Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.28 KB, 18 trang )
n lý sức khỏe, khám sàng lọc phát hiện bệnh tật mà chỉ khám, chữa bệnh khi có
dấu hiệu bệnh.
Trạm y tế chưa lồng ghép được việc quản lý sức khỏe cho người dân như quản lý sức
khỏe người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ mang thai… Việc thực hiện các hoạt động
phục hồi chức năng, chăm sóc sức khỏe ban đầu, truyền thông phòng bệnh, tiêm chủng
tại các phòng khám bác sĩ gia đình còn hạn chế, chưa được đưa vào hoạt động của phòng
khám bác sĩ gia đình mà còn tách biệt trong nhóm hoạt động khác của bệnh viện hoặc
trạm y tế.
Việc phát triển mô hình phòng khám BSGĐ tại các trạm y tế phường, xã nơi từ trước tới
nay người dân không mấy tin tưởng về chất lượng khám, về cơ sở vật chất và tay nghề
của bác sĩ nên khó thu hút bệnh nhân. Bên cạnh đó, danh mục thuốc BHYT nghèo nàn,
thiết bị cận lâm sàng sơ sài. Nhân lực phòng khám BSGĐ tại các trạm y tế không đủ do
phải tập trung thực hiện công việc chung của trạm như tiêm chủng, phòng, chống dịch
bệnh, các chương trình chăm sóc sức khỏe… dẫn đến tình trạng người dân đến khám “lèo
tèo”.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận.
Mô hình BSGĐ đang tỏ ra là cách giải quyết bài toán quá tải của ngành y tế Việt Nam.
Với những lợi ích vô cùng to lớn mà mô hình này đem lại cho người dân, cho nhân viên y
tế và cho xã hội, chắc chắn mô hình này cần được phát triển mạnh mẽ hơn. Sự quan tâm,
lãnh đạo của BYT trong những năm qua cũng chứng tỏ được vị thế của BSGĐ trong xã
hội và tương lại của BSGĐ. Mô hình BSGĐ đã gặt hái được nhiều thành công nhưng
cũng gặp không ít khó khăn, bất cập, cần được giải quyết sớm và kịp thời hơn nữa.
4.2. Kiến nghị.
Cần tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về những lợi ích cũng như hiệu quả của mô hình
BSGĐ mang đến cho người dân, từ đó người dân sẽ hiểu, tin tưởng.
Cần tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng y tế cơ sở, nhu cầu chăm sóc ban đầu của nhân
dân địa phương, xây dựng kế hoạch cụ thể và lộ trình, thời gian cụ thể triển khai nhân