I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN TUYT THANH
TộI VI PHạM QUI ĐịNH Về Vệ SINH AN TOàN THựC PHẩM
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2017
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN TUYT THANH
TộI VI PHạM QUI ĐịNH Về Vệ SINH AN TOàN THựC PHẩM
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS TRNG QUANG VINH
H NI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Tuyết Thanh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM ........................... 7
1.1.
Khái niệm về vệ sinh an toàn thực phẩm và tội vi phạm quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm ................................................ 7
1.1.1.
Khái niệm về thực phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm.................... 7
1.1.2.
Khái niệm tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm ........ 9
1.2.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định tội vi phạm quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong pháp luật hình sự ..... 13
1.3.
Khái quát lịch sử lập pháp về tội vi phạm quy định về vệ sinh
an toàn thực phẩm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm
1945 đến nay ................................................................................... 16
1.3.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1985 ......................................................................... 16
1.3.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ......... 17
1.3.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 ......... 20
1.3.4.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 .... 22
1.4.
Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo
quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới ...................... 33
1.4.1.
Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy
định của Bộ luật hình sự Trung Quốc.............................................. 33
1.4.2.
Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy
định của Bộ luật hình sự Thụy Điển ................................................ 35
1.4.3.
Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy
định của pháp luật Thái Lan ............................................................ 36
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 39
Chƣơng 2: TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ VỆ SINH AN TOÀN
THỰC PHẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 ........................................................... 40
2.1.
Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội vi phạm quy định về vệ
sinh an toàn thực phẩm ................................................................. 40
2.1.1.
Khách thể của tội phạm ................................................................... 40
2.1.2.
Mặt khách quan của tội phạm .......................................................... 41
2.1.3.
Chủ thể của tội phạm ....................................................................... 54
2.1.4.
Mặt chủ quan của tội phạm.............................................................. 55
2.2.
Trách nhiệm hình sự áp dụng đối với ngƣời phạm tội vi
phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm ............................ 56
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 64
Chƣơng 3: THỰC TIỄN XỬ LÝ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ VỆ
SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ VỆ SINH AN
TOÀN THỰC PHẨM ..................................................................... 65
3.1.
Tình hình vi phạm và thực tiễn xử lý tội vi phạm quy định về
vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội ......... 65
3.1.1.
Tình hình vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trên
địa bàn thành phố Hà Nội ................................................................ 65
3.1.2.
Thực tiễn xử lý tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội ............................................... 73
3.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự đối với tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn
thực phẩm........................................................................................ 78
3.2.1.
Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản liên
quan về tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm .......... 78
3.2.2.
Tăng cường năng lực quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm ...... 88
3.2.3.
Tăng cường phối hợp liên ngành trong thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát chất lượng an toàn thực phẩm .................................................. 89
3.2.4.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức
và pháp luật về an toàn thực phẩm .................................................. 90
3.2.5.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc bảo đảm an toàn thực
phẩm và hoạt động phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực an toàn thực phẩm .................................................... 93
3.2.6.
Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác bảo
đảm an toàn thực phẩm .................................................................... 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATTP :
An toàn thực phẩm
BLHS:
Bộ luật hình sự
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
VSATTP:
Vệ sinh an toàn thực phẩm
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 3.1. Số các vụ ngộ độc thực phẩm trên toàn quốc từ năm
2010 – 2015
67
Bảng 3.2. Số các vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn thành phố
Hà Nội từ năm 2010 – 2015
Bảng 3.3.
68
Nhóm hành vi vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực
phẩm trên toàn quốc từ năm 2010 – 2015
71
Bảng 3.4. Số vụ vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
(theo Điều 244 BLHS) trên địa bàn thành phố Hà Nội
từ năm 2010 – 2016
74
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An toàn thực phẩm là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, được tiếp cận
với thực phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ bản đối với mỗi con người.
Thực phẩm an toàn đóng góp to lớn trong việc cải thiện sức khoẻ con người,
chất lượng cuộc sống và chất lượng giống nòi. Vệ sinh an toàn thực phẩm là
vấn đề ngày càng được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội
quan tâm. Thực phẩm mất an toàn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe con người mà còn gây thiệt hại về kinh tế, gánh nặng cho gia đình và xã
hội. Hiện nay, công tác bảo đảm an toàn thực phẩm ở nước ta còn nhiều khó
khăn, thách thức. Tình trạng ngộ độc thực phẩm có xu hướng tăng và ảnh
hưởng không nhỏ tới sức khoẻ cộng đồng. Sản xuất, kinh doanh thực phẩm ở
nước ta cơ bản vẫn là nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình nên việc kiểm soát an toàn
vệ sinh rất khó khăn. Mặc dù Việt Nam đã có những tiến bộ rõ rệt trong bảo
đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trong thời gian qua song công tác quản lý an
toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém, bất cập, hạn chế về nguồn lực và đầu tư
kinh phí và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Tội phạm vi phạm quy định về VSATTP xâm hại nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khỏe của người sử dụng thực phẩm, xâm hại quy định của Nhà
nước về chất lượng thực phẩm. Chưa khi nào vấn đề thực phẩm bẩn lại nổi
cộm như hiện nay. Nhiều chủ cơ sở vì lợi ích kinh doanh mà bất chấp sử dụng
những hóa chất độc hại để biến những thực phẩm bẩn, hôi thối trở thành loại
hàng hóa tươi ngon. Ví dụ như gần đây, cơ quan chức năng phát hiện một cơ
sở ngâm chuối xanh trong thuốc diệt cỏ để làm cứng và chín chuối. Tuy
nhiên, hình thức xử lý cho hành vi này chỉ là phạt hành chính 6,4 triệu đồng
và hầu như những vụ thực phẩm bẩn khác khi bị phát hiện cũng chỉ dừng lại ở
1
việc phạt hành chính. Thực tế các cơ quan chức năng đang rất đau đầu với
việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực ATTP, bởi chế tài xử lý hiện nay quá nhẹ
nhàng, hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức xử lý vi phạm hành chính là phạt tiền,
bên cạnh hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh
từ 01 đến 06 tháng và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Hình thức
này chưa thực sự đủ sức răn đe người vi phạm, do đó cần phải áp dụng chế tài
hình sự thì mới có thể lập lại được trật tự. Chế tài hình sự được áp dụng đối
với hành vi vi phạm quy định về VSATTP được BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 quy định tại Điều 244 – Tội vi phạm quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm, nhưng hiệu quả trong việc phát hiện, xử lý và phòng ngừa vi
phạm trong lĩnh vực này chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong
tình hình hiện nay. Trên cơ sở kế thừa những quy định tại Điều 244 BLHS
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, việc quy định “Tội vi phạm quy định
về an toàn thực phẩm” tại Điều 317 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017 được đánh giá là một bước tiến mới trong quá trình lập pháp, thể hiện sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe
người tiêu dùng hiện nay.
Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn của cả
nước, luôn là nơi tập trung đông dân cư, vì vậy nhu cầu về thực phẩm rất lớn,
đa dạng về cả số lượng và chất lượng. Do nhu cầu về số lượng cũng như về
chất lượng cao cho nên tình hình về VSATTP trên địa bàn thành phố Hà Nội
ngày càng gặp nhiều khó khăn và công tác quản lý , bảo đảm an toàn thực
phẩ m trên điạ bàn Thủ đô gă ̣p không it́ thách thức . Việc kiểm soát, ngăn chặn
các sản phẩm không rõ nguồn gốc và bảo đảm an toàn thực phẩm còn chưa
chặt chẽ, kết quả chưa cao. Tình trạng ngộ độc thực phẩm vẫn còn tiềm ẩn,
diễn biến phức tạp, là mối đe dọa rất lớn đối với sức khỏe cộng đồng, gây bức
xúc trong nhân dân. Nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh chạy theo lợi nhuận,
không tính đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên thị trường lưu thông phân
2
phối ở Hà Nội hiê ̣n nay vẫn còn những sản phẩm chưa đúng quy chế về bao
gói, nhãn mác. Một số mặt hàng bánh kẹo, rau củ quả, rượu nhập ngoại chưa
dán đầy đủ nhãn phụ hướng dẫn người tiêu dùng khi mua hàng, đặc biệt là các
loại rượu, gia vị dùng trong thực phẩm vẫn tồn tại các sản phẩm thực phẩm có
phẩm màu công nghiệp, hóa chất cấm sử dụng, sản phẩm không nguồn gốc.
Hoạt động giết mổ gia súc, gia cầm nhỏ lẻ còn tồn tại trong dân gây ra bức
xúc và không bảo đảm vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. Một số
tổ chức , cá nhân buôn bán , chăn nuôi , vận chuyển gia súc , gia cầm vì lợi
nhuận đã bỏ qua các yêu cầu trong công tác kiểm dịch động vật
giết mổ , kiểm tra vệ sinh thú y và vệ sinh an toàn thực phẩm
, kiểm soát
. Ngoài r a, số
lươ ̣ng cơ sở sản xuất , kinh doanh thực phẩ m tại Hà Nội rất nhiều
, lại biến
động, có khi mang tính thời vụ , nhiều cơ sở nhỏ lẻ, nhiều chợ cóc, chợ tạm,
cơ sở giết mổ tự phát, nhiều thực phẩm không bảo đảm an toàn từ tỉnh khác
và nước ngoài cũ ng chuyển về , tạo ra nhiều khó khăn cho công tác bảo đảm
vệ sinh an toàn thực phẩm.
Chính vì vậy, với mong muốn nghiên cứu cụ thể những vấn đề lý luận
của tội vi phạm quy định về VSATTP tại Điều 244 BLHS năm 1999 và khảo
sát có hệ thống về thực tiễn xét xử tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà
Nội, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn
thực phẩm trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn
thành phố Hà Nội)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, tình hình vi phạm quy định về vệ sinh an toàn
thực phẩm diễn ra ngày càng nhiều, do đó, Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm đến công tác đảm bảo an toàn thực phẩm. Đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu khoa học, một số luận văn thạc sĩ, tiến sĩ Luật học nghiên cứu về
loại tội phạm trong lĩnh vực VSATTP này. Khi chọn nghiên cứu đề tài này,
tác giả đã tham khảo:
3
Sách chuyên khảo, giáo trình gồm có: Sách chuyên khảo sau đại học
Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung) của
GS.TSKH Lê Văn Cảm – Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ
biên) – Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam Phần chung (Giáo trình sau đại học) của GS.TS Võ Khánh Vinh – Nxb
Khoa học xã hội, 2014; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 của các tác giả TS Nguyễn Đức Mai (chủ biên) – GS.TS
Nguyễn Ngọc Anh – TS Nguyễn Văn Luyện – TS Trần Quang Tiệp – ThS
Nguyễn Mai Bộ - ThS Nguyễn Văn Huấn – Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật,
2013; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 của các tác giả PGS.TS
Cao Thị Oanh – TS Lê Đăng Doanh (chủ biên) – Nxb Lao động, 2016…
Các luận văn, công trình nghiên cứu gồm có: Luận án Tiến sĩ của tác
giả Trần Thị Thu Nga (2015) – Học viện Cảnh sát Nhân dân với tên đề tài
“Phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm theo chức
năng của lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường”; Luận văn
Thạc sĩ của tác giả Hoàng Ngọc Trí (2009) – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội với tên đề tài “Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong
Luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”;…
Các công trình nghiên cứu này khá phong phú, đã có những đóng góp
quan trọng vào việc làm rõ các vấn đề lý luận và tình hình tội phạm trong lĩnh
vực VSATTP, đã đưa ra đầy đủ các khái niệm, dấu hiệu pháp lý, nguyên
nhân, điều kiện phạm tội cũng như các giải pháp hướng tới việc hoàn thiện
loại tội này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đều nghiên cứu về tình
hình tội phạm nói chung trên phạm vi cả nước mà chưa có công trình nghiên
cứu riêng về tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trên cơ sở
thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội. Hơn nữa Quốc hội đã thông qua BLHS
4
năm 2015 và có sửa đổi một số bất cập về tội vi phạm quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm. Chính vì vậy, tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu này với
mong muốn đưa ra những vấn đề mới nhất về lý luận và thực tiễn của pháp
luật hình sự về tội vi phạm quy định về VSATTP trên địa bàn thành phố Hà
Nội nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trong thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn thạc sĩ: đưa ra cái nhìn tổng quát về
các quy định của pháp luật hình sự đối với tội vi phạm quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm. Từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm, những tồn tại và đưa ra
giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định về tội vi phạm quy định về vệ
sinh an toàn thực phẩm. Để đạt được những mục đích đó trong quá trình
nghiên cứu đề tài cần hoàn thiện nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ các khái niệm: “Thực phẩm”, “An toàn thực
phẩm”, “Vệ sinh thực phẩm”, “Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm”. Khái quát việc quy định tội vi phạm quy định về VSATTP trong lịch
sử lập pháp Việt Nam.
- Phân tích làm rõ dấu hiệu pháp lý cụ thể của tội vi phạm quy định về
VSATTP được quy định tại Điều 244 của BLHS năm 1999.
- Phân tích thực tiễn xử lý tội vi phạm quy định về VSATTP trên địa
bàn thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2010 – 2016, từ đó đưa ra một số đề
xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh chống tội phạm này.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về lý luận: Nghiên cứu quy định tại Điều 244 BLHS năm 1999 về tội
vi phạm quy định về VSATTP và những văn bản pháp luật có liên quan dưới
góc độ pháp luật hình sự.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu tình hình xử lý tội vi phạm quy định về
VSATTP giai đoạn 2010 – 2016 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề trên, việc nghiên cứu đề tài được tiến hành
trên cơ sở phương pháp luận Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm, có sử dụng các văn bản pháp luật
hình sự và văn bản pháp luật về an toàn thực phẩm.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau: phương pháp hệ thống hóa, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm ba chương và các tiểu mục sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về vệ sinh
an toàn thực phẩm.
- Chương 2: Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
- Chương 3: Thực tiễn xử lý tội phạm vi phạm quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với tội vi phạm quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm.
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ
VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Khái niệm về vệ sinh an toàn thực phẩm và tội vi phạm quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm
1.1.1. Khái niệm về thực phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm
Thực phẩm là bất kỳ vật phẩm nào, chủ yếu bao gồm các chất: chất bột
(cacbonhydrat), chất béo (lipit), chất đạm (protein), hoặc nước mà con người
hay động vật có thể ăn hay uống được, với mục đích cơ bản là thu nạp các chất
dinh dưỡng nhằm nuôi cơ thể hay vì sở thích. Các thực phẩm chủ yếu có nguồn
gốc từ thực vật, động vật và vi sinh vật, tuy nhiên cũng tồn tại một hoặc một
vài sản phẩm chế biến từ phương pháp lên men như rượu, bia… [6, tr.9]. Theo
Điều 2 Luật An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 ban hành ngày 17 tháng 6
năm 2010 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011, khái niệm “thực
phẩm” được hiểu như sau: “Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở
dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao
gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm”.
Theo định nghĩa của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên
hợp quốc (FAO) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì:
An toàn thực phẩm là việc bảo đảm thực phẩm không gây
hại cho sức khỏe, tính mạng người sử dụng, bảo đảm thực phẩm
không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hóa học, sinh
học hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép, không phải là sản
phẩm của động vật, thực vật bị bệnh có thể gây hại cho sức khỏe
người sử dụng [3, tr.10].
Theo quy định tại Điều 2 Luật An toàn thực phẩm, các khái niệm “an
7
toàn thực phẩm” và một số khái niệm có liên quan đến vấn đề VSATTP
được hiểu như sau:
- An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến
sức khỏe, tính mạng con người.
- Sản xuất thực phẩm là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động trồng trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, khai thác, sơ chế, chế biến, bao
gói, bảo quản để tạo ra thực phẩm.
- Sơ chế thực phẩm là việc xử lý sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thu hái,
đánh bắt, khai thác nhằm tạo ra thực phẩm tươi sống có thể ăn ngay hoặc tạo ra
nguyên liệu thực phẩm hoặc bán thành phẩm cho khâu chế biến thực phẩm.
- Chế biến thực phẩm là quá trình xử lý thực phẩm đã qua sơ chế hoặc
thực phẩm tươi sống theo phương pháp công nghiệp hoặc thủ công để tạo
thành nguyên liệu thực phẩm hoặc sản phẩm thực phẩm.
- Điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm là những quy chuẩn kỹ thuật
và những quy định khác đối với thực phẩm, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm và hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích bảo đảm thực phẩm an toàn đối
với sức khỏe, tính mạng con người.
Như vậy, “vệ sinh an toàn thực phẩm” có thể được hiểu là tất cả điều
kiện, biện pháp cần thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận
chuyển cũng như sử dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn,
không gây hại cho sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng.
Việc đưa ra các khái niệm trên nhằm mục đích hệ thống lại những
vấn đề có liên quan tới thực phẩm và VSATTP; đồng thời, từ các khái niệm
đó có thể phân tích và đưa ra khái niệm “Tội vi phạm quy định về vệ sinh
an toàn thực phẩm”.
8
1.1.2. Khái niệm tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
Để làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về
VSATTP thì cần tìm hiểu khái niệm về thực phẩm và hành vi nào được coi là
vi phạm quy định về VSATTP và phải chịu trách nhiệm pháp lý ở dưới dạng
trách nhiệm hình sự hay phi hình sự [68, tr.7].
Khái niệm thực phẩm và một số khái niệm liên quan đến vấn đề
VSATTP được quy định trong Luật an toàn thực phẩm năm 2010 đã được đưa
ra ở mục trên. Hành vi vi phạm quy định về VSATTP được coi là trái pháp
luật hình sự khi có đầy đủ các dấu hiệu về mặt pháp lý cũng như tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội và hậu quả gây ra ở mức độ đủ nghiêm trọng,
được quy định trong pháp luật hình sự. Đó là các hành vi sau đây:
- Hành vi “sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo
vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm” mà biết
là cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực
phẩm; hoặc biết là chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại
Việt Nam trong sản xuất thực phẩm;
- Hành vi “sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị
tiêu hủy” theo quy định của pháp luật để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp,
bán thực phẩm mà biết là có nguồn gốc từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh
hoặc động vật bị tiêu hủy;
- Hành vi “nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm” mà biết là có sử
dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm
cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng; hoặc biết là có sử
dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm
chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam;
- Hành vi “chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm” mà biết là thực
phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm;
9
Trên cơ sở quy định về tội vi phạm quy định về VSATTP và khái niệm
về tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999, tác giả đưa ra
khái niệm tội vi phạm quy định về VSATTP như sau:
Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm trong quá
trình sản xuất, chế biến, cung cấp, bán thực phẩm gây tổn hại cho tính mạng
hoặc sức khỏe của người khác được quy định trong Bộ luật hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách có lỗi và phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi gây ra.
Khái niệm về tội vi phạm quy định về VSATTP được đưa ra ở trên đã
phản ánh được đầy đủ các đặc điểm của tội phạm này, theo đó tội vi phạm
quy định về VSATTP bao gồm năm đặc điểm:
- Thứ nhất, tội vi phạm quy định về VSATTP là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, vi phạm các quy định về ATTP;
- Thứ hai, tội vi phạm quy định về VSATTP là hành vi bị luật hình sự
cấm, được quy định trong Bộ luật hình sự;
- Thứ ba, tội vi phạm quy định về VSATTP được thực hiện một cách có lỗi;
- Thứ tư, tội vi phạm quy định về VSATTP là hành vi do người có năng
lực TNHS thực hiện;
- Thứ năm, tội vi phạm quy định về VSATTP là hành vi do người đủ tuổi
chịu TNHS thực hiện.
Để góp phần làm sáng tỏ một cách sâu sắc hơn nữa về mặt lý luận của
khái niệm tội vi phạm quy định về VSATTP, cần phải lần lượt xem xét những
nét chủ yếu của năm đặc điểm nêu trên của tội phạm này mà thông qua đó có
thể nhận thấy nội hàm của từng đặc điểm [19, tr.297]:
- Nội hàm của đặc điểm thứ nhất – tội vi phạm quy định về VSATTP là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm các quy định về ATTP có những nét
10
chủ yếu sau: đây là một đặc điểm được chính thức ghi nhận trong định nghĩa
pháp lý của khái niệm tội phạm theo luật hình sự Việt Nam (Điều 8 khoản 1),
bất kỳ một tội phạm nào cũng đều là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nhận
thức rõ được điều này thì có thể lý giải được việc các nhà làm luật tiến hành
phân chia các hành vi vi phạm quy định về ATTP thành hai loại khác nhau –
tội phạm hay vi phạm pháp luật hành chính. Khi xác định tính nguy hiểm cho
xã hội là một đặc điểm của tội vi phạm quy định về VSATTP cần chú ý là
hành vi vi phạm quy định về ATTP bị coi là nguy hiểm cho xã hội nhất định
phải là hành vi gây nên (hoặc có khả năng thực tế gây nên) thiệt hại cho tính
mạng hoặc sức khỏe của người khác.
- Nội hàm của đặc điểm thứ hai – tội vi phạm quy định về VSATTP là
hành vi bị luật hình sự cấm, được quy định trong Bộ luật hình sự có nét chủ
yếu sau: đặc điểm này cho phép lý giải rằng chỉ có hành vi nguy hiểm cho xã
hội vi phạm các quy định về ATTP bị luật hình sự cấm - bị nhà làm luật coi là
tội phạm và quy định hình phạt đối với việc thực hiện hành vi đó trong Bộ luật
hình sự, thì việc thực hiện hành vi đó một cách có lỗi mới bị coi là tội phạm.
- Nội hàm của đặc điểm thứ ba – tội vi phạm quy định về VSATTP
được thực hiện một cách có lỗi có những nét chủ yếu sau: khi hành vi vi
phạm các quy định về ATTP được con người thực hiện một cách có lỗi thì
hành vi đó mang tính chất lỗi – trở thành hành vi phạm tội và chính vì vậy,
dẫn đến hậu quả pháp lý – người có lỗi trong việc thực hiện hành vi vi phạm
quy định về ATTP phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự. Còn
ngược lại, nếu như hành vi vi phạm quy định về ATTP bị luật hình sự cấm tuy
được thực hiện trong thực tế khách quan, nhưng người thực hiện hành vi đó
lại không có lỗi – đã tác động đến hành vi do sự kiện bất ngờ chứ không phải
do ý chí chủ quan của người ấy thì hành vi đó mang tính chất không có lỗi,
không thể bị coi là hành vi tội phạm và do đó, người không có lỗi trong việc
11
thực hiện hành vi vi phạm quy định về ATTP thì không phải chịu TNHS theo
quy định của pháp luật hình sự.
- Nội hàm của đặc điểm thứ tư – tội vi phạm quy định về VSATTP là
hành vi do người có năng lực TNHS thực hiện có nét chủ yếu sau: để coi là
một người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm vi phạm quy định về VSATTP
– có thái độ tâm lý đối với hành vi bị luật hình sự cấm do mình thực hiện và
đối với hậu quả của hành vi đó, thì chủ thể của hành vi đó nhất thiết phải là
người có năng lực TNHS, tức là người mà tại thời điểm thực hiện tội phạm có
đầy đủ hai tiêu chí cơ bản và bắt buộc là phải có trạng thái bình thường
(không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất hoàn toàn khả năng nhận
thức được hoặc khả năng điều khiển được hành vi của mình); và phải có khả
năng nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật
hình sự của hành vi do mình thực hiện, cũng như khả năng điều khiển được
đầy đủ hành vi đó [19, tr.305].
- Nội hàm của đặc điểm thứ năm – tội vi phạm quy định về VSATTP là
hành vi do người đủ tuổi chịu TNHS thực hiện có nét chủ yếu sau: tuổi chịu
TNHS có mối quan hệ trực tiếp với năng lực TNHS và gián tiếp với lỗi, khi
đủ tuổi chịu TNHS theo luật định, thì đó chính là một trong những cơ sở cần
thiết để có thể có (chứ không nhất thiết là sẽ có) năng lực TNHS. Vì trên thực
tiễn cho thấy, vẫn có những người đủ tuổi chịu TNHS (có khả năng nhận thức
được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự của hành
do mình thực hiện, cũng như điều khiển được hành vi ấy), nhưng thực sự họ
không có năng lực TNHS. Từ đây, có thể khẳng định rằng, chỉ khi nào hành
vi vi phạm quy định về ATTP bị luật hình sự cấm có tính chất lỗi là tội phạm
khi chủ thể của hành vi đó tại thời điểm thực hiện hành vi là người có năng
lực TNHS và phải đủ tuổi chịu TNHS theo luật định.
12
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định tội vi phạm quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong pháp luật hình sự
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã ý thức được tầm quan
trọng đặc biệt của việc bảo đảm ATTP. Nhà nước ta đã ban hành nhiều loại
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để ngăn chặn, phòng chống, xử lý triệt
để các hành vi vi phạm các quy định về ATTP. Trong số các biện pháp pháp
lý được sử dụng để bảo vệ các quy định về ATTP có biện pháp pháp lý hình
sự. Trong BLHS năm 1985 của nước ta, lần đầu tiên nhà lập pháp nước ta đã
xây dựng một điều luật quy định về tội vi phạm các quy định về VSATTP gây
hậu quả nghiêm trọng. Điều này thể hiện sự phát triển tư duy pháp lý hình sự
trong việc phòng chống các hành vi nguy hiểm xâm phạm các quy định về
VSATTP ở nước ta. Hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng
thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh,
phòng chống tội phạm vi phạm các quy định về VSATTP. Nước ta đang trong
quá trình hoàn thiện BLHS năm 2015, cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của BLHS năm 2015, việc quy định về tội vi phạm quy định về VSATTP
cũng là một chủ đề gây tranh cãi nhiều trên nhiều phương diện. Song nhìn
chung có thể khẳng định rằng, các biện pháp pháp lý hình sự ngày càng được
sử dụng nhiều hơn để bảo vệ vấn đề VSATTP và điều đó nói lên vai trò to lớn
của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ các quy định về VSATTP.
Thứ hai, việc bảo vệ các quy định về VSATTP bằng các biện pháp
pháp lý hình sự chính là việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm các quy định về ATTP. Phạm vi của việc bảo vệ các quy định về
VSATTP bằng các biện pháp pháp lý hình sự và hiệu quả của việc bảo vệ đó
ở một mức độ nào phụ thuộc vào việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm
13
xâm phạm các quy định về ATTP nói trên. Do vậy, cần phải xem xét một
cách kỹ lưỡng, đầy đủ nhân tố quyết định mức độ, tính chất và các phương
thức của việc tội phạm hóa các hành vi xâm phạm các quy định về ATTP. Sự
cần thiết của việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
các quy định về ATTP được quyết định bởi tính nguy hiểm ngày càng cao của
các hành vi này. Trong tình hình phát triển hiện nay, phải dùng thực phẩm
không an toàn, thực phẩm chứa nhiều chất hóa học độc hại, nhiều vi khuẩn
đang là mối lo ngại sâu sắc của nhiều người. Mối nguy hại của thực phẩm
không an toàn khiến tâm lý người dân bất ổn vì bệnh tật, bằng chứng là những
vụ ngộ độc thực phẩm ngày một gia tăng. Thực phẩm không an toàn lưu hành
tràn lan trên thị trường cũng khiến các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý về
thực phẩm đau đầu và nỗ lực hết sức nhằm hạn chế một cách thấp nhất sự
xuất hiện của những loại thực phẩm không tốt cho sức khỏe của người tiêu
dùng bằng nhiều biện pháp quyết liệt. Xuất phát từ những điều này, các nhà
làm luật nước ta đã sử dụng biện pháp hình sự để đấu tranh với các hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm phạm các quy định về ATTP [50, tr.5].
Thứ ba, việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
các quy định về ATTP đã được ghi nhận trong BLHS nước ta ở một chừng
mực nhất định được quyết định bởi trạng thái và sự phát triển của các ngành
luật khác, trước hết là luật hiến pháp. Việc tội phạm hóa các hành vi này xuất
phát từ các yêu cầu được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 về bảo đảm thực
hiện quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với tính cách
là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Theo đó, BLHS cần tiếp tục hoàn thiện về
tội vi phạm quy định về VSATTP để góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ
mạnh để bảo vệ một môi trường sống an lành cho nhân dân.
14
Thứ tư, khi tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
các quy định về ATTP, nhà làm luật nước ta đã cân nhắc cả các nhân tố tội
phạm học như thực trạng, cơ cấu và diễn biến của các hành vi xâm hại trong
lĩnh vực đó. Từ nghiên cứu thực tiễn cho thấy các hành vi xâm phạm vào các
quy định về ATTP là một trong những loại hành vi xảy ra phổ biến nhất ở
nước ta hiện nay và các thiệt hại do các hành vi đó gây ra có chiều hướng
ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Thứ năm, cùng với việc mở rộng nhóm các hành vi bị truy cứu TNHS,
nhà làm luật đã xác định rõ các điều kiện, tiêu chuẩn của việc tội phạm hóa
loại hành vi vi phạm quy định về VSATTP; các điều kiện, tiêu chuẩn này có
thể được nhận thức và phân thành các nhóm sau:
- Các tiêu chuẩn của việc tội phạm hóa liên quan đến hậu quả. Tội vi
phạm quy định về VSATTP theo BLHS năm 1999 được xây dựng theo loại
cấu thành vật chất, tức là phải có hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng hoặc
gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe người tiêu dùng. Tuy nhiên điều này
dẫn đến việc khó truy cứu TNHS người phạm tội nên BLHS 2015 đã có
những sửa đổi mới, theo đó tội vi phạm quy định về VSATTP vừa có cấu
thành hình thức, vừa có cấu thành vật chất, tức là trong một số trường hợp chỉ
cần có hành vi mà không cần hậu quả xảy ra.
- Trong một số trường hợp để thu hẹp phạm vi của TNHS, nhà làm luật
đã sử dụng các dấu hiệu về nhân thân người vi phạm, tính nguy hiểm cao của
người đó: đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Điều đó phù hợp với nhận thức
về việc sử dụng TNHS với tư cách là biện pháp cuối cùng được áp dụng khi
các biện pháp tác động khác không có hiệu quả.
Trong tổng thể các hướng tội phạm hóa nói trên đều nhằm hướng đảm
bảo sự bảo vệ các quy định về VSATTP bằng các biện pháp pháp lý hình sự,
15
với việc cân nhắc tối đa ở đó các hậu quả của quá trình tội phạm hóa các hành
vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định về ATTP.
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp về tội vi phạm quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1985
Tìm hiểu pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm
1985 cho thấy, tại giai đoạn này tuy đã có quy định về tội phạm liên quan đến
vấn đề thực phẩm nhưng quy định về tội vi phạm quy định về VSATTP lại
chưa được một văn bản pháp luật hình sự nào ghi nhận. Tội phạm liên quan
đến vấn đề thực phẩm được pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ này quy định
đó là “Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả” có liên quan đến vấn đề
thực phẩm, cụ thể tại “Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả,
kinh doanh trái phép” của Hội đồng Nhà nước ngày 30/6/1982 [68, tr.21].
Theo khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh này quy định “Phạm tội làm hàng giả hoặc
buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, hoặc phạm tội
trong trường hợp nghiêm trọng quy định ở khoản 1 Điều 9 Pháp lệnh này
(phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm; đầu cơ, tàng trữ, buôn
lậu hàng hóa có số lượng hoặc giá trị lớn, hoặc thu lợi bất chính lớn; lợi dụng
thiên tai hoặc chiến tranh để phạm tội; phạm tội có tổ chức; lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước hay tổ chức xã hội để
phạm tội; có hành động chống lại cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ) thì bị phạt
tù từ 3 năm đến 12 năm, bị phạt tiền đến năm mươi vạn đồng (500.000 đồng),
và có thể bị tịch thu một phần tài sản”. Khoản 3 Điều 5 Pháp lệnh quy định
“Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả có chất độc hại hoặc các chất
khác có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng,
hoặc phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở khoản 2
16
Điều 9 Pháp lệnh này (phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến nền
kinh tế quốc dân hoặc sức khỏe, tính mạng của người khác; phạm tội gây hậu
quả nghiêm trọng đến an ninh, quốc phòng; phạm tội tập trung nhiều tình tiết
nghiêm trọng ở khoản 1 Điều 9 Pháp lệnh này) thì bị phạt tù từ 10 đến 20 năm
hoặc tù chung thân, bị phạt tiền đến một triệu đồng (1.000.000 đồng) và có
thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Có thể thấy, tuy pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn này không quy
định một cách cụ thể và trực tiếp tội vi phạm quy định về VSATTP nhưng cũng
đã có quy định về tội gián tiếp liên quan tới vấn đề thực phẩm. Điều này cho
thấy Nhà nước đã có sự quan tâm rất sớm đến vấn đề về thực phẩm giả không
bảo đảm, đã có những chế tài thích hợp đối với những người phạm tội gây ra
hậu quả nguy hiểm nhằm bảo vệ sức khỏe và tính mạng người tiêu dùng.
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Việc Nhà nước ta ban hành BLHS năm 1985 là một sự kiện chính trị pháp lý quan trọng, góp phần tích cực vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đáp ứng việc thực hiện nghiêm chỉnh Hiến
pháp 1980, tăng cường pháp chế, giữ gìn an toàn chính trị và trật tự an toàn xã
hội, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện một bước hệ thống pháp luật nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng [73, tr.72].
Vấn đề VSATTP là vấn đề quan trọng, được toàn xã hội quan tâm,
chính vì vậy, BLHS đầu tiên của nước ta ban hành vào năm 1985 đã pháp
điển hóa hành vi vi phạm quy định về vệ sinh thực phẩm, nếu hành vi phạm
tội đã gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Tội phạm này được quy
định trong Điều 197 tại mục A – Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
Chương VIII – Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý
hành chính, cụ thể như sau:
17