có thể hoà tan được một số bụi kim loại và
ôxit kim loại có trong không khí như ôxit chì,... làm cho nước mưa trở nên độc hơn nữa đối với
cây cối, vật nuôi và con người.
Quá trình này diễn ra theo các phản ứng hoá học:
a.Lưu huỳnh
- Quá trình đốt cháy lưu huỳnh trong khí oxi sẽ sinh ra lưu huỳnh điôxít:
S + O2 → SO2
-Phản ứng hoá hợp giữa lưu huỳnh điôxít và các hợp chất gốc hiđrôxít:
SO2 + OH- → HOSO2
- Phản ứng giữa hợp chất gốc HOSO2- và O2 sẽ cho ra hợp chất gốc HO2- và SO3 (lưu
huỳnh triôxít):
HOSO2- + O2 → HO2- + SO3
- Lưu huỳnh triôxít SO3 sẽ phản ứng với nước và tạo ra axít sulfuric H2SO4:
SO3(k) + H2O(l) →H2SO4(l)
Đây chính là thành phần chủ yếu của
mưa axít.
b. Nitơ:
N2 + O2 → 2NO
2NO + O2 → 2NO2
3NO2(k) + H2O(l) → 2HNO3(l) +
NO(k)
Axít nitric HNO3 chính là thành phần
của mưa acid.



1.3 ẢNH HƯỞNG CỦA MƯA ACID
1.3.1 Hệ sinh thái trên cạn
a. Ảnh hưởng tới thảm thực vật
Mưa acid không giết chết cây cối ngay lập tức hay một cách trực tiếp. Thay vào đó, chúng làm
cho cây yếu đi bằng cách phá hủy lá cây, do đó làm hạn chế lượng chất dinh dưỡng cho cây sử
dụng. Hay cách khác, mưa acid thấm vào đất, gây độc cho cây với những chất độc thông qua bộ
rễ cây. Khi mưa acid rơi xuống, nước mưa acid hòa tan chất dinh dưỡng và những khoáng chất
hữu ích có trong đất. Những chất dinh dưỡng và khoáng chất này sau đó sẽ bị rửa trôi khỏi đất
trước khi cây cối có thể sử dụng chúng. Ngoài việc rửa trôi chất dinh dưỡng, nước mưa acid còn
giúp giải phóng những chất độc hại cho cây như ion nhôm đi vào hệ sinh thái đất. Điều này xảy
ra do những kim loại này ở điều kiện bình thường chúng bị giữ chặt trong các hạt đất, nhưng do
sự có mặt với nồng độ cao của ion hydro đã làm cho đá và
các hạt đất bao bọc chúng bị vỡ ra.
Một cánh rừng thông của Czech bị hủy hoại bởi mưa

acid.

(ảnh chụp tháng 7/2006, theo PD)

Khi mưa acid xảy ra thường xuyên, lá cây có khuynh hướng mất đi lớp màng bảo vệ bên
ngoài. Khi lá cây mất lớp màng bảo vệ, bản thân cây đã mở cửa cho bất kỳ loại bệnh xâm nhập.
Do lá cây bị phá huỷ, cây không sản xuất đủ năng lượng cho nó duy trì quá trình tồn tại và sinh
trưởng bình thường. Khi cây đã bị yếu, nó có thể trở nên dễ bị tổn thương bởi các loại bệnh, côn
trùng và thời tiết lạnh và có thể bị chết.


Theo các đánh giá, thì mưa acid:
- Phá hoại cây cối: Chính do mưa acid Thụy Điển mỗi năm tổn thất mất đến 4,5 triệu mét

khối gỗ. Năm 1984, Thụy Sĩ bị thiệt hại khoảng 12 triệu cây (14% diện tích rừng cả nước), trong
khi đó diện tích rừng bị mưa acid phá hủy ở Hà Lan là 40%. Sản lượng gỗ ở các khu vực rừng
phía đông bắc nước Mỹ bình quân mỗi năm mất 5% cũng là do tác động của mưa acid. Một
nghiên cứu năm 1990 đã đánh giá thiệt hại do mưa acid đối với rừng châu Âu là khoảng 30 tỷ
USD/năm.
- Phá hoại mùa màng, làm giảm năng suất. Mưa acid làm cho các mầm non cây cối bị
mềm rũ như hơ lửa, nặng thì có thể bị chết khô. Nhẹ thì giảm năng suất, nặng thì có thể mất
trắng. Nhất là khi mưa sảy ra vào những giai đoạn có tín chất quyết định năng suất của cây như
vào lúc phơi mầu lúa; trỗ cơ, phun râu ngô...
b. Ảnh hưởng tới đất
Làm cho đất mặn hóa
Mưa acid hòa tan các khoáng ít tan trong đất, đẩy nhanh quá trình phong hóa khoáng, tăng
nhanh tổng số muối tan trong đất làm cho đất mặn hóa
Làm mất dinh dưỡng đất
Mưa acid rửa trôi các cation kiềm, kiềm thổ trong đất làm cho đất trở nên chua dần,
không thích hợp cho hoạt động của các vi sinh vật hữu ích. Các cation kiềm bị rửa trôi làm cho
độ bão hòa bazơ của đất ngày một giảm xuống, đất mất dần độ phì nhiêu. Nếu độ bão hòa bazơ
xuống quá thấp, khoáng sét sẽ bị phá hủy. Cation kiềm tiếp tục bị rửa trôi, môi trường quá chua
khoáng sét biến thành hydrargilit và SiO2 thứ sinh. Đất thật sự mất khả năng sản
Giải phóng các kim loại độc hại
Đất có hàm lượng kim loại nặng tổng số cao, do bản thân đất hay do đất bị ô nhiễm
nhưng vì gặp điều kiện môi trường kiềm các kim loại nặng trở nên không linh động, nên không
phát tác được và chưa gây tác động tiêu cực đến cây cối cũng như con người và động vật. Gặp
mưa acid, đất chua đi, các kim loại nặng trở nên linh động hơn, tác động xấu đến môi trường.
Độ pH cần cho việc hình thành các hydroxit kim loại
Thứ tự

pH

Hydroxit được tạo thành



1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

2,48 - 4,5
4,1
5,2
5,3
5,4
5,5
6,0
6,7
6,8
7,0
7-8
8,5 - 8,8
9


Fe(OH)3
Al(OH)3
Zn(OH)3
Cr(OH)3
Cu(OH)3
Fe(OH)2 ?
Pb(OH)2
Cd(OH)2
Co(OH)2
Ni(OH)2
Hg(OH)2
Mn(OH)2
Ag(OH)2
Nguồn: Perelman (1974)

Như vậy là ở pH 7,0 hầu hết các kim loại nặng bị kết tủa dưới dạng hydroxit.
Ion photphát bị giữ chặt hơn trong đất
Nồng độ ion nhôm hòa tan tăng lên cũng có những ảnh hưởng gián tiếp tới thực vật.
Ion nhôm được giải phóng có thể bao bọc lấy những ion phôtpho dinh dưỡng cần thiết (dạng
nhôm phốt phát) và làm giảm khả năng hấp thụ photphat của thực vật. Hàm lượng photphat
giảm xuống còn do quá trình phân huỷ trong đất chậm lại trong điều kiện môi trường acid.
Cùng với photphát, các chất dinh dưỡng vi lượng quan trọng khác như: molipđen, Bo, Se
cũng giảm khả năng đi tới thực vật do đất bị acid hóa.
Nitơ gây ra hiện tượng acid hóa trong đất
Bởi vì nitơ ở dạng mà cây cối có thể trực tiếp sử dụng là một nguồn hiếm trong tất cả các
hệ sinh thái, cho nên thực vật sẽ ngay lập tức hấp thụ hầu hết nitơ được lắng đọng vào đất. Nếu
nitơ được lắng đọng dưới dạng acid nitric (HNO 3), thực vật sẽ hấp thụ ion nitrat (NO3-) và giải
phóng ion âm khác (quá trình trao đổi chất), thường là OH-, HCO3-, những ion này sẽ kết hợp với
các ion H+ phân ly từ acid. Khi quá trình này xảy ra, acid nitric không tham gia vào quá trình
acid hóa đất.

Nếu ion nitrat không được sử dụng hết bởi thực vật thì chúng sẽ bị lọc ra và không xảy ra
quá trình trung hòa. Trong trường hợp này sự lắng đọng là quá trình acid hóa. Điều này cũng có
thể xảy ra khi hoạt tính của hệ sinh thái thấp, ví dụ, vào mùa đông hay khi lượng lớn acid được
lắng đọng trong một thời gian ngắn,ví dụ như khi tuyết tan, thực vật không có khả năng sử dụng
hết lượng nitơ được có mặt. Lượng dư thừa này sau đó sẽ được lọc ra.


1.3.2 Hệ sinh thái dưới nước
Tác hại lớn nhất của mưa acid với môi trường nước là làm giảm độ pH
Mưa acid rơi trên mặt đất sẽ rửa trôi các chất dinh dưỡng trên mặt đất và mang các kim
loại độc xuống ao hồ. Ngoài ra vào mùa xuân khi băng tan, acid (trong tuyết) và kim loại nặng
trong băng theo nước vào các ao hồ và làm thay đổi đột ngột pH trong ao hồ, hiện tượng này gọi
là hiện tượng "sốc" acid vào mùa xuân. Acid sulfuric có thể ảnh hưởng đến cá theo hai cách: trực
tiếp và gián tiếp. Acid sulfuric ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hấp thụ oxy, muối và các dưỡng
chất để sinh tồn. Đối với các loài cá nước ngọt acid sulfuric ảnh hưởng đến quá trình cân bằng
muối và khoáng trong cơ thể chúng. Các phân tử acid trong nước tạo nên các nước nhầy trong
mang của chúng làm ngăn cản khả năng hấp thu oxygen của các làm cho cá bị ngạt. Việc mất cân
bằng muối Canxi làm giảm khả năng sinh sản của các, trứng của nó sẽ bị hỏng ... và xương sống
của chúng bị yếu đi. Muối đạm cũng ảnh hưởng đến cá, khi nó bị mưa acid rửa trôi xuống ao hồ
nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của tảo, tảo quang hợp sẽ sinh ra nhiều oxygen. Tuy nhiên do cá chết
nhiều, việc phân hủy chúng sẽ tiêu thụ một lượng lớn oxy làm suy giảm oxy của thủy vực và làm
cho cá bị ngạt.
Mặc dù nhiều loại cá có thể sống trong môi trường pH thấp đến 5,9 nhưng đến pH này
Al2+ trong đất bị phóng thích vào ao hồ gây độc cho cá. Al2+ làm hỏng mang cá và tích tụ trong
gan cá. Các ảnh hưởng của pH đến hệ thủy sinh vật có thể tóm tắt như sau:

Hơn nữa, do hiện tượng tích tụ sinh học, khi con người ăn các loại cá có chứa độc tố, các
độc tố này sẽ tích tụ trong cơ thể con người và gây nguy hiểm đối với sức khoẻ con người.



pH trong môi trường nước cũng hủy hoại trứng các sinh vật thủy sinh ngăn cản quá trình
sinh trưởng và phát triển của chúng.
Ở Việt Nam: Trong cả nước, mưa acid chiếm tới 30-50% số lần mưa. Những nơi có tần
suất cao lên tới 50%, điển hình như Việt Trì, Tây Ninh và Huế. Tính riêng khu vực Hà Nội, tần
suất xuất hiện mưa acid là 11%. Theo số liệu quan trắc, Hà Nội và TP.HCM có tần suất mưa acid
thấp hơn các vùng khác.
Theo tiêu chuẩn an toàn lương thực của Canada, lượng muối thủy ngân trong các sông hồ
chỉ được ở mức 0,005 ppm. Nhưng hiện nay người Eskimos và người dân da đỏ ở một số vùng
của Canada ăn thịt cá và hải cẩu có hàm lượng thủy ngân lên đến 32,7 ppm.

1.3.3 Sức khỏe con người
Hầu hết tất cả , mưa acid ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người . Nó có thể làm hại chúng
ta thông qua không khí và ô nhiễm đất . Mưa acid dẫn đến sự hình thành các hợp chất độc hại
bằng cách phản ứng với các hợp chất hóa học tự nhiên . Một khi các hợp chất độc hại được hình
thành , họ có thể thấm vào nước uống , và cũng thâm nhập vào chuỗi thực phẩm. Thực phẩm bị ô
nhiễm này có thể gây tổn hại các dây thần kinh ở trẻ em, hoặc dẫn đến tổn thương não nghiêm
trọng , thậm chí tử vong . Các nhà khoa học nghi ngờ rằng nhôm , một trong những kim loại bị
ảnh hưởng bởi mưa acid , có liên quan đến bệnh Alzheimer. Lượng khí thải của nitơ oxit và các
vấn đề nguyên nhân sulfur dioxide như kích thích cổ họng , mũi và mắt, đau đầu , hen suyễn và
ho khan.


Các tác hại trực tiếp của việc ô nhiễm do các chất khí acid lên người bao gồm các bệnh về
đường hô hấp như: suyển, ho gà
và các triệu chứng khác như
nhức đầu, đau mắt, đau họng ...
Các tác hại gián tiếp sinh ra do
hiện tượng tích tụ sinh học các
kim loại trong cơ thể con người
từ các nguồn thực phẩm bị

nhiễm các kim loại này do mưa
acid. [b]

Mưa acid ảnh hưởng tới sức khỏe con người.

1.3.4 Mưa acid ảnh hưởng tới công trình xây dựng:
Các hạt acid khi rơi xuống nhà cửa và các bức tượng điêu khắc sẽ ăn mòn .
Những ảnh hưởng của điều này thường thấy trên bia mộ cũ, nơi mưa acid có thể làm những chữ
khắc không đọc được. Mưa acid cũng làm tăng ăn mòn tỷ lệ các kim loại, đặc biệt là sắt, thép,và
đồng. Mưa acid làm giảm tuổi thọ các công trình xây dựng, làm lở loét bề mặt bằng đá của các
công trình.
Ví dụ như tòa nhà Capitol ở
Ottawa đã bị tan rã bởi hàm lượng
SO2 trong không khí quá cao. Vào
năm 1967, cây cầu bắc ngang sông
Ohio đã sập làm chết 46 người;
nguyên nhân cũng là do mưa acid.
Mưa acid tác động lên bức tượng ở
thủ đô Viên nước Áo.


1.4 TÌNH HÌNH MƯA ACID TẠI VIỆT NAM
1.4.1 Hiện trạng mưa acid khu vực Nam Bộ
Kết quả phân tích thống kê 10 năm (1996-2005) của nước mưa 4 trạm Tân Sơn Hòa, Tây
Ninh, Cần Thơ và Cà Mau cho thấy mặc dù chất lượng dữ liệu chưa đầy đủ, có thể đưa ra hình
ảnh về lắng đọng axít ở khu vực Nam Bộ như sau:
- Tần suất (%) mưa axít trung bình 10 năm có pH<5,6 lần lượt tại Tân Sơn Hòa, Tây Ninh,
Cần Thơ và Cà Mau là 41,2; 57,9; 58,0 và 39,8%. Mưa axít tại khu vực Nam Bộ tập trung vào
cuối mùa mưa (tháng 9, 10) và tháng chuyển tiếp từ mùa mưa sang mùa khô (tháng 11), trong đó
tháng 10 có tần suất mưa axít cao nhất.

- Hàm lượng sunfat (SO4=) trung bình nhiều năm tại khu vực Nam Bộ dao động trong
khoảng 1,49-1,80mg/l. Cùng với nó, chỉ số lắng đọng lưu huỳnh (S) dao động từ 0,883-1,254
g/m2/năm. Sự vượt trội của chỉ số này ở Cà Mau (1,254 g/m 2/năm) là do ảnh hưởng từ nguồn gốc
biển.
- Tại 4 trạm quan trắc khu vực Nam Bộ, hàm lượng nitrat (NO3-) trung bình
nhiều năm của nước mưa là 0,195-0,221mg/l. Chỉ số lắng đọng nitơ (N) là 0,281- 0,475
g/m2/năm. Chỉ số này ở trạm Cà Mau là thấp nhất, cao nhất là Tân Sơn Hòa và Tây Ninh.
- Không tìm thấy sự tương quan giữa lượng mưa tháng (mm) và hàm lượng các anion SO 42và NO3- So với các trạm khác của khu vực Đông Á (2000-2004), tình hình xảy ra mưa axít ở khu
vực Nam Bộ Việt Nam còn thấp, qua đó chỉ số lắng đọng lưu huỳnh (S) và nitơ (N) cũng thấp
hơn.
- Ca2+ và NH4+ là 2 thành phần cation chính trung hòa tính axít trong nước mưa của khu
vực Nam Bộ (2005).
(Tài liệu: Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT, ThS. Nguyễn
Thị kim Lan)


1.4.2 Tình hình mưa acid ở Bắc và Trung Bộ
Theo kết quả quan trắc được trình bày trong Bảng 1, 2, 3 các mẫu nước mưa có giá trị pH
< 5,5 đang có xu hướng tăng lên, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Việt Trì, Đà Nẵng,
….
Trong số các vị trí quan trắc của khu vực miền Bắc và miền Trung thì Hoà Bình, Hà Nội,
Việt Trì và Đà Nẵng có giá trị pH thấp hơn nhiều hơn so với các vị trí khác, trong đó pH nhỏ
nhất là 4,02 đo được tại Đà Nẵng vào năm 2004. Tần suất xuất hiện pH acid ở Hoà Bình, Hà Nội
và Việt Trì tương ứng là 25% (2000-2004), 12,34%(1997-2004) và 11% (1997-2000). Chủ yếu
các mẫu pH acid đo được vào giai đoạn mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm khi lượng
mưa giảm xuống. Ngoài giá trị pH, nồng độ các ion ở những vị trí này cũng cao hơn so với các vị
trí khác. Trong đó tỷ lệ NH4+/(SO42- + NO3-) có thể chỉ ra nguồn có khả năng tạo ra các ion này
và nguyên nhân của sự thay đổi pH. Từ số liệu quan trắc ta thấy tỷ lệ này dao động trong các
mẫu nước mưa có giá trị pH thay đổi.


(Tài liệu: Hội

thảo khoa

học lần thứ 9

-Viện khí

tượng thủy văn,
ThS. Trần Thị

Diệu Hằng)


Trong các bảng số liệu và các kết quả đã có, báo cáo đã cho thấy mức độ lắng đọng
acid ở một số tỉnh thành của Việt Nam và cho thấy rằng ở nhiều thành phố lớn như Hà
Nội, Việt Trì, Đà Nẵng,…đã xuất hiện mưa acid.

1.5 PHƯƠNG PHÁP NGĂN CHẶN MƯA ACID
Một điều nghịch lí là chống ô nhiễm, áp dụng xung quanh cơ sở sản xuất điện lại góp
phần reo rắc mưa acid trên diện rộng. Do nhà máy buộc phải xây ống khói thật cao nhằm tránh ô
nhiễm môi tường ở địa phương, các hóa chất tạo ra acid lan tỏa đi xa hằng trăm ngàn km khỏi
nguồn.
-

Để giảm lượng khí thải SO2 từ các nhà máy nhiệt điện phải lắp đặt hệ thống khử sunfua. Các
nhà máy nhiệt điện khi lắp đặt hệ thống này sẽ bán điện với giá cao hơn, tuy nhiên quy định này
không đễ thực hiện với các nhà máy nhiệt điện đã lâu đời, vì chi phí lắp đặt hệ thống này là quá

-


lớn nó chiếm khoảng 1/3 tổng đầu tư xây dựng một nhà máy nhiệt điện.
Xây dựng các biện pháp chuẩn xác hơn để dự báo mức độ của các chất gây ô nhiễm trong khí
quyển và nồng độ các khí nhà kính có khả năng gây ra sự can thiệp đối với hệ thống khí hậu và

-

đối với môi trường nói chung.
Hiện đại hóa các hệ thống năng lượng đang tồn tại đẻ tạo ra tính hiệu suất năng lượng và phát
triển nguồn năng lượng mới , tái sinh như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thủy triều, sức

-

động vật và sức ngườ…
Giúp dân hiểu biết về việc làm thế nào để phát triển và sử dụng các năng lượng có hiệu quả hơn
và ít ô nhiễm hơn. Điều phối các kế hoạch năng lượng khu vực để làm sao các dạng năng lượng

-

phù hợp về mặt môi trường có thể được tạo ra và phân phối một cách hiệu quả.
Đẩy mạnh việc đánh giá môi trường và các cách ra quyết định khác để làm sao tổng hòa được

-

các chính sách về năng lượng, môi trường và kinh tế với nhau theo một cách bền vững.
Phát triển các chương trình nhãn hiệu hóa về tính hiệu suất năng lượng cho người tiêu dùng biết.
Nâng cao các tiêu chuẩn về quốc gia, về hiệu uất năng lượng, khí phát thải và nâng cao nhận

-


thức của công chúng về các hệ thống năng luowngjphuf hợp về mặt môi trường.
Phát triển giao thông vận tải công cộng ở các thành phố và nông thôn theo hướng hiệu quả rẻ tiền
ít ô nhiễm và an toàn, cùng với nhân dân bản xứ và các cộng đồng địa phương khác.
Một số biện pháp đề xuất :
a. Đối với SO2:


Sử dụng phương pháp đốt fluidized bed.
Xử lý khí thải bằng phương pháp lọc ướt, sử dụng dung dịch nước vôi hoặc xút để làm
chất hấp thụ. Phản ứng xảy ra như sau:
CaCO3 + SO2 + H2O + O2 ----> CaSO4 + CO2 + H2O
b. Đối với NOx:
Sử dụng phương pháp đốt gọi là "Overfire Air". Theo phương pháp này một phần không
khí cần thiết cho quá trình đốt sẽ được chuyển hướng lên phía trên của buồng đốt. Làm như vậy,
quá trình đốt sẽ diễn ra trong điều kiện có ít oxy hơn và làm giảm quá trình oxy hóa nitơ trong
không khí thành NOx.
Xử lý khí thải bằng chất xúc tác. Trong quá trình này người ta cho ammonia tác dụng với
NO trong một buồng xúc tác.
4NO + 4 NH3 + O2 ----> 4N2 + 6 H2O
2NO2 + 4 NH3 + O2 ---> 3N2 + 6 H2O
Trong các động cơ xe người ta gắn thêm một bộ phận lọc khí có hình tổ ong được mạ
platinum, pallandium hoặc Rhodium. Ở tại bộ phận này sẽ diễn ra phản ứngoxy hóa, phản ứng
khử để biến NOx, CO2 và các HCs thành các chất khí không gây hại.

2 KẾT LUẬN
Mưa axit là pH của nước mưa nhỏ hơn giá trị 5,6
Mưa axit có tác hại rất là to lớn:
- Phá hoại các công trình kiến trúc, các di tích lịch sử
- Tác động đến sản xuất nông lâm nghiệp: phá hoại cây cối, mùa màng...
- Tác động tới sức khỏe con người

Hạn chế mưa axit trên phương diện sản xuất nông nghiệp:
- Loại bỏ lưu huỳnh, nitrat trong các nguyên liệu đốt


- Sử dụng các loại chế phẩm vi sinh vật có khả năng phân giải chuyển hóa
H2S và phản Nitrat hóa để hạn chế việc bốc hơi của chúng vào môi trường.
- Sử dụng các loại phân đạm hợp lý và hiệu quả...


3 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PGs.TS. Đặng Kim Chi:"Hóa học môi trường", tập 1, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, HN 2001, tr
83 - 84.
- ThS. Trần Thị Diệu Hằng: Tài liệu: “Hội thảo khoa học lần thứ 9 -Viện khí tượng thủy văn”
- TS. Nguyễn Hồng Khánh:Giáo trình “Hóa học khí quyển” , Hà Nội, 2007
- ThS. Nguyễn Thị Kim Lan: “Hiện trạng mưa axit khu vực Nam Bộ (1996-2005)”, Tuyển tập
báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
- Lê Văn Quang: Phòng GD&DDT Cam Ranh, chuyên đề “Mưa axit”
- Gs.TS. Vũ Hữu Yêm: Bài giảng môn học: “Ô nhiễm môi trường đất và biện pháp khắc phục”
- />- />- moitruong.com
- wikipedia.com



×