Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đối chiếu từ đồng nghĩa trong tiếng anh và tiếng việt trên bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.7 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ LỆ DUNG

ĐỐI CHIẾU TỪ ĐỒNG NGHĨA
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
TRÊN BÌNH DIỆN NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG

Chuyên ngành:

Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu

Mã số:

62.22.02.41

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại:

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI
VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn


Đức Tồn.TS. Lâm

Quang Đông
Phản biện 1: GS.TS .Hoàng Văn Vân
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Hồng Cổn
Phản biện 3: PGS.TS Phạm Hùng Việt

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 201...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, xu thế hội nhập thế giới đang ngày càng phát triển, việc
tiếp xúc giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đồng văn hoá – ngôn ngữ
ngày càng mở rộng. Như một hệ quả tất yếu, việc dạy và học tiếng Anh đã
trở thành một nhu cầu khách quan cần thiết nhằm đáp ứng việc trao đổi,
giao tiếp giữa các cộng đồng ngôn ngữ - văn hoá khác nhau. Từ thực tế đó,
nhiều công trình đối chiếu giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt đã ra đời để tìm
ra các đặc điểm tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ phục vụ cho việc
giảng dạy tiếng trong nhà trường, biên soạn các loại từ điển và tài liệu phục
vụ cho việc biên phiên dịch...
Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu đối chiếu giữa các ngôn
ngữ nói chung, giữa tiếng Anh và tiếng Việt nói riêng, xưa nay các nhà

nghiên cứu thường đối chiếu các hiện tượng thuộc bình diện ngữ âm - âm vị,
ngữ pháp hoặc các trường từ vựng - ngữ nghĩa cụ thể để chỉ ra những điểm
tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ nhằm phục vụ cho mục đích
khác nhau, trong đó có việc dạy và học ngoại ngữ. Riêng sự đối chiếu từ
đồng nghĩa giữa các ngôn ngữ nói chung, giữa tiếng Anh và tiếng Việt nói
riêng, cho đến nay hầu như chưa được thực hiện trong công trình lí luận
chuyên biệt nào. Đây là công việc rất khó khăn và phức tạp bởi nó đòi hỏi
nhà nghiên cứu không những phải nhận ra được sự giống nhau và khác biệt
ngữ nghĩa giữa các từ đồng nghĩa trong mỗi ngôn ngữ mà còn phải chỉ ra
được sự giống và khác nhau giữa các từ đồng nghĩa tương ứng với nhau
giữa hai ngôn ngữ được đối chiếu.
Chính vì thế việc nghiên cứu đối chiếu các từ đồng nghĩa trong tiếng
Anh và tiếng Việt là một đề tài có tính cấp thiết. Do vậy, luận án đặt vấn đề
nghiên cứu “Đối chiếu từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt trên
bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng đến mục đích:
- Nhằm phục vụ việc dạy và học tiếng Anh và tiếng Việt như một
ngoại ngữ, nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ cho người học;
- Phục vụ cho việc biên soạn từ điển giải thích, từ điển đối chiếu từ
đồng nghĩa và công tác biên phiên dịch giữa hai ngôn ngữ Anh –Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, luận án sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu từ đồng nghĩa và đối chiếu từ đồng
nghĩa trên thế giới cũng như ở Việt Nam;
- Xác định những cơ sơ lí thuyết và phương pháp nghiên cứu liên
quan đến đề tài;
1



- Thu thập từ các cuốn từ điển đồng nghĩa tiếng Anh và tiếng Việt một
số dãy từ đồng nghĩa có các từ trung tâm của dãy có ý nghĩa tương đương
với nhau để làm ngữ liệu đại diện phục vụ cho việc nghiên cứu đối chiếu;
- Đối chiếu các dãy từ đồng nghĩa đã được thu thập để chỉ ra những
điểm giống và khác nhau của chúng về phương diện ngữ nghĩa và ngữ
dụng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các từ đồng nghĩa trong tiếng Anh
và tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là phương diện ngữ nghĩa và ngữ
dụng của các từ đồng nghĩa tiếng Anh trong sự đối chiếu với tiếng Việt và
chỉ nghiên cứu nghĩa gốc của các từ đồng nghĩa. Luận án cũng chỉ nghiên
cứu các thông tin ngữ dụng đã có sẵn, được cố định hóa, từ vựng hóa của
các từ đồng nghĩa.
3.3. Tư liệu nghiên cứu
Chúng tôi áp dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp, lựa chọn
một số dãy đồng nghĩa có từ trung tâm mang ý nghĩa tương đương nhau
trong hai ngôn ngữ thuộc những từ loại khác nhau từ các cuốn từ điển từ
đồng nghĩa, sổ tay dùng từ, các từ điển giải thích và từ điển đối chiếu song
ngữ Anh-Việt. Các dãy từ đồng nghĩa được thu thập theo cách đó được coi
là tư liệu đại diện để phục vụ cho sự phân tích đối chiếu. Tuy nhiên, luận án
có sự ưu tiên đối chiếu nhiều hơn các dãy động từ và tính từ đồng nghĩa do
hiện tượng đồng nghĩa xuất hiện phổ biến hơn ở hai từ loại này so với danh
từ nhờ ý nghĩa biểu niệm nổi trội của chúng như đã nêu.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng

để xem xét phân tích ngữ nghĩa và ngữ dụng của mỗi từ đồng nghĩa trong
mối quan hệ hệ thống với các đơn vị khác trong mỗi dãy từ đồng nghĩa nói
riêng, trong hệ thống từ vựng của mỗi ngôn ngữ nói chung, và trong mối
quan hệ với thực tế khách quan của mỗi cộng đồng bản ngữ Anh và Việt.
4.2.Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây.
- Phương pháp đối chiếu
Phương pháp này được sử dụng để đối chiếu các dãy từ đồng nghĩa
tương đương nhau về ý nghĩa giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt nhằm tìm ra
những nét tương đồng và khác biệt về ngữ nghĩa và ngữ dụng của chúng.
- Phương pháp miêu tả

2


Đây là phương pháp quan trọng để miêu tả hoạt động của các từ đồng
nghĩa trong ngữ cảnh sử dụng nhằm chỉ ra sự giống nhau và khác nhau về
ngữ nghĩa và ngữ dụng của chúng khi đối chiếu.
- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa
Phương pháp phân tích thành tố nghĩa được sử dụng để phân tích cấu
trúc nghĩa của các từ đồng nghĩa nhằm xác định các nét nghĩa khu biệt của
chúng, từ đó có thể chỉ ra các nét nghĩa giống và khác nhau giữa chúng.
- Thủ pháp thống kê
Thủ pháp này được sử dụng để chỉ ra mức độ phổ biến qua số
lượng, tần số xuất hiện của các hiện tượng ngữ nghĩa và ngữ dụng của các
từ đồng nghĩa được đối chiếu trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Ngoài ra chúng tôi còn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu từ
đồng nghĩa do Nguyễn Đức Tồn đề xuất. Đó là:
- Thủ pháp dùng kết cấu đồng nhất “A là B”, đảo lại “B là A” để
xác định các đơn vị đồng nghĩa. Thủ pháp này được sử dụng để loại bỏ các

từ không đồng nghĩa với từ trung tâm của dãy đồng nghĩa nhưng lại được
các soạn giả từ điển đưa vào dãy đồng nghĩa, chẳng hạn, các từ chỉ cùng
chủ đề với từ trung tâm, như ao, hồ, đầm, ...
- Phương pháp xác lập ngữ cảnh trống để tìm sự khu biệt ngữ nghĩa
của các đơn vị đồng nghĩa.
-Phương pháp nghiên cứu trường hợp được sử dụng để nghiên cứu
trên một số dãy đồng nghĩa đại diện trong tiếng Anh và tiếng Việt được
chọn theo tiêu chí: có từ trung tâm của dãy đồng nghĩa với nhau ở nghĩa gốc
và có số lượng các đơn vị trong dãy đủ lớn để có thể đối chiếu chỉ ra được
sự tương đồng và khác biệt về ngữ nghĩa và ngữ dụng giữa hai ngôn ngữ
theo yêu cầu của Ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu đối chiếu các từ đồng
nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt, do vậy đây cũng là công trình đầu tiên
trong nghiên cứu ngôn ngữ học chỉ ra cụ thể những điểm giống nhau và
khác nhau về ngữ nghĩa và ngữ dụng của các từ đồng nghĩa, phục vụ hữu
ích cho việc dạy và học tiếng Anh và tiếng Việt như một ngoại ngữ, phục
vụ cho việc biên soạn từ điển giải thích, từ điển đối chiếu từ đồng nghĩa và
công tác biên phiên dịch giữa hai ngôn ngữ Anh –Việt.
Đồng thời
các kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung, làm sâu sắc thêm và phát triển lí
thuyết về từ đồng nghĩa vốn còn ít được nghiên cứu ở Việt Nam. Ngoài ra
luận án còn có đóng góp nhất định trong việc đề xuất cách thức đối chiếu
các từ đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận

3



Luận án là công trình đầu tiên làm sáng tỏ được đặc trưng ngữ nghĩa,
ngữ dụng của các từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt. Từ đó các
kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung, làm sâu sắc thêm và phát triển lí
thuyết về từ đồng nghĩa vốn còn ít được nghiên cứu ở Việt Nam. Ngoài ra
luận án còn có đóng góp nhất định trong việc đề xuất cách thức đối chiếu
các từ đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của luận án giúp ích cho việc phân tích cái
hay, cái đẹp về phương tiện biểu đạt của tiếng Anh và tiếng Việt; phục vụ
thiết thực cho việc giảng dạy và học tập tiếng Anh trong nhà trường cũng
như giúp người nước ngoài học tiếng Việt thuận lợi hơn. Kết quả nghiên
cứu còn có thể được sử dụng để biên soạn từ điển giải thích, từ điển từ đồng
nghĩa và từ điển đối chiếu từ đồng nghĩa giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt;
biên soạn tài liệu giảng dạy biên dịch và phiên dịch giữa hai ngôn ngữ Anh
và Việt.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2 : Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài của luận án
Chương 3: Đối chiếu từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt trên
bình diện ngữ nghĩa
Chương 4: Đối chiếu từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt trên
bình diện ngữ dụng.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. DẪN NHẬP
Các từ đồng nghĩa và kết cấu ngữ pháp đồng nghĩa có ý nghĩa rất to
lớn giúp chúng ta biểu hiện được tư tưởng, tình cảm của mình một cách
chính xác hơn, có thể tránh được sự diễn đạt trùng lặp. Chính vì vậy, từ lâu

các nhà nghiên cứu đã rất quan tâm đến việc nghiên cứu hiện tượng đồng
nghĩa. Nhiều công trình nghiên cứu về từ đồng nghĩa trong các ngôn ngữ đã
ra đời.
1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI VỀ
TỪ ĐỒNG NGHĨA
Hiện tượng từ đồng nghĩa đã được các nhà thông thái La Mã quan tâm
và chỉ ra rằng chúng không chỉ có sự giống nhau mà còn có cả những sự
khác biệt nhau về ý nghĩa.
Thế kỉ XVII người Pháp đã xác định được bản chất của từ đồng
nghĩa, chẳng hạn, Gira (1718), B. Lafaye (1857) Thế kỉ XX, Bally (1947),
Henri Benac (1956) đã lần lượt xuất bản các từ điển từ đồng nghĩa, trong
4


đó có bàn về khái niệm thế nào là từ đồng nghĩa.
Thế kỉ XIX và XX, ở Đức cũng đã xuất bản nhiều cuốn từ điển từ
đồng nghĩa, chẳng hạn, của các tác giả như: J. B. Mayer (1841), D. Saunde
(1871), J. Eberhand (1910), Hoffman (1936), Herbent Gurner und G'unter
Kempske (1974).
Ở Anh - Mỹ cũng có nhiều từ điển từ đồng nghĩa đã được xuất bản,
thông dụng và được phổ biến hơn cả là các cuốn: "Từ điển từ đồng nghĩa và
cụm từ đồng nghĩa tiếng Anh" (A dictionary of English Synonyms and
Synonymous expressions) của R. Soule (1938); "Từ điển từ đồng nghĩa"
(Dictionary of Synonyms) của Webster được xuất bản ở Mỹ năm 1951.
Thành tựu chủ yếu về từ đồng nghĩa ở phương Tây là biên soạn các từ
điển từ đồng nghĩa. Các công trình nghiên cứu dành riêng cho vấn đề lí
thuyết từ đồng nghĩa chưa có nhiều.
Thành tựu nghiên cứu về lí thuyết từ đồng nghĩa và biên soạn các từ
điển từ đồng nghĩa nhiều nhất là ở nước Nga, đặc biệt là ở thời kì Xô viết,
chẳng hạn, các từ điển từ đồng nghĩa của các tác giả như:P. Berưnđa (1627),

D. I. Fônvizin (1783), P. Kalaiđôvích (1818), Galich (1840), V. N. Kliueva
(1956, in lại lần thứ 2 có sửa đổi và bổ sung năm 1961), Z. E.
Alếchsanđrôva (1975), v.v...
Bên cạnh các cuốn từ điển từ đồng nghĩa, ở Liên Xô trước đây còn có
những bài viết, chuyên luận của nhiều tác giả bàn các vấn đề lí luận về từ
đồng nghĩa, chẳng hạn, I. I. Đavưđốp (thế kỉ XIX), V. K. Favôrin (1953), A.
B. Sapir " (1955), Công trình của V. A. Sirotina (1970), E. M. Bêrêgốpskaia
(1962), Ju.D. Apresjan (1974), v.v...
Các nhà nghiên cứu đã có được hàng loạt những quan sát đúng
đắn: Các từ đồng nghĩa được định nghĩa là các từ gần gũi nhưng không
đồng nhất về ý nghĩa (trong số các từ đồng nghĩa người ta đã tách riêng ra
các từ gọi tên cùng một sự vật). Chúng là chỉ tố về tính chất đã phát triển,
về sự phong phú, uyển chuyển của một ngôn ngữ và để phục vụ cho sự đa
dạng hóa cách biểu hiện tư tưởng. Các từ đồng nghĩa khu biệt nhau về mặt
phong cách, về mức độ của đặc trưng, về khả năng kết hợp với phạm vi từ
nào đó. Lĩnh vực từ đồng nghĩa là lĩnh vực các từ có ý nghĩa trừu tượng.
Tuy nhiên, những điểm này mới chỉ là những quan sát riêng lẻ chưa được
luận giải đầy đủ và cũng chưa được chứng minh đủ tin cậy. Còn nhiều vấn
đề chưa được nghiên cứu kĩ, thậm chí người ta còn chưa hiểu bản chất của
từ, các mối liên hệ của nó với những từ khác.
Các nghiên cứu về đồng nghĩa từ vựng ở Liên Xô trước đây cho phép
quy tất cả các định nghĩa về từ đồng nghĩa được đưa ra trong các công trình
khoa học vào hai loại:
Loại 1. Định nghĩa các từ đồng nghĩa là những từ có âm khác nhau,
gần gũi nhưng không đồng nhất về ý nghĩa.
5


Loại 2. Định nghĩa từ đồng nghĩa là những từ biểu thị cùng một hiện
tượng của hiện thực khách quan, nhưng khác nhau về sắc thái ý nghĩa,

thuộc tính phong cách, v.v...
Nhiều nhà ngôn ngữ học phươngTây, chẳng hạn, Cruse, Murphy,
Alston, O’grady, Radford,Palmer, Church và cộng sự, Lyons, Filippov, v.v...
đã nghiên cứu về hiện tượng đồng nghĩa từ vựng, khám phá những khía
cạnh phức tạp của các mối quan hệ ngữ nghĩa trong tổng thể các nghĩa của
từ và đặc biệt là cố gắng xác định từ đồng nghĩa và phân tích cách mà từ
đồng nghĩa hành chức khi được thay thế vào trong các câu. Các học giả
phương Tây đã đi đến kết luận sự đồng nghĩa tuyệt đối là rất hiếm bởi vì
khi hai từ có ngữ nghĩa giống hệt nhau thì hoặc là một trong hai từ biến mất
hoặc phát triển một ý nghĩa mới.
Một số nhà khoa học Phương Tây khác nghiên cứu các dãy từ đồng
nghĩa cụ thể trong tiếng Anh. Chẳng hạn: Church và các cộng sự (1994);
Atkins và Levin (1995);Clift (2003); Taylor (2003); Saeed và Fareh (2006);
Gesuato (2007); Cappuzzo (2010); v.v...
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC VỀ TỪ ĐỒNG
NGHĨA
Cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam gián tiếp đề cập ít nhiều đến từ đồng
nghĩa tiếngViệt là cuốn Tinh nghĩa Việt ngữ từ điển của Long Điền –
Nguyễn Văn Minh (Hà Nội, 1951).Từ năm 1958 đến năm 1962, vấn đề lí
luận từ đồng nghĩa lần đầu được đề cập đến, tuy mới ở mức khái lược, trong
cuốn Khái luận ngôn ngữ học (1960). Việc nghiên cứu về từ đồng nghĩa
đang ngày một phát triển với các nghiên cứu ở nhiều cấp độ, từ các bài báo
khoa học, luận văn thạc sĩ cho tới các luận án tiến sĩ và đề tài nghiên cứu cơ
sở và cấp Bộ. Nhiều nhà nghiên cứu đã rất quan tâm đến từ đồng nghĩa, như
Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Thiện Giáp, Mai Ngọc Chừ, Hoàng Trọng Phiến,
Vũ Đức Nghiệu, Đỗ Hữu Châu, v.v...Đặc biệt, năm 2006, Nguyễn Đức Tồn
đã xuất bản công trình Từ đồng nghĩa tiếng Việt (tái bản năm 2010). Đây là
công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc
các vấn đề liên quan đến từ đồng nghĩa trong các ngôn ngữ nói chung, trong
tiếng Việt nói riêng. Tác giả đã đưa ra định nghĩa về từ đồng nghĩa trong đó

có chỉ rõ các mức độ đồng nghĩa và thao tác để nhận diện các tiểu loại từ
đồng nghĩa tương ứng; đề xuất cách lập dãy từ đồng nghĩa với một từ cho
trước và phương pháp tìm các nét nghĩa khu biệt của các từ đồng nghĩa.
1.4.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐỒNG NGHĨA
ANH-VIỆT
Cho đến nay, ở Việt Nam cũng như ở Anh Quốc chủ yếu mới có các
công trình nghiên cứu lí luận về từ đồng nghĩa và biên soạn từ điển đồng
nghĩa. Hiện nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu đối chiếu toàn diện, có
hệ thống từ đồng nghĩa tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện ngữ nghĩa và
6


ngữ dụng. Do vậy luận án của chúng tôi là công trình đầu tiên dành cho đề
tài này.
1.5. TIỂU KẾT
Hiện tượng từ đồng nghĩa đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước quan tâm từ rất lâu. Nhìn chung, các công trình chủ yếu là các từ điển
từ đồng nghĩa. Các công trình nghiên cứu lí luận về từ đồng nghĩa không
nhiều, trong đó chủ yếu bàn về khái niệm từ đồng nghĩa, sự phân loại và các
thủ pháp nhận diện chúng. Công trình Từ đồng nghĩa tiếng Việt của Nguyễn
Đức Tồn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc
các vấn đề liên quan đến từ đồng nghĩa trong các ngôn ngữ nói chung, trong
tiếng Việt nói riêng.
Cho đến nay, ở Việt Nam cũng như ở Anh Quốc hầu như chưa có
công trình nào nghiên cứu đối chiếu toàn diện từ đồng nghĩa tiếng Anh và
tiếng Việt trên bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng. Do vậy luận án chúng tôi
là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
Chương 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
2.1 PHÂN BIỆT CÁC KHÁI NIỆM: HIỆN TƯỢNG ĐỒNG NGHĨA,

ĐƠN VỊ TỪ VỰNG ĐỒNG NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG NGHĨA
Từ đồng nghĩa là trường hợp riêng quan trọng nhất nằm trong các
đơn vị từ vựng đồng nghĩa và “đơn vị từ vựng đồng nghĩa, từ đồng nghĩa”
đều thuộc “hiện tượng đồng nghĩa” của ngôn ngữ.
2.2 CÁC THỦ PHÁP NHẬN DIỆN TỪ ĐỒNG NGHĨA
Các thủ pháp truyền thống để nhận diện từ đồng nghĩa gồm: sử dụng
ngữ cảnh hoặc dựa vào trường nghĩa. Các thủ pháp này có hiệu lực hạn chế
khi nhận diện các từ đồng nghĩa. Do vậy, Nguyễn Đức Tồn đã đề xuất một
thủ pháp mới, đó là: Sử dụng kết cấu đồng nhất “A là B” và đảo lại “B là
A”: Hai đơn vị từ vựng nào đó xuất hiện được trong kết cấu đồng nhất này
thì là từ đồng nghĩa.
2.3. QUAN NIỆM CỦA LUẬN ÁN VỀ TỪ ĐỒNG NGHĨA
Để làm việc, chúng tôi tán thành với định nghĩa về từ đồng nghĩa của
Nguyễn Đức Tồn:
“Hai đơn vị từ vựng/từ được gọi là đồng nghĩa khi chúng có vỏ ngữ
âm khác nhau biểu thị các biểu vật hoặc/ và biểu niệm giống nhau và:
a/ Nếu chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu “A là B” và đảo lại được
“B là A” mà không cần phải chỉnh lí bằng cách thêm bớt nét nghĩa gì vào
một trong hai đơn vị/từ thì đó là những đơn vị từ vựng/từ cùng nghĩa.
b/ Nếu như để chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu “A là B” và đảo
lại được “B là A” cần có sự chỉnh lí, thêm bớt nét nghĩa nào đó vào một
trong hai đơn vị/từ thì đó là những đơn vị từ vựng/từ gần nghĩa”.

7


2.4. HIỆN TƯỢNG CHUYỂN NGHĨA CỦA TỪ VÀ TỪ ĐỒNG
NGHĨA
Sự phát triển nghĩa của từ chủ yếu dựa trên hai quy luật là chuyển
nghĩa ẩn dụ và chuyển nghĩa hoán dụ. Trong quá trình phát triển ngữ nghĩa,

các nghĩa cũ và nghĩa mới của từ có mối quan hệ với nhau theo cách nào đó.
Các nghĩa mới (nghĩa phái sinh) thường được nảy sinh trên cơ sở nghĩa ban
đầu của từ hoặc trên cơ sở một hay vài nét nghĩa cơ bản trong cấu trúc biểu
niệm của từ. Chính sự chuyển nghĩa, sự phát triển ý nghĩa của từ đã làm
nảy sinh các từ đồng nghĩa. Hai từ vốn không đồng nghĩa với nhau, do
phát triển thêm các nghĩa phái sinh, chúng trở nên có quan hệ đồng nghĩa.
Ví dụ: do sự phát triển thêm các nghĩa phái sinh mà ăn đã trở nên đồng
nghĩa với hợp, với thắng, với hưởng, v.v...Trong quá trình đối chiếu các
từ đồng nghĩa giữa tiếng Anh và tiếng Việt, nhiều trường hợp các từ trong
dãy đã đồng nghĩa với nghĩa gốc của từ trung tâm theo nghĩa phái sinh (x.
Chương 3).
2.5. TRƯỜNG TỪ VỰNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỪ ĐỒNG
NGHĨA
2.5.1. Lí thuyết trường từ vựng
Theo Đỗ Hữu Châu: “Trường từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ
vựng căn cứ vào một nét đồng nhất nào đó về nghĩa.” Một từ nhiều nghĩa có
thể thuộc nhiều trường từ vựng khác nhau. Điều này tạo ra hiện tượng giao
thoa giữa các trường. Khi nghiên cứu, chúng tôi chỉ đối chiếu các từ đa
nghĩa đồng nghĩa nhau ở nghĩa gốc đầu tiên thuộc cùng một trường từ vựng.
2.5.2. Dãy đồng nghĩa và vấn đề chọn từ trung tâm của dãy đồng nghĩa
Luận án xét đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của các dãy từ đồng nghĩa
trong tiếng Việt và tiếng Anh cho nên chúng tôi sử dụng lí thuyết về trường
từ vựng để giải quyết vấn đề phân lập các dãy đồng nghĩa, chọn từ trung
tâm của dãy đồng nghĩa.... Bởi các tập hợp từ đồng nghĩa thì nhất thiết cùng
nằm trong một trường từ vựng, tuy nhiên, không phải bất cứ những tập hợp
từ cùng trường nào cũng là các từ đồng nghĩa. Để tránh nhầm lẫn đưa cả
những từ cùng chủ đề vào một dãy đồng nghĩa, đồng thời vẫn giúp thấy
được mối liên hệ giữa các từ đồng nghĩa, có thể áp dụng lí thuyết trường từ
vựng vào đối chiếu các dãy từ đồng nghĩa, nhất là khi các từ đồng nghĩa cần
đối chiếu có số lượng khá lớn, sự giống nhau về ý nghĩa của chúng so với ý

nghĩa của từ trung tâm của dãy đồng nghĩa có mức độ khác nhau thì phải
tách các từ đồng nghĩa này thành các dãy khác nhau. Khi đó các dãy từ
đồng nghĩa được tách ra này tạo thành một “tiểu trường từ vựng đồng
nghĩa.”
Từ trung tâm của một dãy đồng nghĩa không chỉ đại diện cho mỗi
dãy từ đồng nghĩa, mà còn có thể được dùng để giải thích nghĩa cho các
từ đồng nghĩa trong dãy.
8


Để xác định từ trung tâm, cần chú ý có hai trường hợp: Một là, dãy
đồng nghĩa chỉ có các từ cùng nghĩa, nghĩa là các từ có ý nghĩa lô gích - sự
vật tính như nhau hoàn toàn, chúng chỉ khác nhau ở các sắc thái phụ về
phong cách - biểu cảm, phạm vi sử dụng, ví dụ: máy bay - phi cơ (cũ);
thuyền - ghe (đph.), mật thám – lính kín (cũ; kng), v.v...Từ được chọn làm
từ trung tâm là từ gốc, ở dạng đầy đủ, có ý nghĩa trực tiếp (tức nghĩa đen).
Ví dụ: (các từ trung tâm được in nghiêng): pháo - đại bác - ca nông (cũ);
cha - bố (kng.) - thầy (đph.) - ba (đph.), tía (đph.)
Hai là, các từ trong dãy là những từ gần nghĩa.
- Dãy đồng nghĩa gồm từ gốc và các từ phái sinh từ từ gốc đó (kí
hiệu:A, Ab, Ac, Ad...). Từ trung tâm được chọn là từ gốc (A) do nghĩa của
nó rộng hơn, bao quát hơn cả. Ví dụ: quên - quên béng - quên khuấy - quên
lửng - quên lãng; rõ - rõ ràng - rõ rệt - rành - rõ rành v.v.
- Khi dãy gồm các từ gần nghĩa không có chung yếu tố gốc, hoặc yếu
tố gốc chung có nghĩa hẹp hơn cả, từ toàn dân, trung tính, có ý nghĩa rộng
hơn, bao quát hơn sẽ được chọn làm "từ trung tâm".Ví dụ: máu (chất lỏng
màu đỏ chảy trong các mạch của người và động vật...), huyết ((kết hợp hạn
chế) máu của người), tiết (máu của một số loài động vật dùng làm món ăn).
2.6 NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG CỦA TỪ
2.6.1 Ngữ nghĩa của từ

2.6.1.1. Khái niệm nghĩa từ
Để làm việc, chúng tôi theo quan điểm: nghĩa của từ là sự hiểu biết
cùng với xúc cảm kèm theo xuất hiện (hay được gợi lên) trong trí óc người
bản ngữ về sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất, quan hệ.... mà từ biểu
thị khi nghe thấy (hoặc đọc) từ ấy. Ngữ nghĩa của từ luôn gồm có 3 thành tố
sau đây:Thành tố 1 là sự vật/khái niệm mà từ biểu thị; Thành tố 2 là sắc thái
biểu cảm - phong cách; Thành tố 3 là phạm vi sử dụng...Sự đối chiếu các từ
đồng nghĩa tiếng Anh và tiếng Việt được dựa theo ba thành tố này trong
nghĩa của từ.
2.6.1.2. Khái niệm cấu trúc tham tố của động từ
Khi đối chiếu các động từ đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ, để phân
biệt ý nghĩa các đơn vị từ vựng đồng nghĩa là động từ chúng tôi sẽ dựa vào
cấu trúc tham tố của các động từ. Cụ thể là cần dựa theo các tham tố sau:
diễn tố/tác tố và chu tố (hay còn gọi là trạng tố) trong cấu trúc tham tố của
động từ.
2.6.2. Ngữ dụng của từ
Theo Ju. D. Apresjan, ngữ dụng là thái độ (hay quan hệ) của người
nói đã được củng cố trong đơn vị ngôn ngữ (từ vị, phụ tố, kết cấu cú pháp)
đối với: 1) hiện thực, 2) nội dung của thông báo, 3) người nghe.
Các từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt có thể được đối
chiếu với nhau theo các phương diện ngữ dụng đã nêu trong định nghĩa trên
9


2.7. TIỂU KẾT
Để triển khai đề tài, luận án dựa vào các cơ sở lí thuyết chủ yếu sau:
Dựa vào định nghĩa từ đồng nghĩa trên cơ sở thủ pháp nhận diện từ
đồng nghĩa là: Sử dụng kết cấu đồng nhất “A là B” và đảo lại “B là A”.
Ngoài ra, chương này còn trình bày vấn đề chọn Từ trung tâm của một dãy
đồng nghĩa; khái niệm nghĩa của từ và các thành tố của nó để làm cơ sở

cho sự đối chiếu các từ đồng nghĩa, gồm: Thành tố sự vật/khái niệm mà từ
biểu thị; Thành tố sắc thái biểu cảm - phong cách;Thành tố phạm vi sử dụng.
Luận án cũng sử dụng cấu trúc tham tố của động từ, bao gồm các
tham tố diễn tố và chu tố (hay còn gọi là trạng tố) để tìm sự khu biệt ngữ
nghĩa của các động từ đồng nghĩa nhau.
Trên bình diện ngữ dụng, các từ đồng nghĩa có thể được đối chiếu
theo thái độ (hay quan hệ) của người nói đã được củng cố trong đơn vị ngôn
ngữ đối với: 1) hiện thực, 2) nội dung của thông báo, 3) người nghe.
Chương 3
ĐỐI CHIẾU TỪ ĐỒNG NGHĨA TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
TRÊN BÌNH DIỆN NGỮ NGHĨA
3.1. DẪN NHẬP
Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp
nghiên cứu trường hợp bằng cách lựa chọn để phân tích đối chiếu ngữ nghĩa
một số dãy từ đồng nghĩa tiêu biểu mà từ trung tâm của mỗi dãy đồng nghĩa
có ý nghĩa tương ứng nhau trong tiếng Anh và tiếng Việt để rút ra những
điểm tương đồng và khác biệt của các từ đồng nghĩa giữa hai ngôn ngữ
được đối chiếu.
3.2. ĐỐI CHIẾU NGỮ NGHĨA TỪ ĐỒNG NGHĨA TRONG TIẾNG
ANH VÀ TIẾNG VIỆT
3.2.1 Đối chiếu các động từ đồng nghĩa
3.2.1.1. Đối chiếu ngữ nghĩa các dãy động từ đồng nghĩa:
DEFEND, PROTECT, SHIELD, GUARD, SAFEGUARD và
a) BẢO VỆ, GIỮ GÌN,GÌN GIỮ, CHE CHỞ, BẢO HỘ
b) ĐỀ PHÒNG, PHÒNG NGỪA, PHÒNG THỦ, CANH, GÁC, CANH
GÁC, CANH GIỮ, CANH PHÒNG
a) BẢO VỆ, GIỮ GÌN,GÌN GIỮ, CHE CHỞ, BẢO HỘ
b) ĐỀ PHÒNG, PHÒNG NGỪA, PHÒNG THỦ, CANH, GÁC, CANH
GÁC, CANH GIỮ, CANH PHÒNG
Sự phân tích đối chiếu các dãy từ đồng nghĩa trên cho kết quả là các

động từ đồng nghĩa trong tiếng Anh cũng như tiếng Việt có sự khu biệt
nghĩa tinh tế theo đủ tất cả các tham tố của động từ: chủ thể hành động (nói
chung hay chỉ nói về lực lượng vũ trang), trạng thái của chủ thể (luôn luôn
có mặt túc trực tại vị trí cần bảo vệ hay không), phương tiện để bảo vệ (có
vũ khí / phương tiện hay không); Đối tượng cần được bảo vệ là con người,
10


hay tài sản, vị trí, đất đai….; Đối tượng gây hại cần phòng tránh là loại nào
( sự xâm phạm, tổn thất, mất mát, sự bất trắc hay cái xấu nói chung…). Tuy
nhiên, sự hiện thực hóa nét nghĩa khác biệt được thể hiện qua các tham tố
trên trong mỗi ngôn ngữ có sự khác nhau, do đó, ý nghĩa của mỗi động từ
trong hai ngôn ngữ bên cạnh những nét nghĩa trùng nhau vẫn cũng có nét
nghĩa khác nhau. Đặc biệt, tiếng Việt có nhiều từ đồng nghĩa hơn tiếng
Anh (13 so với 5) nên giữa các từ có sự phân biệt ngữ nghĩa cụ thể và tinh
tế hơn so với tiếng Anh. Do vậy, một từ tiếng Anh thường có nghĩa rộng và
khái quát hơn nên thường tương đương với ý nghĩa của cả hai hoặc trên hai
từ đồng nghĩa tiếng Việt.
3.2.1.2. Đối chiếu ngữ nghĩa các dãy động từ đồng nghĩa:
CARRY , BEAR, CONVEY, TRANSPORT, TRANSMIT và
a) MANG, ĐEM, XÁCH, BÊ, BƯNG
b) ĐEO, VÁC, GÁNH, KHIÊNG, KHUÂN, QUẨY, ĐỘI
c) CHỞ, TẢI, CHUYÊN CHỞ, VẬN CHUYỂN, CHUYỂN VẬN, VẬN
TẢI
Kết quả phân tích, đối chiếu cho thấy dãy từ đồng nghĩa tiếng Anh
cùng có ý niệm chung “làm cho đối tượng di chuyển bằng cách có nó trên
mình và chuyển dời cùng với nó tới nơi khác” có số lượng đơn vị từ vựng ít
hơn rất nhiều so với các dãy từ đồng nghĩa tiếng Việt tương ứng (SS. A: 5
từ; V: 18 từ). Các từ đồng nghĩa tiếng Việt có sự phân biệt ngữ nghĩa chi
tiết, cụ thể hơn rất nhiều so với các từ tiếng Anh, trong đó có nhiều từ chỉ

hành động vận chuyển mang tính thủ công. Các dãy từ đồng nghĩa trên khác
nhau theo các tham tố diễn tố (1,2) và chu tố (3,4,5) sau đây.
1. Chủ thể hành động vận chuyển: một người (vác, xách) hay nhiều người
(khiêng);
2. Loại đối tượng được vận chuyển: người, động vật hay đồ vật, vật có
trọng lượng nhỏ/ bình thường hay nặng, cồng kềnh, ví dụ: vật nhẹ (xách,
bưng), vật nặng hoặc cồng kềnh ( bê, vác);
3. Phương tiện vận chuyển: bằng tay (dãy a); bằng vai hoặc lưng và có thể
có kèm theo bằng dụng cụ nào đó (như đòn, quang gánh…) (dãy b); bằng
phương tiện vận tải (dãy c);
4. Phương thức hay cách thức vận chuyển (thể hiện ở nghĩa các từ trong
từng dãy), ví dụ: mang đi bằng một tay để buông thẳng xuống (xách); mang
(thường là vật nặng) bằng hai tay đưa ra phía trước, không nhấc cao lên
(bê); mang bằng hai tay đưa ngang tầm ngực hoặc bụng (bưng)…;
5. Khoảng cách vận chuyển : gần (bưng, bê) hay xa (vận chuyển, chuyên
chở).
Từ điển tiếng Anh mới nêu các từ đồng nghĩa tiếng Anh khác nhau
theo ba tham tố sau đây: 1. Tính chất của vật hay đối tượng được vận

11


chuyển; 2. Phương thức hành động; 3. Sự kết thúc – không kết thúc hành
động.
Theo chúng tôi, các từ đồng nghĩa tiếng Anh còn khác nhau ở tham
tố thứ tư cũng giống như các từ đồng nghĩa trong tiếng Việt là “Khoảng
cách vận chuyển gần hay xa” (thể hiện ở ý nghĩa các từ transsport,
transmit).
Đó là chưa kể trong tiếng Việt còn rất nhiều động từ khác chỉ hành
động mang chuyển cũng có sự phân biệt ý nghĩa theo 5 tham tố trên, như

cắp (chủ thể hành động: người; khách thể hành động: người, động vật, bất
động vật; phương tiện: tay; cách thức: kẹp vào nách hay bên sườn); cõng
(chủ thể hành động: người; khách thể hành động: người, bất động vật;
phương tiện: tay và lưng; cách thức: mang vật theo trên lưng); đèo (chủ thể
hành động: người; khách thể hành động: người, bất động vật; phương tiện:
xe đạp; cách thức: để sau yên xe đạp).
3.2.1.3. Đối chiếu ngữ nghĩa các dãy động từ đồng nghĩa:
CHOOSE, SELECT, PICK, CULL, ELECT, OPT, SINGLE OUT và
a) CHỌN, LỰA, TUYỂN, KÉN, LỌC, CHỌN LỌC, LỰA CHỌN,
CHỌN LỰA, KÉN CHỌN, TUYỂN b) CHỌN, TUYỂN LỰA
Kết quả phân tích cho thấy các từ trong dãy đồng nghĩa tiếng Anh và
tiếng Việt cùng khác nhau theo các tham tố chu tố sau đây: 1. Hoàn cảnh
lựa chọn nghiêm chỉnh tới mức nào; 2. Việc lựa chọn tiến hành kỹ càng đến
đâu; 3. Những yếu tố nào quyết định việc lựa chọn; 4. Có sự tích lũy, thu
góp những đối tượng được lựa chọn hay không.
Song các từ đồng nghĩa tiếng Việt không có sự phân biệt nhau theo
tham tố thứ 5 như tiếng Anh: phải chọn lựa một trong hai phương án loại
trừ nhau nảy sinh chủ yếu trong lĩnh vực đời sống xã hội hoặc chính trị (thể
hiện trong ý nghĩa của động từ opt). Các từ đồng nghĩa tiếng Việt khác với
các từ đồng nghĩa tiếng Anh ở tham tố thứ 5 là sự hạn chế về đối tượng để
chọn (người, văn thơ) (thể hiện trong nghĩa từ tuyển) và tham tố thứ 6 là
tiêu chuẩn để chọn là có sẵn hay tự mình đề ra để tìm cho được cái hoàn
toàn đáp ứng với yêu cầu của mình, khi chưa tìm được thì chờ (thể hiện
trong ý nghĩa từ kén). Ngoài ra tiếng Việt còn có hiện tượng ghép theo
quan hệ đẳng lập các đơn vị đồng nghĩa đơn tiết để tạo ra các đơn vị song
tiết mang nghĩa tổng hợp, khái quát hơn các từ đồng nghĩa tiếng Anh tương
ứng (thể hiện trong nghĩa các từ chọn lọc, lựa chọn, chọn lựa, kén chọn,
tuyển chọn, tuyển lựa).
3.2.1.4. Đối chiếu ngữ nghĩa các dãy động từ đồng nghĩa:
CONVENE, CONVOKE, CALL, SUMMON, MUSTER và

TRIỆU TẬP, TẬP TRUNG, TRIỆU, GỌI, VỜI
Sự phân tích, đối chiếu cho thấy các động từ đồng nghĩa trong dãy
đồng nghĩa tiếng Anh chỉ có sự phân biệt nhau khá rõ ở diễn tố khách
12


thể/đối tượng hành động: đối tượng hành động bao gồm cả cá nhân riêng lẻ
và cơ quan quyền lực (convene) - đối tượng hành động chỉ là cơ quan
quyền lực (convoke)- đối tượng hành động chỉ là cơ quan chính quyền hoặc
hội nghị (call và summon) - đối tượng hành động chỉ là các cá nhân quân
nhân (muster (up)).
Nghĩa của các động từ trong dãy đồng nghĩa tiếng Việt cũng có sự
khu biệt cụ thể theo diễn tố là khách thể/đối tượng hành động như trong
tiếng Anh. Đối tượng hành động của động từ triệu tập đều có thể sử dụng
được cho cả các cá nhân riêng lẻ lẫn cơ quan tổ chức. Đối tượng hành động
của tập trung, triệu, gọi, vời chỉ là các cá nhân, không thể là cơ quan hay
tổ chức. Riêng từ vời mang sắc thái cũ và trang trọng, biểu thị hành động có
đối tượng chỉ là một cá nhân riêng lẻ.
Sự khu biệt nghĩa của các động từ trong tiếng Việt có trường hợp còn
theo diễn tố chủ thể hành động: người có quan hệ ngang bằng nhau (tập
trung)- người hoặc cơ quan quyền lực cấp trên (triệu tập, triệu, gọi)- vua
chúa (vời); hoặc còn theo chu tố mục đích hành động: Không mang nét
nghĩa riêng về mục đích hành động (tập trung), có mục đích để tiến hành
hội nghị hoặc mở lớp học (triệu tập), để thực hiện yêu cầu nào đó do chủ
thể hành động đặt ra hoặc là chỉ để đối tượng chịu lệnh rời khỏi vị trí hiện
tại đến nơi nào đó... (triệu, gọi) – để một người đến với vua chúa ( vời).
Theo cách tương tự, luận án còn đối chiếu các dãy động từ đồng
nghĩa sau trong tiếng Anh và tiếng Việt và cũng thu được kết quả tương tự
như các dãy động từ đã đối chiếu trên đây.
3.2.1.5 DIE, DEPART, EXPIRE, PERISH, FADE, LOSE , PASS ON,

PASS WAY , DICEASE
CHẾT, MẤT, VỀ, HI SINH, TỪ TRẦN, THỌ CHUNG, TẠ
THẾ, BĂNG HÀ, QUY TIÊN, TỊCH, TỊCH DIỆT, VIÊN TỊCH, BỎ
XÁC, BỎ THÂY, TOI, NGOẺO,...
3.2.1.6
ADAPT , ADJUST, ACCOMMODATE, CONFORM,
RECONCILE
THÍCH NGHI, THÍCH ỨNG, THÍCH HỢP, PHÙ HỢP
3.2.2. Đối chiếu ngữ nghĩa một số dãy tính từ đồng nghĩa
3.2.2.1 Đối chiếu ngữ nghĩa các dãy tính từ đồng nghĩa:
BEAUTIFUL, PRETTY, HANDSOME, ATTRACTIVE, LOVELY,
CUTE,GOOD-LOOKING, GORGEOUS, STUNNING, STRIKING và
ĐẸP, ĐẸP ĐỄ, XINH, DỄ COI, DIỄM LỆ, LỘNG LẪY, MỸ LỆ
Kết quả phân tích, đối chiếu cho thấy các tính từ đồng nghĩa trong
tiếng Anh có nghĩa chung là “đẹp”, chúng khác nhau về các nét nghĩa khu
biệt sau: 1) Sự khác biệt về diễn tố là chủ thể mang tính chất hay vẻ “đẹp”:
là nam hay nữ, đứng tuổi hay còn trẻ; 2) Sự đánh giá chủ thể mang vẻ
“đẹp”về phương diện giới tính: có những nét mạnh mẽ như đàn ông, hay có
13


những nét nhỏ nhắn, tinh tế của phụ nữ; 3) Trạng thái tình cảm của người
nói đối với chủ thể mang vẻ “đẹp” là tích cực, dễ chịu hay tiêu cực không
ưa nhìn; 4) Khác nhau về chu tố mức độ của vẻ “đẹp” : trung hòa- rất cao
– cực kì ; 5) Khác nhau về chu tố phương diện được nói đến của vẻ “đẹp”:
chỉ dùng để chỉ vẻ bề ngoài hay nói chung toàn cơ thể; về phương diện tình
dục; 6) Sắc thái phong cách-biểu cảm trang trọng hay không.
Các tính từ trong dãy đồng nghĩa trên trong tiếng Việt cũng có nghĩa
chung là “đẹp” và khác nhau theo các nét nghĩa khu biệt sau:
1) Sự khác biệt về diễn tố là chủ thể mang tính chất hay vẻ “đẹp”: nói về

người đàn bà hoặc cảnh vật, hay nói về người và nói về những vật nho nhỏ;
2) Trạng thái tình cảm của người nói đối với chủ thể mang vẻ “đẹp” là tích
cực, dễ chịu hay tiêu cực, không ưa nhìn; 4) Sự khác biệt về chu tố mức độ
của vẻ “đẹp” : trung hòa- vừa - rất cao – cực kì ; 5) Sự khác biệt về diễn tố
phương diện được nói đến của vẻ “đẹp”: nói chung về hình thể, dáng điệu
hay chỉ nói về vẻ bề ngoài.
Các tính từ trong hai ngôn ngữ Anh và Việt có tới 5 loại nét nghĩa
khu biệt giống nhau (trừ nét nghĩa biểu thái không trang trọng chỉ có trong
dãy tính từ đồng nghĩa tiếng Anh mà không có ở dãy tính từ tiếng Việt).
Tuy nhiên riêng nét nghĩa khu biệt về diễn tố là chủ thể mang vẻ đẹp thì
các tính từ tiếng Việt phân biệt nhau chi tiết hơn so với các tính từ đồng
nghĩa tiếng Anh không chỉ về giới tính và tuổi tác mà còn khu biệt về người
hay vật / cảnh vật. Các tính từ trong tiếng Anh khác các tính từ tiếng Việt
còn ở phương diện được nói tới của vẻ đẹp là phương diện tình dục.
3.2.2.2 Đối chiếu ngữ nghĩa các dãy tính từ:
WEAK , FEEBLE, FRAIL, FRAGILE, INFIRM, DECREPIT và
YẾU, YẾU ĐUỐI, YẾU ỚT
Kết quả đối chiếu cho thấy rằng các tính từ tiếng Việt cũng khác
nhau ở các nghĩa vị sau giống như các tính từ tiếng Anh:
1) Hệ thân thể (nhục thể) bộc lộ sự yếu đuối (chỉ có hệ cơ bắp hay toàn bộ
cơ thể); 2) Hình thức thể hiện sự yếu đuối (không thể tự nỗ lực – không thể
ngăn cản sự nỗ lực của người khác hướng tới chủ thể); 3) Đánh giá sự yếu
đuối từ phía người nói.
Các tính từ tiếng Việt không phân biệt ở nghĩa vị sau như trong tiếng
Anh: Nguyên nhân sự yếu đuối.
Đáng chú ý là Từ điển giải thích từ đồng nghĩa tiếng Anh của Lê
Đức Trọng đã đưa ra các tính từ sau đây trong tiếng Việt để đối chiếu với
dãy tính từ đồng nghĩa trong tiếng Anh do từ weak làm từ trung tâm:yếu,
yếu ớt, yếu đuối, ốm yếu, suy yếu, yếu đau, đau yếu, già yếu, hom hem,
òi ọp, lụ khụ, suy nhược, gầy yếu, mảnh khảnh, mảnh dẻ (về sinh vật

hoặc các bộ phận cơ thể). Điều này cho thấy nghĩa của tính từ trong tiếng
Anh thường mang nghĩa khái quát, rộng hơn tính từ tương ứng trong tiếng
14


Việt. Do vậy, cùng một tính từ tiếng Anh được sử dụng trong ngữ cảnh
khác nhau thường được dịch bằng nhiều tính từ tiếng Việt khác nhau.
3.2.3 Đối chiếu ngữ nghĩa một số dãy danh từ đồng nghĩa
2.2.3.1 Đối chiếu ngữ nghĩa dãy danh từ đồng nghĩa:
COUPLE, PAIR, BRACE, YOKE và HAI, VÀI, ĐÔI, CẶP
Couple có ý nghĩa rộng nhất và ít xác định nhất – nó có thể biểu thị
vừa đúng hai sự vật và cũng có thể một số lượng hơi nhiều hơn một chút, ví
dụ: a couple of girls /of women, of boys (hai cô gái/phụ nữ, thằng bé); a
couple of dogs /of cats, of cows (hai con chó/con mèo, con bò cái); after a
couple of glasses (sau hai/vài cốc) ; in a couple of minutes /of days (trong
hai phút/ngày).
Pair thể hiện ý là hai sự vật được xem xét hình thành một bộ hoàn
chỉnh, không thể sử dụng cái này mà không có cái kia, v.v..., ví dụ: a pair
of eyes/of hands, of feet (đôi mắt/tay, chân); a pair of shoes (đôi giày); to
walk in pairs (đi từng/thành đôi).
Brace và yoke có ý nghĩa chuyên hóa đơn couple bởi lẽ chúng biểu
thị đúng hai sự vật; mặt khác chúng có ý nghĩa ít chuyên hóa đơn pair, bởi
vì chỉ nhấn mạnh, sự thể hai sự vật hiện ra trong nhận thức người nói như
những thứ liên hệ với nhau, ví dụ: a brace of pheasants /of ducks, of
greyhounds (cặp (đôi) gà lôi/vịt, chó săn); a brace of pistols (hai khẩu sung
lục); a yoke of oxen (đôi bò).
Trong tiếng Việt, hai là từ chỉ số sau số một, trước số ba trong hệ
thống số đếm của tiếng Việt. Đồng nghĩa với hai, còn có các từ đôi, cặp.
Tuy vậy, giữa các từ này vẫn có sự khác nhau khá rõ về sắc thái nghĩa và
cách dùng.

Khi nói về số lượng người ít, không xác định, trong khoảng từ hai
đến ba người, ta có thể nói hai, ba/ đôi, ba/ vài ba người.Vài là từ thường
dùng để chỉ số lượng không xác định, vào khoảng hai, hoặc hơn hai một
chút. Vì thế, ta quen nói một vài, vài ba, vài bốn. Nhưng không thể nói vài
năm hay vài sáu…! Muốn nói số lượng không xác định, vào khoảng từ bốn
đến năm, hay từ năm đến sáu, thì phải nói là bốn năm, dăm sáu.
Khi hai người hoặc hai vật hợp lại, luôn luôn đi với nhau thì tạo
thành đôi, nếu tách riêng ra thì thành lẻ đôi, đơn chiếc, ví dụ: Hai chiếc đũa
hợp thành đôi đũa; hai chiếc giầy hợp thành đôi giầy...
Nếu hai người hoặc vật mà gắn bó với nhau đến mức người này, hoặc
cái này không thể tách rời khỏi người kia hoặc cái kia được thì được gọi là
cặp: cặp vợ chồng.
Như vậy, sự khu biệt ngữ nghĩa của các dãy danh từ đồng nghĩa trên
đây trong tiếng Anh và tiếng Việt có sự giống nhau hoàn toàn:
Couple = hai, vài ; Pair = đôi (mắt, giầy) ; brace, yoke = cặp (vợ chồng,
bánh giầy).
15


3.2.3.2 Đối chiếu ngữ nghĩa dãy danh từ đồng nghĩa:
CROWD, MOB, HORDE, THRONG, DROVE, CRUSH, RABBLE và
BỌN, BẦY, BỀ, ĐÀN, ĐOÀN, LŨ , ĐÁM, NHÓM, PHE, PHƯỜNG,
TOÁN , TỤI
3.3. TIỂU KẾT
Qua kết quả đối chiếu ngữ nghĩa của một số dãy từ đồng nghĩa mang
tính đại diện theo phương pháp nghiên cứu trường hợp có thể rút ra những
nhận xét sau đây:
Trong mỗi dãy từ đồng nghĩa tiếng Anh, số lượng các từ đồng nghĩa
thường ít hơn nhiều so với số lượng đơn vị trong các dãy từ đồng nghĩa
tương ứng của tiếng Việt. Chính điều này khiến cho từ tiếng Anh có xu

hướng mang nghĩa rộng và khái quát hơn từ tiếng Việt có nghĩa tương ứng.
Chính lí do này đã khiến cho các nhà biên soạn từ điển đối chiếu Anh - Việt
thường phải sử dụng nhiều từ tiếng Việt đồng nghĩa để đối dịch một từ
trong tiếng Anh khi được sử dụng trong các ngữ cảnh khác nhau.
Các từ trong dãy đồng nghĩa của tiếng Việt thường có số lượng nhiều
hơn các từ trong dãy đồng nghĩa tương ứng của tiếng Anh nên dung lượng
ngữ nghĩa mỗi từ hẹp hơn từ tiếng Anh tương ứng. Hệ quả điều này là các
từ trong dãy đồng nghĩa tiếng Việt thường khu biệt nhau về nhiều nghĩa vị
hơn so với các từ trong dãy đồng nghĩa tương ứng của tiếng Anh. Thậm chí
ngay cả trong trường hợp các dãy từ đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ có số
lượng loại nghĩa vị khu biệt bằng nhau, nhưng sự hiện thực hóa mỗi loại
nghĩa vị này thành các nghĩa vị cụ thể ở các từ đồng nghĩa tiếng Việt cũng
nhiều hơn tiếng Anh. Các từ đồng nghĩa tiếng Việt không chỉ khác biệt
nhau theo các tham tố về mức độ quy mô, kích cỡ... của đối tượng được
biểu đạt (đối với các danh từ đồng nghĩa), về mức độ cao thấp của tính chất
được biểu thị (đối với các tính từ đồng nghĩa ) và về các tác tố hay diễn tố
(chủ thể và khách thể hành động) cùng các chu tố hay trạng tố trong cấu
trúc tham tố của động từ (đối với các động từ đồng nghĩa) như đối với các
từ đồng nghĩa tiếng Anh mà còn khác biệt theo các tham tố: tính cụ thể hay
trừu tượng hoặc mức độ rộng - hẹp của ý nghĩa được diễn đạt. Các từ đồng
nghĩa tiếng Anh rất ít hoặc hầu như không khác biệt nhau theo hai tham tố
cuối cùng này. Điều đó cho thấy trong những ngôn cảnh khác nhau, tuỳ
mục đích giao tiếp, cùng một thông tin ngữ nghĩa hay ý niệm, người Việt
thường có xu hướng sử dụng các cách diễn đạt đồng nghĩa khác nhau để nói
lên những khía cạnh khác nhau trong nội dung thông điệp của mình.
Các cứ liệu nghiên cứu trên đây chứng tỏ rằng người Việt có xu
hướng chia cắt, phạm trù hóa hiện thực khách quan và biểu đạt nó qua ngôn
ngữ một cách chi tiết, cụ thể hơn so với người Anh. Chúng hoàn toàn phù
hợp với những đặc điểm tư duy ngôn ngữ của mỗi dân tộc: người Anh có xu


16


hướng thiên về khái quát hóa, còn tư duy ngôn ngữ của người Việt có xu
hướng thiên về cụ thể hóa, chi tiết hóa.
Nhận định cuối cùng này sẽ được chúng tôi tiếp tục xem xét trong
chương thứ tư dưới đây.
Chương 4
ĐỐI CHIẾU CÁC TỪ ĐỒNG NGHĨA TRONG TIẾNG ANH
VÀ TIẾNG VIỆT TRÊN BÌNH DIỆN NGỮ DỤNG
4.1. DẪN NHẬP
Theo Ju. D. Apresjan, các thông tin ngữ dụng có tính chất đan chéo với
thông tin ngữ nghĩa, trong nhiều trường hợp khó mà tách ra khỏi thông tin
ngữ nghĩa. Một trong hai trường hợp này là thông tin ngữ dụng điển hình
thường được nén trực tiếp vào ý nghĩa từ vựng. Chính vì vậy trong luận án
này chúng tôi tiến hành đối chiếu các dãy từ đồng nghĩa có tính chất đại
diện trong tiếng Anh và tiếng Việt có thông tin ngữ dụng nói chung, thông
tin ngữ dụng từ phương diện sự đánh giá về số lượng nói riêng, hòa lẫn
trong ngữ nghĩa của từ.
Do tính chất phức tạp của loại ngữ dụng chưa ổn định, chỉ xuất hiện
trong ngữ cảnh sử dụng nhất định của từ, trong luận án này, chúng tôi cũng
noi theo Ju.D. Apresjan không đề cập đến loại ngữ dụng này. Do vậy,
chúng tôi sẽ phân tích đối chiếu đồng thời các từ đồng nghĩa trong hai ngôn
ngữ Anh và Việt theo sự đánh giá của người nói đối với hiện thực hoặc đối
với nội dung của thông báo hay đối với người nghe đã được cố định hóa
nằm trong nghĩa từ. Do đối tượng đối chiếu là các từ đồng nghĩa nên sự
giống nhau của chúng dễ nhận thấy hơn là sự khác nhau. Bởi vậy, điều quan
trọng hơn khi đối chiếu từ đồng nghĩa tiếng Anh và tiếng Việt theo thông số
ngữ dụng trước hết là phải chỉ ra được thông tin ngữ dụng khác nhau của
các từ đồng nghĩa ấy. Chúng tôi đề xuất có thể sử dụng thuật ngữ ngữ dụng

vị để biểu thị thông tin ngữ dụng có giá trị khu biệt các từ đồng nghĩa (SS.
Các nét nghĩa khu biệt được gọi là nghĩa vị). Ngữ dụng vị là nét khu biệt về
ngữ dụng dựa trên sự đối lập của cùng một loại thông tin ngữ dụng, ví dụ :
thông tin đánh giá theo thang độ về số lượng có ba đối lập, từ đó có ba ngữ
dụng vị: đánh giá được cho là bình thường/ trung tính - đánh giá được cho
là ít – đánh giá được cho là nhiều,v.v...
4.2. ĐỐI CHIẾU NGỮ DỤNG CÁC TỪ ĐỒNG NGHĨA TRONG
TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
4.2.1. Đối chiếu động từ đồng nghĩa
4.2.1.1 Đối chiếu các dãy động từ đồng nghĩa:
CARRY , BEAR, CONVEY, TRANSPORT, TRANSMIT và
a) MANG, ĐEM, XÁCH, BÊ, BƯNG
b) ĐEO, VÁC, GÁNH, KHIÊNG, KHUÂN, QUẨY, ĐỘI

17


c) CHỞ, TẢI, CHUYÊN CHỞ, VẬN CHUYỂN, CHUYỂN
VẬN, VẬN TẢI
Kết quả phân tích đối chiếu cho thấy, dãy các động từ đồng nghĩa
tiếng Anh nói trên khu biệt nhau theo 5 ngữ dụng vị sau đây: 1. Ngữ dụng
vị biểu thái sách vở (bút ngữ) hay trung hòa; 2. Ngữ dụng vị đánh giá trọng
lượng hoặc tầm quan trọng của đối tượng chuyên chở là lớn nên có sự phải
cố sức của chủ thể; 3. Ngữ dụng vị đánh giá đối tượng được chuyên chở là
có tính chất đặc thù hay riêng biệt; 4. Ngữ dụng vị đánh giá khoảng cách
vận chuyển là xa; 5. Ngữ dụng vị đánh giá hành động có tính hoàn thành,
đạt được đến đích.
Các động từ trong ba dãy trên của tiếng Việt không có sự khác biệt
về ngữ dụng vị biểu thái phong cách - biểu cảm và phạm vi sử dụng như
trong tiếng Anh. Chúng có các ngữ dụng vị đánh giá sau: 1) Ngữ dụng vị

đánh giá đối tượng của hành động là nặng/cồng kềnh hay nhẹ; 2) Ngữ dụng
vị đánh giá khối lượng của đối tượng hành động là nhiều/ít; 3) Ngữ dụng vị
đánh giá khoảng cách của hoạt động vận chuyển là xa hay gần.
Số lượng ngữ dụng vị trong tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt (SS. A: 5
- V: 3). Các động từ đồng nghĩa tiếng Anh khác với các động từ đồng nghĩa
tiếng Việt ở hai ngữ dụng vị sau: 1) Ngữ dụng vị biểu thái phong cách sách
vở (bút ngữ) hay trung tính; 2) Ngữ dụng vị đánh giá hành động có tính
hoàn thành hay đạt kết quả, mục đích.
4.2.1.2 Đối chiếu các dãy động từ đồng nghĩa:
CHOOSE, SELECT, PICK, CULL, ELECT, OPT, SINGLE OUT và
a) CHỌN, LỰA, TUYỂN, KÉN, LỌC, CHỌN LỌC, LỰA CHỌN,
CHỌN LỰA, KÉN CHỌN, TUYỂN b) CHỌN, TUYỂN LỰA
Kết quả phân tích, đối chiếu cho thấy rằng các động từ đồng nghĩa
trong tiếng Anh phân biệt với nhau về 10 ngữ dụng vị sau: 1. Ngữ dụng vị
đánh giá về mức độ nghiêm chỉnh của hoàn cảnh thực hiện hành động (lựa
chọn) ; 2. Ngữ dụng vị đánh giá mức độ kỹ càng của hành động; 3) Ngữ
dụng vị giới hạn khả năng được thực hiện của hành động do chủ thể tiến
hành: chủ thể phải chọn một (tức loại trừ nhau) hay không chọn một trong
những khả năng được phép lựa chọn; 4) Ngữ dụng vị đánh giá chủ thể hành
động có thái độ thận trọng khi hành động hay không; 5). Ngữ dụng vị đánh
giá việc thực hiện hành động được tiến hành nghiêm túc hay không nghiêm
túc thì có quan trọng hay không; 6) Ngữ dụng vị đánh giá hành động lựa
chọn đó có phải là một sở thích riêng của chủ thể hay không; 7) Ngữ dụng
vị đánh giá hành động có khắt khe hay không; 8) Ngữ dụng vị đánh giá
hành động được tiến hành có liên quan tới việc giải quyết những vấn đề
nghiêm túc, quan trọng đối với đời sống hay không; 9) Ngữ dụng vị giới
hạn khả năng được phép của hành động của chủ thể: chủ thể hành động chỉ
được chọn lựa một trong hai phương án nảy sinh chủ yếu trong lĩnh vực đời
18



sống xã hội hoặc chính trị; 10) Ngữ dụng vị giới hạn của hành động: chỉ
tách chọn khả năng, hay bao hàm cả việc thực hiện khả năng đó.
Các động từ đồng nghĩa tiếng Việt chỉ phân biệt nhau về 6 ngữ dụng
vị sau:1) Ngữ dụng vị đánh giá về mức độ đáp ứng của đối tượng hành
động trong nhiều cái cùng loại; 2)Ngữ dụng vị đánh giá mức độ phức tạp
của tiêu chuẩn để thực hiện hành động khi xem xét so sánh trong số những
cái cùng loại; 3) Ngữ dụng vị đánh giá về số lượng của đối tượng hành
động là nhiều hay ít; 4) Ngữ dụng vị đánh giá có sự hạn chế hay không về
loại đối tượng để thực hiện hành động; 5) Ngữ dụng vị đánh giá mức độ cao
của những tiêu chuẩn do tự chủ thể hành động đề ra để tìm cho được cái
hoàn toàn đáp ứng với yêu cầu; 6) Ngữ dụng vị giới hạn đối tượng của hành
động:có bị hạn chế trong những cái có sẵn trước mắt hay không.
Như vậy, dãy các động từ đồng nghĩa tiếng Anh tuy có số lượng từ ít
hơn tiếng Việt (SS. A: 8 và V: 12), nhưng các thông tin ngữ dụng của các
động từ đồng nghĩa tiếng Anh phong phú và nhiều hơn tiếng Việt (SS.
A:10, V:6)
Các động từ đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ Anh và Việt chỉ giống
nhau ở 2 ngữ dụng vị:1) Ngữ dụng vị đánh giá về mức độ kỹ càng của chủ
thể hành động; 2) Ngữ dụng vị đánh giá về tính khắt khe của hành động.
Kết quả đối chiếu cho thấy rằng phần ngữ nghĩa của các động từ
đồng nghĩa trên trong hai ngôn ngữ khá giống nhau, nhưng về ngữ dụng thì
khác nhau căn bản.
4.2.1.3 Đối chiếu các dãy động từ đồng nghĩa:
CONVENE, CONVOKE, CALL, SUMMON, MUSTER và
TRIỆU TẬP, TẬP TRUNG, TRIỆU, GỌI, VỜI
Cacs dãy động từ đồng nghĩa này trong tiếng Anh và tiếng Việt có số
lượng các ngữ dụng vị ngang nhau (SS. A.:4, V: 4). Chúng chỉ khác nhau ở
02 ngữ dụng vị sau: 1) Ngữ dụng vị biểu thái tính chất nghi thức hoặc mệnh
lệnh hay trung hòa (tiếng Anh) và Ngữ dụng vị biểu thái cũ, trang trọng hay

trung hòa (tiếng Việt); 2) Chỉ dãy động từ tiếng Việt mới có ngữ dụng vị
quan hệ vị thế/vai giữa chủ thể hành động và kẻ tiếp nhận hành động là
quan hệ vua tôi.
4.2.1.4 Đối chiếu ngữ dụng các dãy động từ đồng nghĩa với từ DIE CHẾT
DIE, DEPART, EXPIRE, PERISH, FADE, LOSE , PASS ON,
PASS AWAY ,DECEASE và
CHẾT,MẤT, VỀ, HI SINH, TỪ TRẦN, THỌ CHUNG, TẠ
THẾ, BĂNG HÀ, QUY TIÊN, TỊCH, TỊCH DIỆT, VIÊN TỊCH, BỎ
XÁC, BỎ THÂY, TOI, NGOẺO,...
4.2.2 Đối chiếu ngữ dụng tính từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt
4.2.2.1 Đối chiếu ngữ dụng các dãy tính từ đồng nghĩa:
19


BEAUTIFUL, PRETTY, HANDSOME, ATTRACTIVE, LOVELY,
CUTE,GOOD-LOOKING, GORGEOUS, STUNNING, STRIKING và
ĐẸP, ĐẸP ĐỄ, XINH, DỄ COI, DIỄM LỆ, LỘNG LẪY, MĨ LỆ
Các dãy tính từ đồng nghĩa trên trong tiếng Anh và tiếng Việt giống
nhau ở chỗ cùng có sự khu biệt về các ngữ dụng vị sau: 1) Ngữ dụng vị hạn
chế loại chủ thể mang vẻ “đẹp” hay phương diện nào được nói tới vẻ đẹp
của chủ thể; 2) Ngữ dụng vị đánh giá cảm giác của người nói về phẩm chất
toát lên của chủ thể mang vẻ “đẹp”, là tích cực hay tiêu cực hoặc đánh giá
mức độ cao của vẻ đẹp đến đâu.
4.2.2.2 Đối chiếu ngữ dụng các dãy tính từ đồng nghĩa:
SEVERE , STERN, AUSTERE, ASCETIC và
NGHIÊM KHẮC, NGHIÊM NGẶT, NGHIỆT, NGHIỆT NGÃ,
KHẮT KHE, KHẮC NGHIỆT, HÀ KHẮC, KHẮC KHỔ, KHỔ
HẠNH
Trước hết các tính từ đồng nghĩa tiếng Anh khu biệt nhau:
1) Ngữ dụng vị giới hạn phạm vi đối tượng của quan hệ cư xử được biểu

hiện bằng các tính từ: đối với cả chủ thể lẫn khách thể hay chỉ đối với chủ
thể (bản thân) hay chỉ đối với khách thể (người khác) trong quan hệ cư xử.
2) Ngữ dụng vị đánh giá mức độ nghiêm khắc, khắt khe/ mức độ chịu đựng
của người bị cư xử bởi mối quan hệ được nói đến;
3) Ngữ dụng vị thái độ của người nói đối với quan hệ cư xử được nói đến
(khen hay ác cảm).
Các tính từ đồng nghĩa trong tiếng Việt cũng giống các tính từ đồng
nghĩa tiếng Anh ở 02 ngữ dụng vị sau: 1) Ngữ dụng vị giới hạn phạm vi
đối tượng của quan hệ cư xử được biểu hiện bằng các tính từ: đối với cả chủ
thể (bản thân) lẫn khách thể là người khác (nghiêm khắc) hay chỉ đối với
chủ thể là bản thân (khắc khổ ) hay chỉ đối với khách thể - người khác
(nghiệt, nghiệt ngã, hà khắc ) trong quan hệ cư xử;
2) Ngữ dụng vị đánh giá mức độ cao về tính nghiêm khắc, khắt khe trong
quan hệ cư xử / mức độ chịu đựng của người bị cư xử bởi mối quan hệ được
nói đến.
Các tính từ tiếng Việt khác với các tính từ đồng nghĩa tiếng Anh ở
ngữ dụng vị 3: Các tính từ tiếng Anh có thể mang thông tin ngữ dụng đánh
giá tích cực hoặc tiêu cực về quan hệ được nói đến. Các tính từ đồng nghĩa
tương ứng trong tiếng Việt chỉ mang thông tin ngữ dụng đánh giá tiêu cực
về quan hệ được nói đến.
4.2.2.3 Đối chiếu ngữ dụng các dãy tính từ đồng nghĩa:
LARGE, BIG, GREAT và
TO, TO ĐÙNG,TO LỚN, TO SỤ, TO TÁT, TO TƯỚNG, TO XÙ,
LỚN, LỚN LAO, KHỔNG LỒ, VĨ ĐẠI
4.2.3 Đối chiếu ngữ dụng các danh từ đồng nghĩa
20


4.2.3.1 Đối chiếu các dãy danh từ đồng nghĩa:
CROWD, MOB, HORDE, THRONG, DROVE, CRUSH, RABBLE và

ĐÁM, BỌN, BẦY, BÈ, ĐÀN, ĐOÀN, LŨ, NHÓM, PHE, TOÁN, TỤI
Dãy danh từ đồng nghĩa tiếng Việt cũng có ba ngữ dụng vị như trong
tiếng Anh được nêu trên đây, tuy nhiên nội dung thông tin ngữ dụng thuộc
mỗi loại ngữ dụng vị có phần phong phú hơn
4.2.3.2 Đối chiếu các dãy danh từ đồng nghĩa:
ENEMY, FOE và ĐỊCH, GIẶC, THÙ
Các danh từ tiếng Anh foe và enemy chỉ khác nhau về ngữ dụng vị
đánh giá mức độ thù địch : enemy mang ngữ dụng vị trung hòa, còn foe có
ngữ dụng vị về mức độ thù địch đến tột cùng và không dung hòa nhau. Các
danh từ tiếng Việt cũng có sự đối lập về ngữ dụng vị mức độ thù địch như
các danh từ tiếng Anh, có thể xếp theo mức độ tăng lên: địch – giặc – thù.
Ngoài ra, các danh từ tiếng Việt còn có ngữ dụng vị đánh giá khinh bỉ rõ
rệt hơn so với tiếng Anh, nên thường kết hợp với các từ cũng mang thông
tin ngữ dụng thái độ đánh giá như vậy của người nói: kẻ (thù, địch); bọn, lũ
(giặc, địch)...
4.2.4. Đối chiếu ngữ dụng hư từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng
Việt theo sự đánh giá về số lượng
Thông tin ngữ dụng đánh giá về số lượng là một trong số những
thông tin ngữ dụng khá tiêu biểu, điển hình trong số các thông tin ngữ dụng
mà Ju. D. Apresjan đã nêu. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đối chiếu dãy
từ đồng nghĩa tiêu biểu nhất trong tiếng Anh và tiếng Việt có ý nghĩa hòa
lẫn thông tin ngữ dụng từ phương diện sự đánh giá về số lượng. Đó là:
ONLY, JUST và
a) CHỈ, MỖI, MỚI , CÓ, ĐỘC, THÔI
b) ĐÃ, NHỮNG, TẬN, TỚI, ĐẾN, HẲN, MÃI, CẢ
4.2.4.1 Các từ đồng nghĩa mang thông tin ngữ dụng đánh giá về số lượng
trong tiếng Anh: ONLY, JUST
4.2.4.2 Các từ đồng nghĩa mang thông tin ngữ dụng đánh giá về số
lượng trong tiếng Việt
a) Dãy từ đồng nghĩa mang thông tin ngữ dụng nhấn mạnh sự đánh

giá thấp về số lượng trong tiếng Việt
CHỈ, MỖI, MỚI, CÓ, ĐỘC, THÔI
b) Dãy từ đồng nghĩa mang thông tin ngữ dụng nhấn mạnh sự đánh
giá cao về số lượng trong tiếng Việt
ĐÃ, NHỮNG, TẬN, TỚI, MÃI, ĐẾN, HẲN, ĐÃ, CẢ
Nhận xét chung: Sự đánh giá về số lượng là một trong ba kiểu thuộc
bình diện ngữ dụng “thái độ của người nói đối với hiện thực”. Các phương
tiện biểu hiện nó có tính chất ngoại vi, nghĩa là được biểu hiện bằng các loại
hư từ như tiểu từ, thán từ, từ đệm. Chính vì vậy các từ trong dãy đồng nghĩa
21


mang thông tin ngữ dụng đánh giá về số lượng được luận án của chúng tôi
xét đều là các hư từ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp thông tin ngữ dụng
đánh giá về số lượng được biểu hiện bằng tính từ như trường hợp từ hẳn.
Trong tiếng Anh và tiếng Việt cùng có dãy từ đồng nghĩa mang thông
tin ngữ dụng từ phương diện sự đánh giá thấp về số lượng nên có sự đối
chiếu dễ dàng. Đó là only, just và dãy đồng nghĩa tương ứng trong tiếng
Việt là chỉ, mỗi, mới , có, độc, thôi.
Đối với các từ mang thông tin ngữ dụng từ phương diện sự đánh giá
cao về số lượng, tiếng Anh chỉ sử dụng từ TOO, còn tiếng Việt có khá
nhiều từ: Đã, những, tận, tới, đến, hẳn, mãi, cả.
4.3 TIỂU KẾT
Kết quả đối chiếu các từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt
trên bình diện ngữ dụng cũng cho kết quả phù hợp với sự đối chiếu các từ
đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ trên bình diện ngữ nghĩa. Cụ thể là trong
mỗi dãy từ đồng nghĩa tiếng Anh, số lượng các từ đồng nghĩa thường ít hơn
nhiều so với các đơn vị trong các dãy từ đồng nghĩa tương ứng của tiếng
Việt. Chính điều này khiến cho từ đồng nghĩa tiếng Anh thường có thông
tin ngữ dụng khái quát hơn từ đồng nghĩa tương ứng trong tiếng Việt. Trong

nhiều trường hợp các từ đồng nghĩa tiếng Anh không khác nhau về ý niệm
nên việc lựa chọn sử dụng từ nào là do sự khác biệt về thông tin ngữ dụng
quy định (điển hình như dãy từ đồng nghĩa có die là từ trung tâm). Các từ
đồng nghĩa mang thông tin ngữ dụng đánh giá trong tiếng Việt có xu hướng
phân biệt nhau chi tiết, cụ thể hơn so với tiếng Anh. Còn từ đồng nghĩa
tiếng Anh lại có có xu hướng diễn đạt khái quát hóa thông tin ngữ dụng về
sự đánh giá nói chung.
Các cứ liệu trên một lần nữa chứng tỏ rằng người Việt có xu hướng
chia cắt, phạm trù hóa hiện thực khách quan và biểu đạt nó qua ngôn ngữ
một cách chi tiết, cụ thể hơn so với người bản ngữ tiếng Anh. Điều đó hoàn
toàn phù hợp với những đặc điểm tư duy ngôn ngữ của mỗi cộng đồng ngôn
ngữ: cộng đồng người bản ngữ tiếng Anh có xu hướng thiên về khái quát
hóa, còn tư duy ngôn ngữ của người Việt có xu hướng thiên về cụ thể hóa,
chi tiết hóa.
KẾT LUẬN
Cho đến nay, ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài hầu như chưa có công
trình lí luận nào nghiên cứu đối chiếu toàn diện từ đồng nghĩa tiếng Anh và
tiếng Việt trên bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng. Trên cơ sở vận dụng một số
cơ sở lí luận cơ bản về từ đồng nghĩa, về ý nghĩa của từ, khái niệm "cấu trúc
tham tố" của động từ, khái niệm nội dung thông tin ngữ dụng của từ..., luận án
tiến hành đối chiếu các từ đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ Anh và Việt. Kết quả
nghiên cứu cho phép rút ra một số kết luận cơ bản sau:
1. Trong mỗi dãy từ đồng nghĩa tiếng Anh, số lượng các từ đồng nghĩa thường
ít hơn nhiều so với các đơn vị trong dãy từ đồng nghĩa tương ứng của tiếng Việt.
22


Chính điều này khiến cho từ đồng nghĩa tiếng Anh thường mang nghĩa khái
quát hơn từ đồng nghĩa tiếng Việt có nghĩa tương ứng. Chính lí do này đã khiến
cho các nhà biên soạn từ điển đối chiếu từ đồng nghĩa Anh - Việt thường phải

sử dụng nhiều từ tiếng Việt đồng nghĩa để đối dịch một từ trong tiếng Anh
được sử dụng trong những ngữ cảnh khác nhau.
2. Cũng chính do số lượng các từ trong dãy đồng nghĩa của tiếng Việt thường
nhiều hơn số lượng các từ trong dãy đồng nghĩa tương ứng của tiếng Anh, nên
các từ trong dãy đồng nghĩa của tiếng Việt phân biệt nhau theo số lượng các nét
nghĩa khu biệt và các tham tố nhiều hơn so với các từ trong dãy đồng nghĩa
tương ứng của tiếng Anh. Chúng không chỉ khác biệt các tham tố về quy mô,
kích cỡ... của đối tượng được biểu đạt (đối với các danh từ đồng nghĩa), về mức
độ cao thấp của tính chất được biểu thị (đối với các tính từ đồng nghĩa ) và về
các tác tố (chủ thể và khách thể) cùng các chu tố trong cấu trúc tham tố của
động từ (đối với các động từ đồng nghĩa) như đối với các từ đồng nghĩa tiếng
Anh mà các từ trong dãy đồng nghĩa của tiếng Việt còn khu biệt nhau về tính
cụ thể hay trừu tượng hoặc mức độ rộng - hẹp của ý nghĩa được biểu đạt. Các
từ đồng nghĩa tiếng Anh rất ít hoặc hầu như không khác biệt nhau theo hai
phương diện này.
Các cứ liệu nghiên cứu của luận án cũng góp phần chứng tỏ rằng người
Việt có xu hướng chia cắt, phạm trù hóa hiện thực khách quan và biểu đạt nó
qua ngôn ngữ một cách chi tiết, cụ thể hơn so với người bản ngữ tiếng Anh.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tư duy ngôn ngữ của mỗi cộng đồng
ngôn ngữ: cộng đồng người bản ngữ tiếng Anh có xu hướng thiên về khái quát
hóa, còn tư duy ngôn ngữ của người Việt có xu hướng thiên về cụ thể hóa, chi
tiết hóa.
3. Kết quả đối chiếu các từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt trên bình
diện ngữ dụng cũng cho kết quả phù hợp với kết quả đối chiếu các từ đồng
nghĩa trong hai ngôn ngữ trên bình diện ngữ nghĩa. Khi các dãy đồng nghĩa của
hai ngôn ngữ Anh và Việt có số lượng đơn vị bằng nhau thì các từ đồng nghĩa
tiếng Anh khu biệt nhau theo nhiều ngữ dụng vị hơn các từ đồng nghĩa tiếng
Việt. Song thường thường dãy từ đồng nghĩa tiếng Anh có số lượng đơn vị ít
hơn số lượng các đơn vị trong dãy đồng nghĩa tiếng Việt nên từ đồng nghĩa
tiếng Anh thường có thông tin ngữ dụng khái quát hơn từ đồng nghĩa tương

ứng trong tiếng Việt. Các từ đồng nghĩa mang thông tin ngữ dụng đánh giá
trong tiếng Việt thường phân biệt nhau chi tiết, cụ thể hơn so với từ đồng nghĩa
tiếng Anh.
4. Kết quả đối chiếu của luận án cũng góp phần khẳng định việc chọn từ đồng
nghĩa này hay khác trong tiếng Việt có xu hướng phụ thuộc nhiều vào nhu cầu
diễn đạt những khía cạnh, hay sắc thái khác nhau của cùng một nội dung ngữ
nghĩa - cụ thể hay trừu tượng, rộng hay hẹp. Điều này cũng chứng tỏ việc chọn
từ đồng nghĩa trong tiếng Việt mang giá trị thông tin ngữ nghĩa nhiều hơn so
với trong tiếng Anh. Như vậy, chức năng xã hội là tham tố biến thể đồng nghĩa
quan trọng hơn trong hiện tượng từ đồng nghĩa tiếng Việt. Trong nhiều trường
23


×