Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SANG KIEN KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.87 KB, 16 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
V.I.Lê-nin đã từng nhấn mạnh: “Khi mục đích, nhiệm vụ đã được xác
định, nghị quyết đã được thông qua thì việc tổ chức thực hiện nghị quyết lại trở
nên quan trọng hàng đầu. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, điều chủ yếu là
chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa
chọn người và kiểm tra việc thực hiện. Có như vậy, nghị quyết của Đảng mới
trở thành hiện thực trong cuộc sống, nếu không, nó chỉ là “mớ giấy lộn”. Như
vậy, một nghị quyết dù đúng đắn và phù hợp đến mấy thì vẫn chẳng thể đi vào
cuộc sống nếu như không có một quá trình tổ chức học tập, quán triệt thực hiện
khoa học.
Đảng ta khi đánh giá về quá trình đổi mới đã cho rằng, bên cạnh những
thành tựu quan trọng đạt được, chúng ta còn nhiều khuyết điểm, yếu kém.
Những yếu kém, khuyết điểm đó do nhiều nguyên nhân mà một trong số đó là
việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt.
Thực tế đã có không ít cấp uỷ họp và ra nhiều nghị quyết, nhưng sau đó
nghị quyết đi đến đâu, thực hiện như thế nào không được coi trọng. Vì vậy,
trong Chiến lược xây dựng cán bộ thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Đảng ta khẳng
định: “Có đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối chính
trị đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối là vấn đề cốt tử của lãnh
đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền”. Như vậy, việc đổi mới phương thức
quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết có một vai trò hết sức quan trọng
trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, ở hiện tại và cả trong tương
lai.
Xuất phát từ thực tiễn, yêu cầu bức xúc, tầm quan trọng và ý nghĩa của
vấn đề nêu trên; với những kiến thức về lý luận, kinh nghiệm chỉ đạo của
bản thân và tình hình thực tế ở địa phương, tôi quan tâm và chọn đề tài đổi
mới phương thức quán triệt nghị quyết ở cơ sở để viết sáng kiến kinh nghiệm.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc quán triệt và tổ chức
thực hiện nghị quyết.


Trong các tác phẩm của mình, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đều đã từng đề cập, nhấn mạnh đến vai trò của lý luận, tư tưởng cũng như
1


công tác tuyên truyền đối với sự nghiệp cách mạng. Mác từng viết: “Vũ khí của
sự phê phán cố nhiên không thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”. Với Lênin:
“không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng…,
chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Theo Lênin, lý luận có vai trò rất quan trọng,
dẫn đường cho các đảng cách mạng của những người cộng sản, do đó: “Nhiệm
vụ của họ là phải học tập, ngày càng nhiều hơn, tất cả các vấn đề lý luận; phải tự
giải thoát, ngày càng nhiều hơn, khỏi những ảnh hưởng của những câu cổ truyền
của thế giới quan cũ, và không bao giờ được quên rằng chủ nghĩa xã hội, từ khi
đã trở thành khoa học, đòi phải được coi là một khoa học, nghĩa là phải được
nghiên cứu”.
Như vậy, một đảng cầm quyền trước hết phải tiên phong về mặt lý luận,
trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đảng đồng thời tiến hành sâu
rộng, bền bỉ các hoạt động tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện trong
toàn hệ thống chính trị, trong các tầng lớp nhân dân để biến đường lối, chủ
trương, chính sách đó thành hiện thực trong cuộc sống.
2.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt
Nam về việc quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết.
a. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó
cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là
tuyên truyền thất bại. Muốn thành công phải biết tuyên truyền”. Như vậy, nghị
quyết của Đảng có đi vào cuộc sống hay không trước hết phụ thuộc vào việc đổi
mới cách tuyên truyền. Công tác tuyên truyền nói chung, truyền đạt nghị quyết

của Đảng nói riêng phải luôn căn cứ vào đối tượng và địa bàn để lựa chọn nội
dung, hình thức tổ chức và đổi mới phương pháp truyền đạt thì mới có kết quả
cao. Người đã từng bàn về đối tượng tuyên truyền, nội dung tuyên truyền cũng
như phương pháp tuyên truyền. Khi bàn về đối tượng tuyên truyền, Người nói:
“Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai
nghe? Nếu không vậy thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không
muốn cho người ta xem…Người tuyên truyền không điều tra, không phân tích,
không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết
nấy, nhất định thất bại”. Nội dung tuyên truyền thì “Tuyên truyền không cần
phải nói tràng giang đại hải. Mà nói ngắn gọn, nói những vấn đề thiết thực, chắc
chắn làm được, để cho mọi người hiểu rõ và quyết tâm làm bằng được”. Khi nói
về phương pháp tuyên truyền, Người viết: “Tất cả cán bộ, đảng viên, hễ là
người được tiếp xúc với quần chúng đều là người tuyên truyền của Đảng. Vì
2


vậy, ai cũng phải học nói, nhất là học nói cho quần chúng hiểu”. Mục đích của
Người là làm “cho dân giác ngộ” nên phải viết một cách “vắn tắt, dễ hiểu, dễ
nhớ” và nhằm “sao cho đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh
rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”. Theo Người, “tuyên truyền
phải thiết thực. Không phải tuyên truyền để mà tuyên truyền, huấn luyện để mà
huấn luyện”. Vấn đề chọn nội dung để truyền tải đến người nghe là vô cùng
quan trọng, vì nhu cầu nhận thức, tiếp nhận của người nghe không phải ai cũng
giống ai, do đó phải chọn nội dung cho phù hợp với đối tượng.
b. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam:
Nghị quyết của Đảng là quyết định chính trị thể hiện đường lối, chủ trương,
mục tiêu, giải pháp để thực hiện sự lãnh đạo trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội qua các thời kỳ cách mạng. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghị
quyết là khâu đầu tiên và rất quan trọng nhằm tạo ra sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong nhân dân, là tiền đề vững chắc đưa nghị quyết vào cuộc sống.

Ở mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng luôn quan tâm đến công tác xây dựng
đường lối, tổ chức lực lượng và công tác tổ chức thực tiễn cách mạng. “Đảng
quyết định đường lối, chính sách, phương hướng hoạt động của Đảng và nhà
nướcvà những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp. Thông
qua Nhà nước, đường lối, chính sách của Đảng biến thành quyết định của bản
thân quần chúng, thành hành động hằng ngày của quần chúng”. Muốn vậy, phải
thường xuyên đổi mới phương thức quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết,
phải dựa vào các tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng để kiểm tra sự hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Tổ chức học tập, quán triệt
nghị quyết của Đảng ở xã, phường, thị trấn sao cho có hiệu quả, đang là nỗi trăn
trở của nhiều cấp uỷ đảng. Vì đây là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động sản xuất,
kinh doanh theo chủ trương của Đảng. Mọi sự biến động ở đây đều có tác động
to lớn đến sự phát triển chung của xã hội. Do đó, đổi mới cách học tập, quán
triệt nghị quyết của Đảng phải bắt đầu từ người giảng rồi đến người học. Người
giảng phải phân tích được các quan điểm, chủ trương, giải pháp mới trong nghị
quyết để giúp cho người học trả lời được câu hỏi tại sao phải có các chủ trương,
giải pháp mới đó. Điều quan trọng hơn là làm rõ khi vận dụng các quan điểm,
chủ trương, giải pháp đó vào từng địa phương cần làm cụ thể cái gì? Sau khi học
tập, quán triệt nghị quyết, cấp uỷ phải tham mưu xây dựng chương trình hành
động, lựa chọn mô hình chỉ đạo, tiến hành kiểm tra, sơ, tổng kết để rút kinh
nghiệm. Việc quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng tuy đã có
những tiến bộ, nhưng chủ yếu vẫn là vì trách nhiệm, không còn sức hấp dẫn lôi
cuốn người nghe; nguyên nhân rất quan trọng là việc giới thiệu nghị quyết hiện
nay chủ yếu thuyết giảng trên hội trường, còn rất xơ cứng, không toát lên được
cái “hồn” của nghị quyết, không bám sát thực tiễn cuộc sống, không chỉ rõ được
3


những vấn đề mới mà nghị quyết đặt ra, chỉ giới thiệu lý luận chung, không giải

đáp được vấn đề mà người nghe đang cần và quan tâm. Do đó, cần đổi mới cả
cách nghĩ, cách làm; đổi mới từ công tác xây dựng chương trình hành động; chỉ
đạo mô hình; công tác xây dựng, lựa chọn đội ngũ báo cáo viên; lựa chọn nội
dung, hình thức phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn cụ thể…cho đến vai
trò, hiệu quả của các tổ chức đoàn thể nhân dân và phương pháp kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã
xác định: “Các cơ quan có trách nhiệm của Đảng và Nhà nước phải thấu suốt
đường lối của Đảng, kịp thời cụ thể hoá đường lối, các nghị quyết của Đại hội
Đảng…, căn cứ vào đường lối và nghị quyết của Đảng mà vạch ra các kế hoạch,
chính sách, biện pháp đúng đắn về xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như về bảo
vệ Tổ quốc…; tổ chức và động viên quần chúng tạo nên phong trào cách mạng
sôi nổi..”.
2. Cơ sở thực tiễn.
2.1.Vai trò của việc đổi mới phương thức quán triệt và tổ chức thực
hiện nghị quyết của Đảng ở xã, phường thuộc thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ
An.
Hoàng Mai là một thị xã thuộc tỉnh Nghệ An. Đây là thị xã mới được thành
lập vào này 3 tháng 4 năm 2013 theo Nghị quyết 47/NQ-CP của chính phủ, trên cơ
sở điều chỉnh 16.974,88 ha diện tích tự nhiên và 105.105 nhân khẩu của
huyện Quỳnh Lưu.
Đảng bộ thị xã Hoàng Mai được thành lập theo Quyết định số 4262 QĐ/TU, ngày 13/6/2013, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An, trên cơ sở
chuyển giao 17 tổ chức cơ sở Đảng từ Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu. Đến ngày
30/11/2013, Đảng bộ thị xã Hoàng Mai có 28 đảng bộ, chi bộ cơ sở với 3.363
đảng viên.
Thị xã có 10 đơn vị hành chính cấp xã gồm 5 phường và 5 xã. Xã, phường
là cấp cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng, là nơi nghị quyết của Đảng từ cấp
Trung ương đến tỉnh, huyện, xã được quán triệt và đi vào cuộc sống. Ngoài ra,
còn có các chỉ thị, nghị quyết, thông tri của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đề án,
kế hoạch công tác của đảng bộ cấp tỉnh, cấp huyện mà cấp , phường, thị trấn cần
quán triệt và tổ chức thực hiện tại cơ sở, đó là chưa kể văn bản của các cơ quan

tham mưu của Đảng cấp Trung ương cũng cần phải quán triệt, thực hiện. Với số
lượng lớn nghị quyết và văn bản như vậy của các cấp bộ đảng, vấn đề đặt ra là
làm sao cho dảng bộ cấp xã, phường, thị trấn quán triệt đầy đủ và kịp thời, khoa
học trước hết là nhiệm vụ của các cấp uỷ đảng, của các đồng chí lãnh đạo chủ
chốt các cấp. Do đó, việc đổi mới phương thức quán triệt và tổ chức thực hiện
4


nghị quyết của Đảng ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết và cấp
bách nhất là để nghị quyết đi vào cuộc sống, nâng cao bản lĩnh chính trị của
đảng viên và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng.
Trên cơ sở thực tiễn địa phương, việc đổi mới phương thức quán triệt và
tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng ở các xã, phường, thị trấn là yêu cầu đặt
ra hết sức bức thiết để làm tốt công tác tư tưởng của đảng.
2.2. Thực trạng quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng ở
xã, phường thị xã Hoàng Mai.
a. Đối với đảng viên:
Tổ chức lớp tập trung toàn đảng bộ học nghị quyết. Ở lớp học này, báo
cáo viên thuyết trình đầy đủ nghị quyết, đảng viên nghe nhưng ít ghi chép,
không có đối thoại. Báo cáo viên thường là đồng chí bí thư hoặc các đồng chí
trong thường vụ đảng uỷ. Có một số nghị quyết, một số đảng bộ có mời báo cáo
viên cấp huyện. Báo cáo viên của đảng bộ có ưu điểm là nắm vững tình hình địa
phương nên liên hệ sát tình hình. Nhưng một số đồng chí do hạn chế về năng
lực, việc nắm bắt thông tin không nhiều, quá trình giảng Nghị quyết hầu như chỉ
đọc lại nghị quyết, hạn chế phân tích, mở rộng, nâng cao nhận thức cho người
nghe hạn chế; mặt khác, đảng viên quen nghe một người thuyết trình nhiều lần,
nếu không đổi mới cách truyền đạt dễ gây nhàm chán. Ngược lại, báo cáo viên
của cấp trên về giảng có thể mở rộng thông tin, nhưng nếu báo cáo viên không
chịu khó nắm bắt tình hình thực tiễn, nắm bắt đối tượng thì việc truyền đạt nghị
quyết khó gắn kết với địa phương, dễ sa vào chung chung, nói ở đâu cũng được,

đối tượng nào cũng được, sức thuyết phục người nghe cũng không cao.
b. Đối với quần chúng:
Xuất phát từ đặc điểm của từng địa phương mà cách thức tổ chức học tập
nghị quyết trong quần chúng cũng khác nhau, thông thường được vận dụng dưới
các hình thức sau:
- Tổ chức lớp cốt cán các đoàn thể gồm: ban chấp hành các đoàn thể cấp
xã và ban chấp hành chi đoàn thanh niên, chi hội ở khối, xóm. Căn cứ nội dung
của nghị quyết mà đảng uỷ biên soạn tài liệu, đề cương phù hợp với đối tượng
quần chúng ở địa phương mình. Báo cáo viên thường là đồng chí bí thư đảng
uỷ.
- Tổ chức lớp lồng ghép các tổ chức quần chúng trong khối, xóm. Báo cáo
viên thường là đồng chí bí thư chi bộ hoặc đồng chí trưởng đoàn thể xã.
- Tổ chức cho từng đoàn thể khối, xóm có đoàn thể hoạt động tốt. Báo cáo
viên thường là trưởng, phó đoàn thể cấp xã về báo cáo. Ngoài tổ chức lớp theo
các hình thức trên, cơ sở thường có các hình thức phổ biến khác cho quần chúng
5


nhân dân như qua truyền thanh, truyền hình, qua báo in, qua đảng viên thông tin
lại cho quần chúng, trong đó hình thức tổ chức lớp học nghị quyết và phổ biến
qua đài phát thanh và hệ thống truyền thanh cơ sở là những hình thức đạt hiệu
quả nhất, trong đó phát thanh, truyền thanh có hiệu quả cao nhất do tính phổ
biến sâu rộng của hình thức này. Về số lượng, đã có 50% số nghị quyết được
triển khai học tập cho đoàn viên, hội viên, có 60-65% hội viên tham gia.
Có thể thấy, các cấp uỷ đảng cơ sở đã quan tâm làm tốt công tác tuyên
truyền, quán triệt nghị quyết cho các đoàn thể nhân dân, biết vận dụng tình hình
thực tế địa phương để có hình thức tổ chức phù hợp. Khi quán triệt nghị quyết
đã biết chọn vấn đề, nhiệm vụ cụ thể gắn với các giải pháp trong chương trình
hành động nên bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định.
Tuy vậy trong quá trình tổ chức quán triệt nghị quyết cho các đoàn thể,

tuy các hình thức trên tiến hành có kế hoạch, có báo cáo viên, có phương tiện,
vật chất đảm bảo nhưng hiệu quả chưa cao trong khi phổ biến qua hệ thống
truyền thanh đơn giản nhưng đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng
trên là do năng lực đội ngũ báo cáo viên còn hạn chế, chương trình hành động
chưa sát thực tế cơ sở, một vài tổ chức đoàn thể chất lượng hoạt động yếu, nội
dung nghị quyết chưa sát thực tiễn nên quần chúng tham gia học tập nghị quyết
của cấp uỷ cấp trên, nghị quyết của cấp uỷ cùng cấp đạt tỉ lệ thấp.
c. Đánh giá về chất lượng học tập nghị quyết đối với đảng viên và
quần chúng
+ Điều kiện học tập:
Phần lớn các đảng bộ đều chuẩn bị cơ sở vật chất khá tốt cho việc học tập
nghị quyết, tạo tâm lý khá thoải mái cho người học. Tuy nhiên, một số đảng bộ
có số lượng đảng viên đông, hội trường không đủ chỗ ngồi nên dẫn tới tình
trạng đảng viên đi tiếp thu nghị quyết không đầy đủ, như đảng bộ phường Mai
Hùng.
+ Thời gian học nghị quyết:
Phần lớn ý kiến đều cho rằng việc bố trí thời gian học nghị quyết ở đảng
bộ, chi bộ cơ sở, thông thường từ 1 - 1,5 ngày là phù hợp. Nếu là những nghị
quyết lớn thì thời gian học ở đảng bộ có thể là 2 ngày, ở chi bộ 1 ngày. Một số ý
kiến khác thì cho rằng thời gian học nghị quyết có thể cần dài hơn, hoặc rút
ngắn hơn nếu báo cáo viên biết chọn nội dung, có khả năng khái quát và nêu bật
được những nét mới trong nghị quyết. Việc rút gọn thời gian học nghị quyết phụ
thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực của báo cáo viên và chất lượng chương trình
hành động được triển khai trong hội nghị.
+ Về tài liệu học nghị quyết:
6


Với đối tượng là quần chúng, phần lớn là không được phát. Đối với đảng
viên, hầu hết không có tài liệu khi học nghị quyết. Lý do, các đảng bộ cho rằng,

nếu trang bị tài liệu cho các đảng viên học nghị quyết thì số kinh phí sẽ rất lớn,
khả năng nguồn kinh phí hoạt động của Đảng bộ sẽ không đảm bảo.
+ Về ý thức tham gia học tập nghị quyết
Ý thức học nghị quyết của đảng viên và cả quần chúng nhân dân khá
nghiêm túc. Tùy thuộc vào cách thức quản lý, nề nếp và truyền thống của từng
đảng bộ, chất lượng truyền đạt của báo cáo viên, ảnh hưởng rất lớn đến ý thức,
thái độ tiếp thu nghị quyết của đảng viên.
+ Việc thảo luận nghị quyết
Trong những người được hỏi có 27% cho rằng việc thảo luận diễn ra sôi
nổi, có chất lượng, 51% không quan tâm và 18% cho rằng thảo luận chỉ mang
tính hình thức, 4% cho biết không có thảo luận.
+ Việc viết thu hoạch
Việc viết thu hoạch sau khi học nghị quyết chưa được các đảng bộ cơ sở
triển khai thực hiện nghiêm túc. Nhiều đảng viên cho rằng, việc viết thu hoạch
chỉ được một số ít thực hiện tốt còn lại chỉ mang tính hình thức.
d. Những ưu điểm và hạn chế trong việc tổ chức học tập nghị quyết
* Ưu điểm:
Hầu hết đảng uỷ xã, phường, thị trấn đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và
một bộ phận quần chúng học tập nghị quyết của Đảng tương đối nghiêm túc
theo hướng dẫn của cấp trên. Số lượng đảng viên tham gia học nghị quyết khá
cao, tỷ lệ thường trên 90%, ý thức học tập tương đối tốt. Những nội dung chủ
yếu của nghị quyết đã được báo cáo viên truyền tải đến người nghe tương đối
đầy đủ. Một số cơ sở đã thực hiện nghiêm túc việc quan triệt nghị quyết gắn với
thông qua chương trình hành động thực hiện nghị quyết. Một số nới đã cố gắng
đổi mới hình thức tổ chức học tập, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên..
* Hạn chế:
Hình thức tổ chức, phương pháp truyền đạt và nhất là nội dung báo cáo
viên truyền đạt còn mang tính chung chung, chưa thực sự phù hợp với đối tượng
và địa bàn từng cơ sở. Chất lượng và hiệu quả học tập nghị quyết còn nhiều hạn
chế. Việc xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết chất lượng

chưa cao, chưa được thực hiện đầy đủ. Việc kiểm tra nhận thức của đảng viên
sau khi học nghị quyết chưa được nhiều cấp quan tâm. Tiến độ tổ chức quán
triệt nghị quyết ở nhiều nơi còn chậm, thời gian học bị cắt xén.
2.3. Về đội ngũ báo cáo viên cơ sở hiện nay:
7


Tổng số báo cáo viên toàn thị xã là 150 đồng chí, trong đó báo cáo viên
thị ủy là 15 đồng chí, cấp xã, phường là 135 đồng chí. Đánh giá của quần chúng
về chất lượng truyền đạt của báo cáo viên là 20% dễ hiểu, hấp dẫn; 30 dễ hiểu;
50% bình thường, không hấp dẫn. Đánh giá của đảng viên về chất lượng truyền
đạt của báo cáo viên thu được kết quả như sau: rất tốt 20%; đáp ứng yêu cầu là
60%; chưa đáp ứng yêu cầu là 20%.
Như vậy, chất lượng báo cáo viên ở cơ sở chủ yếu ở mức trung bình và
khá, mức xuất sắc là không nhiều và mức yếu rất ít. Đội ngũ báo cáo viên hiện
nay có những ưu điểm như: hầu hết trong số họ đều là những người ham hiểu
biết, nhiệt tình, ham mê với công việc tuyên truyền, ở các cơ sở đã có sự quan
tâm xây dựng đội ngũ báo cáo viên, cán bộ nhân dân và đảng viên có nhu cầu
thông tin thời sự bước đầu đã được báo cáo viên đáp ứng.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn như: Đội ngũ báo cáo viên do
mới thành lập nên hoạt động còn chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; năng lực
chuyên môn của báo cáo còn chưa có sự đồng đều về trình độ; chế độ phụ cấp,
phương tiện làm việc, tài liệu của đội ngũ báo cáo viên cơ sở còn gặp nhiều khó
khăn…
2.3. Về việc tổ chức thực hiện nghị quyết và xây dựng chương trình hành
động
a. Tình hình xây dựng chương trình hành động, mô hình thực hiện
nghị quyết ở xã, phường.
Việc xây dựng chương trình hành động ở cơ sở chủ yếu thực hiện theo
các hình thức. Thứ nhất, Ban thường vụ cấp uỷ họp bàn định hướng xây dựng

chương trình hành động, sau đó giao trách nhiệm cho một đồng chí tham mưu
nội dung chương trình và xin ý kiến các chi bộ. Sau khi tổng hợp ý kiến, ban
chấp hành thảo luận và cho ban hành tổ chức thực hiện. Thứ hai, từ việc quán
triệt nghị quyết, ban thường vụ cấp uỷ chỉ đạo khảo sát, đánh giá tình hình sau
đó giao cho bộ phận tham mưu tổng hợp và xây dựng chương trình hành động
để trình ban thường vụ, ban chấp hành thảo luận và quyết định ban hành.
Việc xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở nhìn chung đã được thực hiện khá tốt, đã xây
dựng được chương trình hành động riêng, phát động thi đua, huy động được lực
lượng quần chúng tham gia học nghị quyết. Nhìn chung, chất lượng của các
chương trình hành động thực hiện nghị quyết ở cơ sở chưa được chú trọng đúng
với vai trò của nó.
Bộ phận thường trực, thường vụ cấp uỷ cơ sở là cơ quan tham mưu cho cấp
uỷ cơ sở xây dựng chương trình hành động thực hiện chỉ thị nghị quyết của
Đảng ở cấp xã. Về năng lực chuyên môn, năng lực thực tiễn cũng như năng lực
8


cụ thể hoá nghị quyết khá tốt. Tuy nhiên, năng lực nắm bắt những vấn đề cốt lõi
của nghị quyết của cơ quan tham mưu này còn hạn chế nên khá lúng tùng trong
việc xây dựng chương trình hành động.
Công tác chỉ đạo xây dựng mô hình thực hiện nghị quyết đang được các
cấp uỷ đảng, các đoàn thể quan tâm. Một số đoàn thể như thanh niên, phụ nữ…
đã đầu tư thời gian, trí tuệ, lồng ghép nhiều chương trình để triển khai mô hình.,
một sô mô hình có hiệu quả rõ nét.
3. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra thực hiện nghị quyết tại cơ sở.
Nhận thức về công tác kiểm tra của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp và đội
ngũ đảng viên ngày càng cao. Các cấp uỷ ngày càng quan tâm kiện toàn bộ máy,
xây dựng đội ngũ, chương trình, kế hoạch, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết,
chương trình hành động trên tất cả các lĩnh vực. Đa sô các cấp uỷ xã, phường,

thị trấn đã quan tâm xây dựng, kiện toàn uỷ ban kiểm tra, định kỳ tổ chức nghe
và cho ý kiến về kết quả thực hiện nhiệm vụ kiểm tra. Công tác kiểm tra thực
hiện nghị quyết đã có tác động đến việc đổi mới và nâng cao chất lượng lãnh
đạo của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra thực hiện nghị quyết tại cơ sở vẫn còn
những hạn chế. Một số cấp uỷ chưa nhận thức đầy đủ vị trí và ý nghĩa của công
tác kiểm tra thực hiện nghị quyết. Một số đảng uỷ cơ sở, người đứng đầu tổ
chức cơ sở còn lúng túng trong chỉ đạo thực hiện, kiểm tra nghị quyết tại địa
bàn mình. Phương pháp kieemt tra còn raaopj khuôn, chưa cân đối giữa kiểm tra
các lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh với kiểm tra công tác xây dựng
Đảng…
4. Những giải pháp đổi mới phương thức quán triệt và tổ chức thực
hiện nghị quyết của đảng ở phường, xã:
4.1. Nhóm giải pháp đổi mới phương pháp lựa chọn nội dung và hình
thức tổ chức truyền đạt nghị quyết phù hợp với đối tượng và địa bàn
a. Đối với đảng viên
Tổ chức quán triệt nghị quyết cho đội ngũ cốt cán toàn xã và toàn thể
đảng viên được quán triệt nghị quyết một lần theo đảng bộ. Sau đó tùy từng
nghị quyết mà cấp ủy có thể quyết định tổ chức thêm phần sinh hoạt theo chi bộ
để tăng cường phần thảo luận, giải đáp, hướng dẫn viết thu hoạch.
b. Lựa chọn nội dung trong truyền đạt nghị quyết:
Việc lựa chọn nội dung truyền đạt nghị quyết ở cơ sở hiện nay cần dựa vào
những căn cứ như: yêu cầu chung của việc quán triệt nghị quyết, yêu cầu của
việc đổi mới công tác tư tưởng nói chung và công tác quán triệt nghị quyết nói
riêng, yêu cầu và sở thích của người nghe, tình hình thực tế của cơ sở. Tránh
9


tình trạng dùng một bài chung chung truyền đạt cho nhiều cơ sở. Nội dung
truyền đạt nghị quyết cần nêu được những nội dung cơ bản của nghị quyết, nêu

bật được những điểm mới của nghị quyết đồng thời có sự liên hệ với tình hình,
nhiệm vụ cơ sở và phổ biến chương trình hành động thực hiện nghị quyết.
c. Đổi mới phương pháp truyền đạt nghị quyết.
Qúa trình truyền đạt nghị quyết là quá trình tác động lẫn nhau, thống nhất
biện chứng giữa hoạt động truyền đạt của báo cáo viên và hoạt động học tập của
người nghe. Trong đó báo cáo viên có vai trò chủ đạo, tổ chức, điều khiển hoạt
động học tập, kích thích tính tích cực, năng động của người nghe để phát huy
vai trò chủ thể nhận thức của họ. Việc lựa chọn đổi mới phương pháp truyền đạt
nghị quyết có vị trí vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình triển khai, quán
triệt và thực hiện nghị quyết của Đảng ở mọi cấp và với mọi đối tượng. Do vậy,
cần nâng cao chất lượng của phương pháp thuyết trình, tích cực áp dụng các
hình thức, phương pháp truyền đạt mới.
d. Nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc học tập
nghị quyết.
Cán bộ, đảng viên phải nhận thức việc nghiên cứu, học tập nghị quyết vừa
là quyền lợi vừa là trách nhiệm, do đó phải có thái độ cầu thị, gương mẫu trong
học tập nghị quyết. Do đó, cần xây dựng ý thức tham gia học tập nghị quyết đầy
đủ, chấp hành thời gian học tập, nghiêm túc tham gia, thảo luận sôi nổi.
e. Về việc truyền đạt nghị quyết trong quần chúng
Hình thức tổ chức, lựa chọn nội dung và phương pháp truyền đạt nghị
quyết có thể vận dụng khác nhau tuỳ theo đặc điểm dân cư và địa bàn của từng
vùng miền.
Việc tổ chức học tập có thể tiến hành theo các cách sau: Tổ chức theo từng
đoàn thể của xã, phường, thị trấn; tổ chức chung cho tất cả các thành phần theo
địa bàn khối, xóm, bản. Đồng thời cần phát huy lợi thế của các phương tiện
thông tin đại chúng như: báo viết, hệ thống truyền thanh…
Nội dung truyền đạt nghị quyết cho quần chúng cần đạt yêu cầu: dễ hiểu,
cụ thể, đẽ nhớ, chọn vấn đề, nội dung cốt lõi của nghị quyết và chương trình
hành động của cấp trên đề ra. Cần chú ý đến đặc điểm riêng của từng cơ sở để
có sự liên hệ sâu sát, tránh tình trạng nói một bài chung cho tất cả các cơ sở. Khi

cần thiết, tuỳ tình hình cụ thể mà cấp uỷ cần có nghị quyết chuyên đề nhưng
nghị quyết cần ngắn gọn, súc tích.
Đối với quần chúng, việc truyền đạt nghị quyết nên dùng các phương pháp
sau: diễn giải, đối thoại và một số phương pháp như đọc trên đài truyền thanh,
thông qua các hình thức sinh hoạt văn hoá…
10


4.2. Nhóm giải pháp xây dựng đội ngũ báo cáo viên cơ sở nhằm quán
triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết
Đảng ta đã khẳng định báo cáo viên, tuyên truyền viên là đội ngũ tuyên
truyền miệng có tổ chức của Đảng. Các văn bản của Đảng đều đã khẳng định
đội ngũ báo cáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, là lực lượng nòng cốt, chủ
lực trong đội ngũ tuyên truyền miệng, được lựa chọn theo những tiêu chuẩn nhất
định, được cấp uỷ công nhận và do ban tuyên giáo trực tiếp quản lý, điều hành.
Báo cáo viên là công cụ quan trọng hàng đầu trong việc tuyên truyền, giáo dục
quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, đưa tiếng nói của Đảng trực tiếp
đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những giái pháp chủ yếu để xây dựng đội
ngũ báo cáo viên là:
+ Nâng cao nhận thức của cấp uỷ, chính quyền và các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở phường, xã, thị trấn về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
đội ngũ báo cáo viên. Trên cơ sở đó, cụ thể hoá các văn bản, chỉ thị, nghị quyết
cấp trên về xây dựng đội ngũ báo cáo viên một cách thiết thực cả về số lượng và
chất lượng.
+ Cấp uỷ cần có nghị quyết chuyên đề hoặc giao cho ban tuyên giáo cơ sở
xây dựng đề án và tham mưu, chỉ đạo việc xây dựng đội ngũ báo cáo viên cơ sở.
+ Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên cơ sở với
những nội dung, hình thức phù hợp, thiết thực có hiệu quả.
+ Xây dựng cơ chế, chính sách cho đội ngũ báo cáo viên ở cơ sở.
+ Quan tâm đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho báo cáo viên

+ Tăng cường phối kết hợp chỉ đạo giữa các cấp ngành từ trung ương đến
cơ sở, đặc biệt là các ban ngành cấp huyện, xã để chỉ đạo hoạt động sát với thực
tế và có hiệu quả hơn.
+ Tăng cường giao lưu, tham quan học tập trao đổi kinh nghiệm giữa các
xã, phường trong huyện, trong tỉnh hoặc ngoại tỉnh.
+ Bồi dưỡng chuyên môn cho báo cáo viên trong việc quán triệt nghị quyết
gắn với xây dựng và triển khai thực hiện chương trình hành động của cấp uỷ sát
với tình hình thực tế của địa phương và chỉ tiêu đại hội đảng bộ cơ sở đề ra.
+ Tổ chức sơ kết, tổng kết hàng năm, đánh giá đúng thực chất hoạt động
của độ ngũ báo cáo viên, có biểu dương khen thưởng và đề ra biện pháp hoạt
động đạt hiệu quả cao trong thời gian tới.
Chất lượng truyền đạt nghị quyết tại các cơ sở phụ thuộc rất nhiều vào năng
lực, khả năng truyền đạt của báo cáo viên. Vì vậy, việc bồi dưỡng, nâng cao
năng lực của đội ngũ báo cáo viên là hết sức cần thiết. Do đó, cần phải tổ chức
các lớp bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ quán triệt nghị quyết; tổ chức hội thi
11


quán triệt nghị quyết, để kịp thời bổ sung, rút kinh nghiệm cho báo cáo viên.
Ngoài ra, đối với các nghị quyết, Ban Tuyên giáo cấp trên nên xây dựng đề
cương, gợi ý, cung cấp các số liệu để báo cáo viên cơ sở có thể tiếp cận, chuẩn
bị kỹ các nội dung cần truyền đạt, đảm bảo chất lượng quá trình triển khai nghị
quyết.
4.3. Nhóm giải pháp đổi mới công tác xây dựng chương trình hành
động, xây dựng mô hình thực hiện nghị quyết tại cơ sở.
Các đảng bộ xã, phường, thị trấn cần tổ chức xây dựng chương trình hành
động và mô hình thực hiện nghị quyết vì chương trình hành độnglà sự cụ thể
hoá các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong nghị quyết vào điều kiện cụ thể
của từng cơ sở. Xây dựng chương trình hành động và xây dựng mô hình thực
hiện nghị quyết là thể hiện tính thực tiễn trong đường lối chủ trương, chính

sách của Đảng.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới công tác xây dựng chương trình
hành động, xây dựng mô hình thực hiện nghị quyết tại cơ sở đó là:
+ Công tác xây dựng chương trình hành động, xây dựng mô hình thực hiện
nghị quyết cần đảm bảo tính khách quan, thực hành nguyên tắc tập trung dân
chủ, giữ vững vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, đồng thời phát huy được vai
trò của chính quyền cơ sở. Đảng viên, cán bộ phải là tấm gương về trí tuệ, đạo
đức và lối sống.
+ Tiếp tục đổi mới công tác xây dựng chương trình hành động, mô hình
thực hiện nghị quyết. Xây dựng những nội dung chương trình hành động cần đạt
được, lựa chọn xây dựng mô hình thực hiện nghị quyết, nâng cao chất lượng
công tác xây dựng chương trình hành động, mô hình thực hiện nghị quyết, nâng
cao trách nhiệm của Ủy ban nhân dân trong việc cụ thể hoá nghị quyết của Đảng
thành cơ chế, chính sách để thực hiện thắng lợi nghị quyết, chương trình hành
động. Đồng thời phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong việc tổ chức, thực hiện nghị quyết, chương trình hành động.
4.4. Nhóm giải pháp đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát thực hiện
nghị quyết tại cơ sở xã, phường, thị trấn.
Kiểm tra, giám sát là một tất yếu khách quan là một biểu hiện nghiêm túc
của hoạt động có ý thức của một tổ chức và con người trong xã hội. Đây là một
trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận trong toàn bộ công tác
xây dựng Đảng.
Để có thể đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát thực hiện nghị quyết tại
cơ sở xã, phường, thị trấn thì cấp uỷ cấp trên phải tiếp tục nâng cao nhận thức
về công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nghị quyết cho cấp uỷ, các tổ chức cơ
sở đảng theo hướng đổi mới nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo tổ
12


chức thực hiện nghị quyết. Câp uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các

sơ, ban ngành cần xây dựng ý thức tự nghiên cứu, tự chịu trách nhiệm khi ban
hành các nghị quyết, quyết định và yêu cầu cơ sở triển khai đồng bộ, phù hợp
với thực tiễn.
Chủ động ban hành các nghị quyết, chỉ thị phù hợp với tình hình thực tiễn
của địa phương, quan tâm, kiểm tra tổ chức thực hiện các nghị quyết củ tổ chức
cơ sở đảng ở địa bàn trọng yếu, ở lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm.
Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao nhận thức ở cơ sở về ý thức tự kiểm tra, kiểm
tra thường xuyên và đột xuất.
Đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát thực hiện nghị quyết một cách
khoa học, gắn với thực tiễn của cơ sở, kết hợp kiểm tra thực hiện nghị quyết với
kiểm tra cán bộ chủ chốt, kiểm tra tổ chức đảng.
Khi xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra cần có sự phối hợp từ đầu để
đảm bảo tính cân đối giữa các lĩnh vực kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng, công
tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Các đoàn kiểm tra phải có nội dung, lịch trình cụ thể khi về cơ sở, tuỳ theo
nội dung kiểm tra của nghị quyết mà xây dựng phương pháp, cách làm phù hợp.
Tiếp tục nâng cao chất lượng kiểm tra nghị quyết ở cơ sở. Cần quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra ở cơ sở có lập trường tư tưởng
vững vàng, có nghiệp vụ chuyên môn tốt, công tâm, gương mẫu, có tính chiến
đấu cao.
Coi trọng công tác tự kiểm tra thực hiện nghị quyết của mặt trận và các
đoàn thể.
5. Hiệu quả của việc thực hiện nghị quyết, chương trình hành động
Áp dụng các giải pháp nêu trên, qua thực tiễn công tác triển khai Nghị
quyết ở Đảng bộ thị xã Hoàng Mai. Thấy rằng, chất lượng việc quán triệt nghị
quyết đã được nâng lên rõ nét. Báo cáo viên các cấp có ý thức, nâng cao năng
lực truyền đạt nghị quyết. Đảng viên chấp hành nghiêm túc, tham gia học tập
nghị quyết luôn đạt tỷ lệ trên 90 %.
Qua kiểm tra cho thấy, có khoảng 50-60% số nghị quyết, chỉ thị và
chương trình hành động thực hiện nghị quyết, chỉ thị cấp trên đến được với nhân

dân và đi vào cuộc sống khá nhanh như Chỉ thị 08 của Tỉnh uỷ về chuyển đổi
ruộng đát, Nghị quyết 06 của Tỉnh uỷ về phát triển công nghiệp, làng nghề, hoặc
một số chủ trương về xoá đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa…Đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã được nâng lên rõ nét. Huy động
nguồn vốn xây dựng kết cấu hạ tầng tăng cao. Các phong trào văn hoá, giáo dục,
y tế, thể dục, thể thao cũng được nhân dân hưởng ứng và tham gia có hiệu quả
13


như: phổ cập giáo dục tiêu học đúng độ tuổi, xây dựng xã đạt tiêu chí quốc gia
về y tế, trường chuẩn quốc gia…
Tuy vậy, cũng còn một số đảng viên, người dân cho rằng, việc tổ chức thực
hiện nghị quyết không thành công là do nghị quyết chưa phù hợp với thực tế,
chất lượng thực hiện nghị quyết chưa cao, việc tuyên truyền quán triệt một số
nghị quyết ở một số địa phương vẫn đang đơn điệu, hình thức.
III. KẾT LUẬN
Nghị quyết của Đảng có vai trò, chức năng lãnh đạo và định hướng cho
việc bảo vệ và phát triển đất nước hưng thịnh một cách bền vững, nhưng để nghị
quyết của Đảng hiện thực hóa trong cuộc sống xã hội thì đòi hỏi nghị quyết đó
phải đi vào cuộc sống và được cuộc sống phản ánh lại một cách tích cực, hiệu
quả. Đảng ta là đảng cầm quyền, nên vai trò và năng lực lãnh đạo luôn thể hiện
trong cương lĩnh, nghị quyết, biểu thị quan điểm, định hướng chủ trương, đường
lối. Chính vì lẽ đó, thước đo cho sự thành công của một nghị quyết khi được ban
hành, để nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống thì việc đổi mới phương
thức quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết rất quan trọng.
Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu được nêu ra trong nghị quyết thì
một trong những khâu phải chú trọng làm tốt đó là tổ chức học tập, quán triệt
nghị quyết cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là cán bộ chủ chốt ở các địa
phương, chủ động, sáng tạo trong việc vận dụng và cụ thể hóa nghị quyết đối
với từng điều kiện, tình hình thực tiễn ở mỗi địa phương, đơn vị thông qua

chương trình hành động; đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức
phong phú; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết ở cơ
sở,… tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của toàn
Đảng, toàn dân.
Nhiệm vụ cần làm ngay sau khi nghị quyết của Đảng được ban hành, đó
chính là việc xây dựng kế hoạch để tổ chức triển khai học tập, quán triệt nghị
quyết đến từng tổ chức cơ sở đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sau khi
học tập, quán triệt nghị quyết, mỗi cấp uỷ phải nhanh chóng xây dựng chương
trình hành động thực hiện nghị quyết, trong đó cần có kế hoạch hành động từng
năm, từng quý, từng tháng, bảo đảm vận dụng sáng tạo và cụ thể hóa nghị quyết
của đảng bộ cấp trên và nghị quyết của đảng bộ mình với những mục tiêu, giải
pháp cụ thể. Mỗi chương trình, kế hoạch hành động mà cấp ủy và tổ chức đảng
đưa ra phải được coi là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là căn cứ để kiểm tra, đánh
giá đúng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của từng tổ chức đảng. Là lực
lượng xung kích trong việc đưa nghị quyết của Đảng đến với từng cán bộ, đảng
14


viên và quần chúng nhân dân, các cấp ủy đảng cần tăng cường đôn đốc, chỉ đạo
lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên phát huy mạnh mẽ và hiệu quả trách
nhiệm của mình. Mỗi báo cáo viên, tuyên truyền viên phải là những người có
phẩm chất chính trị, đạo đức trong sáng, nắm vững nội dung của nghị quyết để
chuyển tải những vấn đề trọng tâm của nghị quyết đến với người nghe đồng thời
bám sát cơ sở, bám dân, biết vận động quần chúng, sẵn sàng giải thích, đối thoại
và làm rõ những vấn đề mà nhân dân quan tâm. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng
viên cũng phải là một tuyên truyền viên giỏi. Các cơ quan báo chí, hệ thống đài
phát thanh, truyền thanh từ tỉnh đến cơ sở cần xây dựng và thực hiện có hiệu
quả chuyên mục “Đưa Nghị quyết Đại hội Đảng vào cuộc sống”; các ngành văn
hóa tổ chức tuyên truyền với các phương pháp trực quan sinh động với panô, áp
phích nhằm cổ vũ, động viên mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thi

đua hăng hái lập thành tích trong thực hiện nghị quyết của Đảng.
Đồng thời cần chú trọng công tác kiểm tra, giám sát nhằm làm cho việc
triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng ở cơ sở được tiến hành một cách
khoa học nhất. Để làm được những điều đó, trước mắt cần thực hiện bốn nhóm
giải pháp là: đổi mới phương pháp lựa chọn nội dung và hình thức tổ chức
truyền đạt nghị quyết phù hợp với đối tượng và địa bàn; xây dựng đội ngũ báo
cáo viên cơ sở nhằm quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết; đổi mới công
tác xây dựng chương trình hành động, xây dựng mô hình thực hiện nghị quyết
tại cơ sở; đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát thực hiện nghị quyết tại cơ sở
xã, phường, thị trấn.
Thực hiện đầy đủ các yêu cầu nêu trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng
quán triệt nghị quyết ở cơ sở, hiệu quả nghị quyết đi vào cuộc sống sẽ tốt hơn,
khắc phục tình trạng đơn điệu, nhàm chán, hình thức trong quán triệt nghị quyết,
để nghị quyết đi vào cuộc sống, trở thành ý thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân.
XÁC NHẬN UBND THỊ XÃ

Hoàng Mai, ngày

KT. CHỦ TỊCH

tháng

Người viết SKKN

15

năm 2014



TÀI LIỆU THAM KHẢO
------------

- Đổi mới phương thức quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết của
đảng qua thực tiễn Nghệ An.
- Tạp chí Tuyên giáo các số năm 2013.
- Báo cáo công tác Tuyên giáo huyện Quỳnh Lưu năm 2013
- Báo cáo công tác Tuyên giáo thị xã Hoàng Mai năm 2013.
- Tài liệu đổi mới công tác tuyên giáo ở cơ sở.
- Tạp chí Báo cáo viên năm 2013.
- Nghị quyết Đại hội đảng các cấp
- Các tài liệu có liên quan khác.
-----------

16



×