Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

N ng cao n ng l c c nh tranh c a chi nh nh Ng n h ng C ng th ng Ch ng D ng trong b i c nh Vi t Nam h i nh p kinh t qu c t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.63 MB, 71 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho
tất cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự
đóng góp của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp
tài liệu xin quý khách gửi về

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI MỞ ĐẦU
i) Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều
kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới
thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy
mạnh hội nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh trở thành kênh dẫn
nhập vốn hàng đầu, là cách tốt nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam từng
bước chuyển dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính-tiền tệ Việt Nam sẽ phát triển mạnh hơn cả
theo chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt là sự gia tăng hoạt động của các định chế tài chính
như các ngân hàng thương mại cổ phần, các tổ chức tài chính phi ngân hàng và các tổ
chức tài chính ngân hàng đa quốc gia. Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ tiếp tục
được hoàn thiện theo hướng đầy đủ hơn, đồng bộ hơn, minh bạch hơn và bình đẳng hơn
giữa các chủ thể tham gia thị trường. Rõ ràng là những biến đổi này sẽ tạo ra cho các
ngân hàng Việt Nam môi trường kinh doanh mới với nhiều điều kiện thuận lợi, mở ra
nhiều cơ hội kinh doanh và hợp tác cùng phát triển.
Tuy nhiên, chính sức ép của cạnh tranh và hội nhập sẽ buộc các ngân hàng Việt
Nam phải nỗ lực đổi mới để có thể tồn tại và phát triển. Hiện nay, hệ thống ngân hàng
Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi can thiệp của các cơ quan chính quyền,


tình trạng tài chính yếu kém, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, công nghệ ngân hàng
tụt hậu so với các nước, nợ khó đòi cao, môi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định đã đặt hệ
thống ngân hàng vào tình thế rủi ro khá cao. Vì vậy, lĩnh vực ngân hàng cần nhanh chóng
hội nhập cùng với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống ngân hàng
có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm
dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Không nằm ngoài xu thế đó, Chi
nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương cũng xác định phải chủ động đẩy mạnh
quá trình cải cách, tiếp tục đổi mới triệt để và toàn diện hơn để nâng cao năng lực cạnh
tranh, vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Dựa trên những phân tích trên, em chọn đề tài : "Nâng cao năng lực cạnh tranh
của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hội nhập kinh tế quốc tế". Luận văn tốt nghiệp đi sâu nghiên cứu tình hình hoạt động và
thực trạng năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương,
trên cơ sở đó tính toán một số chỉ tiêu phân tích, rút ra nhận xét chủ quan, mạnh dạn đưa
ra những kiến nghị mong muốn góp một phần nhỏ trong quá trình không ngừng đổi mới
và hoàn thiện Chi nhánh.
Q

ii) Mục đích của đề tài
Mục đích của đề tài nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân

hàng Công thương Chương Dương ở thời điểm hiện tại; đồng thời xác định các cản trở
hạn chế năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trên cơ sở đó, đề
xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng trong thời gian tới.
iii) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công
thương Chương Dương
- Phạm vi nghiên cứu: Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế

iv) Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu thống kê.
v) Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu theo 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Tình hình hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi
nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG
DƯƠNG

1.1. Một số khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Trước đây, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh
tranh của các nhà tư bản. Theo C.Mác: "Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự
đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch". Ở đây, C.Mác đã đề cập tới
vấn đề cạnh tranh trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà đặc trưng của chế độ này là chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do vậy, theo quan niệm này thì cạnh tranh có
nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh được xem xét là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để

tồn tại. Quan niệm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực.
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài trước đây, cạnh tranh cũng được nhìn nhận
dưới góc độ tiêu cực: cạnh tranh gắn với đổ vỡ, cạnh tranh là tiêu diệt lẫn nhau, là “cá
lớn nuốt cá bé”. Nhận thức không đầy đủ về cạnh tranh đã dẫn tới không thừa nhận cạnh
tranh, tạo ra sự độc quyền, nuôi dưỡng độc quyền trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại hiện nay, cạnh tranh là
động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Cạnh tranh thúc đẩy
các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất - kinh doanh (năng lực tổ chức quản lý,
trình độ công nghệ, trình độ tay nghề, ...), nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử
dụng nguồn lực. Cạnh tranh không phải chỉ có tranh giành, mà cạnh tranh luôn đi với
hợp tác, cạnh tranh trong sự hợp tác và bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Do đó, ngày nay hầu
hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường
vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt,
quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hoá cụ thể
nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hàng hoá và thu được lợi nhuận cao. Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế
thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu
và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ nào cần
phải quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả
thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các doanh nghiệp.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh (còn
gọi là sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh) của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn sức
cạnh tranh với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm lại
gắn sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo thị phần mà nó chiếm giữ, có người lại đồng
nghĩa công cụ cạnh tranh với các chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh của hàng hoá, của
doanh nghiệp, và thậm chí có người còn đồng nghĩa sức cạnh tranh với hiệu quả kinh

doanh của doanh nghiệp...
Tuy nhiên có thể hiểu một cách chung nhất: “Năng lực cạnh tranh chính là thực
lực và lợi thế mà quốc gia (ngành, doanh nghiệp hay sản phẩm dịch vụ) có thể huy động
được để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị
trường thế giới một cách lâu dài và có ý chí nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền
kinh tế của mình và cho quốc gia (ngành, doanh nghiệp hay sản phẩm dịch vụ) mình.”
Như vậy, năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành bởi nhiều
yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô, là kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố và chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài của quốc gia
( ngành, doanh nghiệp, hay sản phẩm dịch vụ)
1.2. Tổng quan về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Các
ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ mà chúng thực hiện trong
nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất
nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi
giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung
cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang đối phó với các đối thủ
cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư
vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về Ngân hàng thương mại. Cách tiếp cận thận
trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ
mà chúng cung cấp.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại: “Ngân hàng thương mại là các tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.

Ở Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường
xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ
dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước
xác định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và được phép sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh toán.”
Như vậy, Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản
nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu
nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt
động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là
"vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch
lãi suất đó chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng
thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình
doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Qua những khái niệm trên, ta có thể rút ra một số điểm đặc trưng của Ngân hàng
thương mại như sau:
 Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công
chúng với trách nhiệm hoàn trả.
 Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công
chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Hiện nay, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì
nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có
vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu.
1.2.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại thể hiện ở thực lực và lợi
thế của Ngân hàng thương mại đó so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất
các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh
của một Ngân hàng thương mại trước hết phải được tạo ra từ thực lực của chính ngân
hàng đó. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi ngân hàng, không chỉ được tính bằng các
tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị … một cách riêng biệt mà cần
đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng
một thị trường. Năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại thể hiện ở khả năng
cung cấp các sản phẩm và dịch vụ với giá cả thấp hoặc hợp lý, chất lượng cao, uy tín cao,
thực hiện tốt các cam kết với các bạn hàng và làm hài lòng khách hàng. Trên cơ sở các so
sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, ngoài các yếu tố nội hàm, Ngân hàng thương
mại còn phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, Ngân
hàng thương mại có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như
lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Nói tóm lại, năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại là sự tổng hợp của
các yếu tố từ công tác chỉ đạo và điều hành, chất lượng đội ngũ cán bộ, uy tín và thương
hiệu của Ngân hàng thương mại. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng được đo bằng khả
năng duy trì và mở rộng thị phần, khả năng thu lợi nhuận của Ngân hàng trong môi
trường cạnh tranh trong và ngoài nước.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển trong một thời gian dài đòi hỏi Ngân hàng
thương mại phải có một năng lực cạnh tranh tốt. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
thương mại được cấu thành nên từ những lợi thế cạnh tranh trong từng giai đoạn của
Ngân hàng. Đó là những lợi thế Ngân hàng có được tạo ra và sử dụng trong cạnh tranh,
nhờ đó Ngân hàng có thể tạo ra một số tính trội hơn, ưu việt hơn so với đối thủ trực tiếp.
Xem xét dưới góc độ hoạt động cơ bản, các lĩnh vực cạnh tranh chủ yếu của Ngân hàng
thương mại được phân như sau:
* Cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Huy động vốn là một trong những hoạt động tạo vốn quan trọng hàng đầu của

các Ngân hàng thương mại. Với chức năng và nhiệm vụ của mình, các Ngân hàng thương
mại đã thu hút, tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng của các doanh
nghiệp, các tầng lớp dân cư vào Ngân hàng. Mặt khác, trên cơ sở nguồn vốn huy động
được, Ngân hàng sẽ tiến hành hoạt động cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản
xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của vùng, ngành kinh tế, các thành phần kinh tế,
đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng thương mại đã thực sự huy động
được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nếu
như không có Ngân hàng thương mại, việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản
xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ chậm đi rất nhiều. Nhờ hoạt động này của Ngân hàng
thương mại, tiền tiết kiệm của cá nhân, đoàn thể, các tổ chức kinh tế được huy động vào
quá trình vận động của nền kinh tế. Nó chuyển của cải, tài nguyên xã hội từ nơi chưa sử
dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao
mức sống xã hội.
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng ngày càng mở rộng, uy tín và vị thế của
Ngân hàng sẽ càng được khẳng định, Ngân hàng sẽ chủ động trong hoạt động kinh
doanh, mở rộng quan hệ với các thành phần kinh tế, tổ chức, dân cư. Điều quan trọng là
Ngân hàng cần phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của từng vùng,
từng ngành trong cả nước,… để từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp, nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
* Cạnh tranh trong lĩnh vực sử dụng vốn.
Đây là hoạt động trực tiếp đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Đối tượng kinh
doanh của Ngân hàng thương mại là tiền tệ và quyền sử dụng tiền tệ, do vậy lợi tức của
Ngân hàng có được chủ yếu từ việc đầu tư và cho vay. Nếu một Ngân hàng huy động
được nguồn vốn dồi dào nhưng không có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả thì
không những không đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng, ngược lại còn không có nguồn bù
đắp chi phí từ việc huy động. Do vậy, có thể nói sử dụng vốn là hoạt động hết sức quan
trọng của mỗi Ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn bao gồm các hoạt động ngân quỹ, cho
vay, đầu tư tài chính,…
Một Ngân hàng có hoạt động sử dụng vốn với hiệu quả cao sẽ nâng cao vai trò,

uy tín của Ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường, từ đó sẽ thu hút được
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nhiều khách hàng đến giao dịch với mình, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hoạt động
huy động vốn. Vì vậy, nhiệm vụ của mỗi Ngân hàng là phải thường xuyên bám vào các
mục tiêu phát triển kinh tế của vùng, ngành, đất nước,… nhằm đưa ra các hình thức đầu
tư đúng đắn, có hiệu quả cao, thực hiện nghiên cứu thị trường, nghiên cứu của ngân
hàng. Ở các nước phát triển, Ngân hàng thương mại thực hiện rất nhu cầu sử dụng vốn
của xã hội, thực hiện cho vay theo dự án đầu tư, chương trình phục hồi sản xuất.
* Cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ trung gian của ngân hàng
Đó là các hoạt động Ngân hàng cung ứng dịch vụ phục vụ khách hàng. Nền kinh
tế ngày càng phát triển, các dịch vụ của Ngân hàng cũng phát triển theo để đáp ứng nhu
cầu ngày càng phong phú đa dạng của khách hàng, Ngân hàng thực hiện hoạt động trung
gian và được hưởng thu nhập từ phí hoặc hoa hồng. Các hoạt động trung gian phản ánh
mức độ phát triển nhiều hoạt động trung gian và luôn có dịch vụ cung cấp nhiều tiện ích
cho khách hàng. Thu nhập từ các hoạt động trung gian chiếm khoảng 30-35% tổng thu
nhập của Ngân hàng.
Việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng sẽ làm tăng thu nhập cho Ngân
hàng, tăng uy tín và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Có thể thấy, xu hướng nguồn
thu về dịch vụ trung gian ngày càng tăng và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu về kinh
doanh của Ngân hàng. Đồng thời với các hoạt động trung gian này, ngân hàng thương
mại góp phần làm tăng khả năng chu chuyển của đồng vốn, giảm lượng tiền mặt trong
lưu thông, do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông trong xã hội. Mặt khác, thực hiện tốt
các hoạt động này, Ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Điều đó cũng tạo
điều kiện phát triển hoạt động huy động vốn và cho vay của Ngân hàng.
1.2.3. Tính đặc thù trong cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các Ngân hàng
thương mại trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ
các Ngân hàng thương mại khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động
kinh doanh trên thương trường với mục tiêu là để giành giật khách hàng, tăng thị phần tín

dụng cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy
vậy, so với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các Ngân hàng
thương mại có những đặc thù nhất định. Cụ thể:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />(1) Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu
tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn
hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh
chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: chỉ cần một tin đồn
thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn
vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một Ngân hàng thương mại hoạt động yếu
kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh
tế và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các Ngân hàng thương
mại tuy phải cạnh tranh để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần, nhưng
cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để
thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các Ngân hàng thương mại khác bị suy
yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ
vỡ luôn chính Ngân hàng thương mại này do tác động dây chuyền.
(2) Hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có liên quan đến tất cả
các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy
động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác; đồng thời,
trong hoạt động kinh doanh của mình, các Ngân hàng thương mại cũng đều mở tài khoản
cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Chính vì vậy, nếu như một
Ngân hàng thương mại bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác
động dây chuyền đến gần như tất cả các Ngân hàng thương mại khác, không những thế,
các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đây quả là điều mà các Ngân
hàng thương mại không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy, các Ngân hàng thương mại
trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn
phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ

thống.
(3) Do hoạt động của các Ngân hàng thương mại có liên quan đến tất cả các chủ
thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các Ngân
hàng thương mại mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương các
nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để
phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà Ngân hàng Trung
ương thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />của thị trường tài chính - tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy,
sự cạnh tranh trong hệ thống các Ngân hàng thương mại không thể dẫn đến làm suy yếu
và thôn tính lẫn nhau như các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế.
(4) Hoạt động của các Ngân hàng thương mại liên quan đến lưu chuyển tiền tệ,
không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các
hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy, kinh doanh trong hệ thống Ngân hàng thương mại
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập
quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… đặc biệt nó chịu sự chi phối mạnh
mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực
kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng
này. Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các Ngân hàng thương mại
trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của
các nước, sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng
được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một Ngân hàng thương mại mở
ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh tranh với
các Ngân hàng thương mại khác đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên, muốn
lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ
tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì không thể hoạt động được. Như vậy, sự cạnh tranh
của các Ngân hàng thương mại là loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực
khắt khe hơn bất cứ loại hình kinh doanh nào khác.
.1.2.4. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại

Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, cạnh tranh mang tính tất yếu, khách quan
và đó cũng là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường như hiện
nay, cạnh tranh sẽ không chỉ là tạo động lực để phát triển mà còn phải đối mặt với những
yếu tố không lành mạnh nhằm chiếm lĩnh ưu thế trên thương trường, để thu lợi nhuận cao
hơn và đương nhiên nảy sinh sự thôn tính, sáp nhập, phá sản, giải thể và cả những rủi ro
về đạo đức…
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và Ngân hàng thương mại nói
riêng được biểu hiện bằng tiềm năng về tài chính, quản trị điều hành, chất lượng đội ngũ,
chất lượng và hiệu quả hoạt động, tốc độ đổi mới về công nghệ và sản phẩm… Năng lực
tài chính của một Ngân hàng thương mại là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn tự
có, chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời và khả năng đảm bảo an
toàn trong hoạt động kinh doanh.
Một Ngân hàng thương mại có năng lực tài chính tốt phải là Ngân hàng thương
mại luôn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển một cách ổn định, bền vững
trong mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thế giới. Ngân hàng
thương mại có khả năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính cho nền
kinh tế. Ngân hàng thương mại luôn đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách hàng về vốn và các
dịch vụ ngân hàng phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và thế giới.
Ngân hàng thương mại còn phải bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của mình một cách
an toàn, không xảy ra những đổ vỡ hay phá sản. Năng lực tài chính của một Ngân hàng
thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Năng lực tài chính của một Ngân hàng
thương mại càng được đảm bảo thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp
và năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trên thị trường càng cao. Do vậy, năng
lực tài chính của Ngân hàng thương mại phải không ngừng được nâng cao và hoàn thiện
và là điều kiện không thể thiếu được bất cứ một Ngân hàng thương mại nào.
Năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại được đánh giá dựa trên các yếu tố
định lượng và các yếu tố định tính.

+ Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: quy mô
vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…
+ Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn
lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ công nghệ,
chất lượng nguồn nhân lực…
Như vậy, năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại có thể được đánh
giá qua các tiêu chí sau:
(1) Nguồn lực tài chính: bao gồm yếu tố vốn, chất lượng tài sản, khả năng
thanh toán và khả năng sinh lời…
* Yêú tố vốn
Nguồn vốn của Ngân hàng được hình thành theo nhiều kênh dẫn khác nhau,
trong đó tiền gửi của khách hàng là nguồn tiền quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn tiền của Ngân hàng. Nguồn vốn đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn
tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Nó cung cấp năng lực tài chính cho quá trình
tăng trưởng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như cho sự phát triển của các sản
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />phẩm dịch vụ mới của Ngân hàng thương mại; giúp Ngân hàng thương mại chống lại rủi
ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; bảo vệ người gửi tiền khi gặp
rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đồng thời nâng cao uy tín của Ngân hàng thương mại
với khách hàng, các nhà đầu tư. Vì vậy có thể khẳng định: Vốn là yếu tố quan trọng tạo
đối với Ngân hàng thương mại, vì nó nói nên sức mạnh và khả năng cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại trên thị trường trong nước. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để Ngân hàng
thương mại mở rộng hoạt động tới các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Do đó,
quy mô vốn có thể coi là tiêu chí hết sức quan trọng khi đánh giá năng lực cạnh tranh của
một ngân hàng thương mại, thể hiện năng lực tài chính vốn có của chính bản thân Ngân
hàng thương mại.
Đối với yếu tố vốn của Ngân hàng, ta sẽ tập trung đánh giá theo hai chỉ tiêu sau:
 Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là tiền gửi thanh toán,
tiền gửi tiết kiệm và vay: Đây là chỉ tiêu đánh giá khối lượng vốn huy động. Nó có ảnh

hưởng đến quy mô phát triển hoạt động ngân hàng bởi hoạt động kinh doanh cơ bản của
ngân hàng là huy động để cho vay và các hoạt động thanh toán khác. Nếu nguồn vốn
không ổn định và có chất lượng không tốt sẽ dễ làm cho ngân hàng mất khả năng thanh
toán và đưa đến thua lỗ, phá sản. Vậy mặt chất lượng biểu hiện trong tính hiệu quả về tác
dụng thực tiễn và mức độ ảnh hưởng của quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh trong
từng giai đoạn cụ thể.
 Cơ cấu nguồn vốn và sự thay đổi cơ cấu: Cơ cấu vốn, sự biến động về cơ
cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo là rủi ro, biến
động về thu nhập, vì vậy cơ cấu vốn cần phải có sự ổn định và phù hợp với hoạt động
của ngân hàng.
* Chất lượng tài sản:
Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn để sử
dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản
khác nhau của Ngân hàng. Do Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ
nên phần lớn tài sản của Ngân hàng là các tài sản tài chính, bao gồm các hợp đồng cho
vay, hợp đồng thuê - mua, các chứng khoán, các khoản tiền gửi ... ( tài sản sinh lời), một
phần nhỏ trong khối tài sản của Ngân hàng là tài sản cố định như nhà cửa, trang thiết
bị ...( tài sản không sinh lời), trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan
trọng của Ngân hàng. Mỗi loại tài sản được hình thành theo các cách thức khác nhau, vì
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />những mục tiêu khác nhau song đều tập trung đảm bảo an toàn và sinh lợi cho Ngân
hàng.
Một danh mục tài sản nếu bao gồm phần lớn các tài sản rủi ro cao sẽ làm giảm
uy tín, hạn chế thu nhập của Ngân hàng, hạn chế Ngân hàng mở rộng quy mô trong môi
trường kinh doanh đầy biến động, khả năng mở rộng thị trường nguồn vốn của Ngân
hàng sẽ bị giảm sút. Nguồn tiền suy giảm nhanh và mạnh có thể đẩy Ngân hàng đến phá
sản. Như vậy, chất lượng tài sản của Ngân hàng thương mại là một chỉ tiêu tổng hợp nói
lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng.
* Khả năng thanh toán ( Tính thanh khoản):

Tính thanh khoản của Ngân hàng là khả năng của Ngân hàng trong việc đáp ứng
nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thực hiện chức năng trung gian tài chính, trung gian
thanh toán, Ngân hàng thường xuyên phải duy trì khả năng thanh toán, tức duy trì thanh
khoản của Ngân hàng. Việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng một cách thương
xuyên và trong những trường hợp đặc biệt khẩn cấp là yêu cầu cấp thiết và là nội dung
quan trọng trong công tác quản lý của Ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro. Nó liên quan tới
sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng và của cả hệ thống.
Tính thanh khoản của Ngân hàng được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản
và tính thanh khoản của nguồn. Do vậy, một Ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có
nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc
cả hai, phù hợp với nhu cầu thanh khoản
* Khả năng sinh lời:
Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu dựa vào khả năng sinh lời của
Ngân hàng. Cách an toàn tuyệt đối là không làm gì cả. Tuy nhiên đối với Ngân hàng, giữ
tiền trong két cũng không phải là giải pháp an toàn. Tăng khả năng sinh lời có thể coi là
cách đảm bảo an toàn nhất. Nó là cách tốt nhất để có thể trả lương cao cho người lao
động, để tăng năng suất và tính liêm khiết rất cần thiết đối với cán bộ Ngân hàng. Đồng
thời, nó là biện pháp quan trọng để Ngân hàng tăng quỹ tích luỹ ( tăng vốn của chủ), thiết
lập quỹ dự phòng lớn, đủ sức chống đỡ rủi ro.
Khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại gắn liền với chất lượng tài sản và
hiệu quả sử dụng tài sản của Ngân hàng thương mại. Nâng cao chất lượng tài sản, chất
lượng nguồn vốn cũng chính là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại. Khả năng sinh lời là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức
độ phát triển của một Ngân hàng thương mại. Để đánh giá khả năng sinh lời của Ngân
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hàng thương mại, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có
(ROA), chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE) hoặc chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên
doanh thu.
 Chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA):


ROA =

Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản

Ý nghĩa của chỉ tiêu này một đồng tài sản có tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu này cho thấy chất lượng của công việc quản lý tài sản có - tài sản có sinh lời
càng lớn thì hệ số này càng lớn
 Chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE):

ROE

=

Lợi nhuận sau thuế
Tài sản sinh lãi

Ý nghĩa của chỉ tiêu này là một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại,
khả năng sinh lời trên một đồng vốn của Ngân hàng. Hệ số này càng lớn thì khả năng
sinh lời tài chính càng lớn.

(2) Chất lượng sản phẩm dịch vụ:
Chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn là vấn đề quan tâm của mọi khách hàng và
của mọi ngân hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày nay trở thành một lợi thế cạnh
tranh mang ý nghĩa sống còn đối với mọi Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp các sản
phẩm dịch vụ cho khách hàng. Trong xu hướng phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế
phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính

với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ
theo trình độ phát triển của ngân hàng. Ngân hàng cung ứng các sản phẩm dịch vụ là để
đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu như chất lượng của các sản phẩm dịch vụ ngày
càng hoàn hảo, có chất lượng cao thì khách hàng sẽ gắn bó lâu dài và chấp nhận ngân
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hàng. Không những vậy, những lời khen, sự chấp nhận, thoả mãn về chất lượng của
khách hàng hiện hữu họ sẽ thông tin tới những người khác có nhu cầu dịch vụ tìm đến
ngân hàng để giao dịch. Điều này góp phần nâng cao uy tín, thương hiệu của Ngân hàng,
tạo điều kiện để Ngân hàng mở rộng mạng lưới hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh
trên thị trường.
Như vậy, chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn được đánh giá theo quan điểm của
khách hàng. Nó thể hiện qua sự tin tưởng, cảm tình, ưa thích của khách hàng đối với dịch
vụ ngân hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nhân viên
trực tiếp cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, đối tượng kinh doanh của các Ngân hàng thương
mại là tiền tệ, nên chất lượng dịch vụ không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng
phục vụ của nhân viên Ngân hàng mà còn được đánh giá thông qua độ an toàn chính xác
trong xử lý nghiệp vụ, tính đơn giản, thuận tiện trong giao dịch và khoảng thời gian cần
thiết để có thể hoàn tất một giao dịch.
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng thương mại
bao gồm:
 Chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ.
 Độ an toàn, chính xác.
 Thủ tục giao dịch.
 Tốc độ xử lý giao dịch.
(3) Chất lượng nguồn nhân lực:
Sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính ngân hàng đòi hỏi nguồn cung
cấp nhân lực rất lớn, nhất là nguồn nhân lực có kinh nghiệm làm việc và đáp ứng được
nhu cầu mới. Bởi vì theo nguyên lý, con người là yếu tố quyết định.
Về mặt quản lý: Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản, nguồn vốn,

phòng tránh rủi ro tốt nhất, quản lý các danh muc đầu tư hiệu quả thì hoạt động của ngân
hàng sẽ đảm bảo an toàn và tăng trưỏng, tăng uy tín, thu hút khách hàng.
Về mặt nghiệp vụ: Với trình độ nghiệp vụ cao, mọi thao tác nghiệp vụ thực hiện
chính xác, hiệu quả, tác phong làm việc nhiệt tình, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng sẽ gây ấn tượng tốt đối với khách hàng. Khách hàng là người có quyền lựa
chọn, vì vậy họ sẽ chọn nơi làm họ hài lòng nhất để gửi tiền, vay tiền tiền và sử dụng các
dịch vụ khác của ngân hàng cung cấp.
Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh trước yêu cầu của hội nhập, các
Ngân hàng thương mại cần hết sức quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có
chiến lược lâu dài phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Chất lượng nguồn nhân lực có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
 Số lượng lao động
 Độ tuổi lao động
 Cơ cấu lao động qua các cấp học như: trung cấp, cao đẳng, đại
học ...
 Trình độ ngoại ngữ, tin học ...
(4) Năng lực quản trị, điều hành:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ - tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Cũng như các doanh nghiệp khác, các Ngân
hàng thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Trong hoạt động kinh
doanh Ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố
bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro. Từng nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng nếu
không được quản lý theo những qui trình chặt chẽ cũng có nhiều khả năng rủi ro. Ví dụ:
các nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, tiền tệ kho quỹ, huy
động và sử dụng vốn,...Vì vậy công tác quản trị trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng
giữ vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa, hạn chế và xử lý rủi ro, đảm bảo hiệu quả
kinh doanh của Ngân hàng.
Quản trị ngân hàng là điều hành những quan hệ liên quan đến việc xây dựng

chiến lược, chiến thuật, phân tích, nghiên cứu, điều chỉnh, kiểm tra, quản lý tài chính,
hoạt động marketing, quản lý nhân sự và điều hành các nghiệp vụ ngân hàng. Quản trị
ngân hàng tác động đến giá trị và hoạt động của Ngân hàng, đồng thời quản trị ngân hàng
cũng tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng và rủi ro của khủng hoảng
tài chính, cả đối với các ngân hàng cá thể và toàn bộ hệ thống ngân hàng của nền kinh tế.
Quản trị ngân hàng tốt là một trong những cơ sở tạo niềm tin của công chúng vào ngân
hàng. Do vậy, việc quản trị trong Ngân hàng thương mại có vai trò quyết định đến sự
tăng trưởng và phát triển của nó.
(5) Trình độ công nghệ:
Ngày nay các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau theo hướng phát triển
đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng đi kèm với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, mà chất
lượng dịch vụ ngân hàng luôn phụ thuộc và trình độ công nghệ ngân hàng. Nếu trình độ
công nghệ ngân hàng không tiên tiến, hiện đại thì chất lượng dịch vụ cũng không thể
nâng cao được. Do đó, một xu thế tất yếu là các Ngân hàng thương mại phải ứng dụng
công nghệ tiên tiến để phát triển và nâng cao chất lựong dịch vụ ngân hàng. Việc ứng
dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại là vấn đề tất yếu, vấn đề sống còn của
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />các Ngân hàng nhằm nâng cao năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh của các Ngân
hàng trong quá trình hội nhập. Nó giúp cho Ngân hàng thoả mãn hơn trước các nhu cầu
ngày càng cao của khách hàng. Nếu một ngân hàng ứng dụng và sử dụng công nghệ có
hiệu quả thì Ngân hàng đó sẽ mở rộng không giới hạn về không gian hoạt động, thời gian
phục vụ và cung cấp những dịch vụ Ngân hàng mới tối đa hoá tiện ích cho khách hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, việc thu thập thông tin là rất cần
thiết. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, Ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách
hàng, về thị trường tốt hơn, qua đó có thể xác định được thị trường đầu tư vốn có hiệu
quả, phát triển nghiệp vụ và dịch vụ của mình, hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tạo điều
kiện mở rộng vốn tự có.
Như vậy, xác định đúng tầm quan trọng của công nghệ và việc hiện đại hoá công
nghệ là một trong những điều kiện cơ bản để hướng tới việc đảm bảo các chuẩn mực

quốc tế của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình cạnh tranh và hội nhập.
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là điều tất yếu phù hợp với tiềm lực tài chính của
ngân hàng, phù hợp với mặt bằng chung về công nghệ của đất nước, đảm bảo xu thế
chung của khu vực và quốc tế.
Trình độ công nghệ của Ngân hàng được thể hiện qua những dịch vụ mà ngân
hàng đã và đang áp dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động.
(6) Uy tín thương hiệu của Ngân hàng:
Thương hiệu là tài sản vô cùng quý giá đối với doanh nghiệp nói chung và ngân
hàng nói riêng. Thương hiệu là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất tạo nên khả năng nhận
biết, gợi nhớ, phân biệt và định hướng cho khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ. Ngày
nay, thương hiệu càng có ý nghĩa rất quan trọng và việc xây dựng thương hiệu là cả một
quá trình khó khăn. Bởi lẽ, các đối thủ cạnh tranh cũng sẽ có những phản ứng rất nhanh
và khách hàng yêu cầu cao hơn đối với một sản phẩm. Do đó, phải xem việc xây dựng
thương hiệu là một quá trình đầu tư dài hạn và phải có đường đi nước bước thích hợp.
thương hiệu không phụ thuộc hoàn toàn vào thời gian xuất hiện trên thị trường, mà còn
nhiều yếu tố khác như thông tin, chất lượng về sản phẩm, sự truyền tải những thông tin,
thương hiệu đó v.v đến với người tiêu dùng một các chính xác và nhanh nhất. Trong thời
đại ngày nay, với hệ thống mạng internet toàn cầu thì mọi ngăn cách về địa lý coi như
không có. Các doanh nghiệp sử dụng hệ thống Internet, Website làm kênh truyền thông
trực tiếp truyền tải các chiến lược quảng bá, xây dựng thương hiệu một cách hữu hiệu.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Đối với một ngân hàng thương mại, việc xây dựng thương hiệu còn khó khăn hơn do tính
đặc thù của các sản phẩm. Đó là tính chất vô hình và thường có nhiều điểm giống nhau
giữa các sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng. Do đó, thương hiệu đối với một Ngân
hàng thương mại không chỉ đơn thuần là một nhãn hiệu, một cái tên mà nó bao gồm cả
uy tín, chất lượng, giá cả sản phẩm dịch vụ, phong cách giao dịch và văn hoá của mỗi
ngân hàng.
Thương hiệu được coi như một tài sản có giá trị rất lớn bởi nó có khả năng tác
động đến thái độ và hành vi của khách hàng. Nó đảm bảo uy tín của Ngân hàng với tư

cách như là một thể nhân ra vào thị trường, đồng thời là một công cụ đảm bảo tính cạnh
tranh cao của Ngân hàng trên thị trường. Đặc biệt, trong xu thế của toàn cầu hoá thì
thương hiệu ngày càng trở lên quan trọng đối với sự sống còn của Ngân hàng. Thương
hiệu có thể cam kết một tiêu chuẩn hay đẳng cấp chất lượng của một sản phẩm dịch vụ
và đáp ứng mong muốn của khách hàng, giúp họ tìm kiếm, lựa chọn sản phẩm một cách
dễ dàng, thuận tiện. Lòng trung thành với thương hiệu của khách hàng cho phép Ngân
hàng dự báo và kiểm soát thị trường. Hơn nữa, nó tạo nên một rào cản, gây khó khăn cho
các Ngân hàng khác muốn xâm nhập thị trường. Như vậy, thương hiệu có thể được coi
như một cách thức hữu hiệu để Ngân hàng đảm bảo lợi thế cạnh tranh.
Để xây dựng và chiếm lĩnh lòng tin đối với người tiêu dùng, đòi hỏi sản phẩm
của ngân hàng đó cần phải có những điểm phù hợp,đồng thời phải có sự khác biệt đối với
sản phẩm của ngân hàng khác. Sự phù hợp trong sản phẩm là khả năng thuơng hiệu đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Còn sự khác biệt là để thể hiện sự vượt trội của thương
hiệu đó. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải phải thường xuyên có những sản phẩm, dịch vụ
mới hoặc gia tăng chức năng vượt trội so với sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Và việc truyển
tải sự phù hợp và sự khác biệt trong từng sản phẩm đến với khách hàng là một quá trình
liên tục thông qua nhiều phương thức. Đó có thể là quảng cáo trên các phương tiện thông
tin đại chúng, bằng tờ rơi hay từ việc trực tiếp trong việc giao tiếp, quan hệ với khách
hàng và công chúng.
Như vậy, uy tín thương hiệu của Ngân hàng được thể hiện ở:
 Cở sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật.
 Thâm niên hoạt động.
 Mạng lưới hoạt động.
 Chất lượng dịch vụ.
 Tình hình tài chính của ngân hàng.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> Hình thức sở hữu của ngân hàng...
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương
mại dựa theo mô hình Kim cương của Michael Porter

Mô hình Kim cương là một trong những sáng kiến rất nổi tiếng của M. Porter.
Nó là một công cụ rất tốt để phân tích, chẩn đoán các lợi thế, bất lợi trong xây dựng năng
lực cạnh tranh của một ngành, một địa phương hay sản phẩm nào đó. Theo mô hình
“Kim cương” về năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại
phụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố:
(1) Các điều kiện về cầu:
Khách hàng trong một nền kinh tế càng khắc khe đối với nhà sản xuất thì khả
năng nâng cao cạnh tranh của sản phẩm càng lớn. Nếu trong nước có nhu cầu lớn về một
sản phẩm hay dịch vụ nào đó, thì nghành đó sẽ có lợi thế trong cạnh tranh toàn cầu.
Những ngành phải cạnh tranh mạnh ở trong nước thì mới có khả năng cạnh tranh quốc tế
tốt hơn. Thị trường trong nước với số cầu lớn, có những khách hàng đòi hỏi cao và môi
trường cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn. Đối với
các ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, phân tích về cầu nhằm xác
định tính phức tạp của cầu trong ngành ngân hàng, để từ đó nhằm định hướng khả năng
cạnh tranh, sự đa dạng của các loại hình dịch vụ và mức độ công nghệ của ngành.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Sơ đồ 1.1: Mô hình kim cương
Môi trường kinh doanh,
chiến lược, cơ cấu và đối
thủ cạnh tranh

Các điều kiện về yếu

Các điều kiện

tố đầu vào
về cầu
(Nguồn: />(2) Các điều kiện về yếu tố đầu vào:

Những ngành công
Các điều kiện về yếu tố đầu vào là khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu, nguồn
nghiệp liên quan và
nhân công có trình độ hay cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong một
phụ trợ
doanh nghiệp nếu các điều kiện đó chưa sẵn có thì cũng không được xem là bất lợi, thậm
chí nó còn khuyến khích tính cạnh tranh. Với điều kiện bất lợi đó, buộc các doanh nghiệp
phải hành động một cách sáng tạo. Chất lượng lao động, vốn và lao động rẻ, cơ sở hạ
tầng mạnh và công nghệ cao sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của ngành, của các doanh
nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng.
Việc phân tích các điều kiện về các yếu tố đầu vào nhằm xem xét tới tính hiệu
quả, chất lượng và sự chuyên môn hoá của những yếu tố này mà các tổ chức tài chính sử
dụng trong quá trình cạnh tranh để có nguồn nhân lực, nguồn vốn, cơ sở vật chất, cơ sở
khoa học công nghệ.
(3) Môi trường kinh doanh, chiến lược, cơ cấu của ngân hàng và các đối thủ
cạnh tranh:
Ổn định môi trường kinh doanh trong nước đóng vai trò quan trọng trong việc
tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại xác định tầm nhìn, xây dựng chiến lược
kinh doanh dài hạn. Điều này đồng nghĩa với việc tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu
thị trường và thích ứng với thay đổi của môi trường bên ngoài ngày càng khó dự đoán
đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Bên cạnh đó, những ngân hàng có chiến lược và cơ cấu phù hợp với các định chế
và chính sách cuả quốc gia, hoạt động trong môi trường có cạnh tranh trong nước căng
thẳng hơn sẽ có tính cạnh tranh quốc tế mạnh hơn. Mặt khác, nếu ngân hàng tập trung
nghiên cứu và thu thập được đầy đủ những thông tin cần thiết về các đối thủ cạnh tranh,
hiểu rõ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng mình thì ngân hàng đó có thể xây dựng được
chiến lược kinh doanh hiệu quả. Như vậy, một điều chắc chắn xảy ra là những quyết định
chiến lược của các ngân hàng có tác động ảnh hưởng đến tính cạnh tranh trong tương lai

của họ. Một cơ cấu lành mạnh của ngân hàng và mức độ tập trung cao của các đối thủ
cạnh tranh trong ngành sẽ quyết định mức lợi thế cạnh tranh của ngân hàng nói riêng và
của cả ngành nói chung. Khả năng cạnh tranh tổng hợp sẽ hỗ trợ các ngân hàng nói riêng
và ngành ngân hàng trong nước nói chung cạnh tranh với các đối thủ từ bên ngoài trong
bối cảnh hội nhập.
(4) Những ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ:
Tính cạnh tranh của một ngành phụ thuộc vào sức mạnh của các nhà cung cấp
các nhập lượng và các dịch vụ hỗ trợ. Các ngành này rất có ích trong việc hỗ trợ cho việc
trao đổi thông tin và thúc đẩy việc trao đổi ý kiến và sáng kiến đổi mới, đồng thời cũng
phải chấp nhận cạnh tranh quốc tế. Các nhà cung cấp nhập lượng có khả năng cạnh tranh
trên toàn cầu có thể mang lại cho doanh nghiệp - khách hàng của họ lợi thế về chi phí và
chất lượng. Các ngành có quan hệ ngang cũng mang lại lợi thế cạnh tranh thông qua sự
lan truyền công nghệ. Sự hiện diện cụm công nghiệp tạo ra cho doanh nghiệp lợi thế kinh
tế theo quy mô. Không nằm ngoài quy luật đó, những ngành công nghiệp liên quan và
phụ trợ cũng có tác động tới lợi thế cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng do những
ngành này cung cấp đầu vào cho ngành ngân hàng. Sự có mặt và phát triển của nhóm các
ngành kinh tế liên quan như viễn thông, công nghệ thông tin, dịch vụ kiểm toán sẽ làm
tăng năng suất cũng như sức cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng.
1.3. Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân
hàng Công thương Chương Dương
Được thành lập từ năm 1988, đến nay, chi nhánh Ngân hàng Công thương
Chương Dương đã khẳng định được năng lực của mình bằng những bước đi vững chắc.
Thời gian vừa qua, chi nhánh đã mở nhiều lớp đào tạo cho cán bộ công nhân viên để
thích ứng với công nghệ hiện đại như các lớp học ngắn ngày về marketing, các nghiệp vụ
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tín dụng, thanh toán quốc tế, kho quỹ, kế toán, vi tính, ngoại ngữ… Đồng thời, thực hiện
tốt việc thi tuyển đầu vào để tìm những người thực sự có trình độ, sắp xếp lại đội ngũ cán
bộ cho phù hợp với năng lực và điều kiện của từng phòng ban. Tổng nguồn vốn huy động
của chi nhánh liên tục tăng qua các năm. Cùng với việc huy động vốn tăng thì kết quả sử

dụng vốn của chi nhánh trong thời gian qua cũng được đánh giá là khá thành công. Nhiều
dự án, phương án kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn do được đầu tư kịp thời
từ nguồn vốn vay của chi nhánh nên đã phát huy hiệu quả. Ngoài ra, do nắm bắt được
nhu cầu thị trường và sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác, đầu tư, cũng như hỗ trợ cho các
đối tượng kinh doanh khác nhau, chi nhánh đã chú trọng mở rộng các nghiệp vụ khác
như chuyển tiền trong và ngoài nước, nghiệp vụ bảo lãnh, nghiệp vụ thanh toán quốc tế,
kinh doanh ngoại tệ…
Như vậy, có thể thấy rằng tình hình hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Công
thương Chương Dương đã có những bước tiến đáng kể trong thời gian vừa qua. Chi
nhánh đã có nhiều nỗ lực trước nhu cầu cấp thiết của hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên,
trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của công nghệ và dịch vụ ngân hàng, của sức ép mở
cửa thị trường tài chính, Chi nhánh đang phải đối mặt với những thách thức từ việc đầu
tư đổi mới công nghệ. Với tiềm lực tài chính và năng lực vận hành còn hạn chế, những
thách thức đã trở thành sức ép. Bởi lẽ, khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, điều đó
đồng nghĩa với việc các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép cung cấp thêm dịch vụ và
chịu ít hạn chế hơn. Với việc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nới lỏng và tiến
tới xoá bỏ các hạn chế trong huy động vốn, cùng sự xuất hiện các ngân hàng 100% vốn
nước ngoài trong thời gian tới thì mức độ cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng nói
chung và lĩnh vực huy động vốn nói riêng giữa các ngân hàng sẽ càng gia tăng, đặc biệt
là giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các ngân hàng nước ngoài. Trong khi
đó, sự phát triển của nền kinh tế, của khoa học kỹ thuật, mức sống của người dân, và tác
động mạnh mẽ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mở thêm nhiều cơ hội cho các
khách hàng sử dụng thêm những dịch vụ ngân hàng khác nhau phù hợp với nhu cầu sống
và làm việc mới. Các khách hàng có thể lựa chọn sử dụng dịch vụ tại ngân hàng phù hợp
với yêu cầu và lợi ích của mình nhất. Trong điều kiện đó, với công nghệ và dịch vụ hiện
đại, các ngân hàng nước ngoài sẽ làm lợi cho khách hàng, qua đó mở rộng quy mô hoạt
động và khả năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng. Như vậy, thị trường sẽ
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />không chỉ lớn hơn và bị chia sẻ bởi nhiều ngân hàng hơn, mà còn trở nên bị phân khúc

nhiều hơn với các nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Trong khi đó, quy mô vốn của chi nhánh còn nhỏ bé, lực lượng lao động tuy
đông nhưng trình độ chuyên môn còn chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập, sự hiểu
biết về luật pháp trong nước và quốc tế của cán bộ công nhân viên còn hạn chế, trình độ
quản lý, tổ chức còn chưa cao... Các yếu kém này sẽ tác động một cách tổ hợp. Khi đó,
chúng kích phát lẫn nhau và sinh ra nguy cơ tạo vòng xoáy: sức cạnh tranh thấp - kinh
doanh không hiệu quả - không thể tiếp cận vốn và công nghệ cao - không thể cải thiện
sức cạnh tranh. Từ góc nhìn hội nhập và cạnh tranh quốc tế, có thể thấy vòng xoáy này
đang đe doạ không ít đến sự tồn tại và phát triển của chi nhánh trong thời gian tới. Đây là
vấn đề cảnh báo đối với chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương. Chính vì
vậy, trước sức ép của cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gay gắt và quyết
liệt như hiện nay thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh là việc làm hết sức
cần thiết và cần được triển khai một cách nhanh chóng và có hiệu quả.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />CHƯƠNG 2:
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG
2.1. Khái quát về quá trình hình thành, phát triển và tình hình hoạt động kinh
doanh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Công thương
Chương Dương
Tháng 8/ 1988, chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương ra đời trên cơ
sở tách Ngân hàng Nhà nước huyện Gia Lâm thành Ngân hàng Công thương Chương
Dương và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Châu quỳ. Ngân hàng Công
thương Chương Dương khi đó với số vốn ban đầu chỉ 13 tỷ đồng là một ngân hàng cấp
huyện có trụ sở chính tại số 1 ngõ Quân Chính, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Tháng 6/ 1993, Ngân hàng Công thương huyện Gia Lâm mở rộng mạng lưới,

thành lập phòng giao dịch Yên Viên.
Tháng 1/ 1994: Ngân hàng thành lập phòng giao dịch Đức Giang
Tháng 1/ 1995: Ngân hàng mở thêm phòng giao dịch Đông Anh. Đến tháng 1/
1996, phòng giao dịch Đông Anh được nâng cấp lên chi nhánh Đông Anh, trực thuộc
Ngân hàng Công thương Việt Nam ( ngang hàng chi nhánh Chương Dương)
Tháng 2/ 2001, hai phòng giao dịch Yên Viên và Đức Giang được nâng cấp
thành chi nhánh thuộc Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Tháng 4/ 2003: hai phòng giao dịch Yên Viên và Đức Giang tiếp tục được nâng
cấp thành chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Cùng với những tín hiệu khởi sắc của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã có
những bước phát triển khả quan, đã thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch về tín
dụng, huy động vốn, lợi nhuận, trích lập dự phòng rủi ro. Với 20 năm xây dựng và
trưởng thành, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã vượt qua nhiều khó
khăn, thử thách, đi tiên phong trong cơ chế thị trường, phục vụ và góp phần tích cực thực
hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; không ngừng phấn đấu vươn
lên, khẳng định đựơc vị thế của mình trên thị trường, có bước phát triển đáng kể và tăng
trưởng nhanh, đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt hoạt động kinh doanh - dịch

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×