Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.32 KB, 89 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải có sự
đóng góp của các nguồn lực khác nhau như nguồn lực vốn, tài nguyên thiên
nhiên, khoa học công nghệ và con người. Trong đó, nguồn nhân lực đóng vai
trò quyết định. Đây là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nhân tố quan trọng bậc
nhất để đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển. Do vậy, khai
thác, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng góp phần
thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy
nhiên, vai trò quyết định của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao chỉ trở thành hiện thực khi người lao động được đào tạo để có năng
lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được những yêu cầu mà quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra hiện nay và cả tương lai. Nghị quyết Đại hội
lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: Đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn nhân lực chất
lượng cao của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là "những con
người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích
cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng".
Cao Bằng là một tỉnh biên giới phía Bắc của Tổ quốc với địa hình phần
lớn là rừng núi, có nhiều dân tộc cùng sinh sống, kinh tế phát triển chậm, đời
sống người dân còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng
trên là do trình độ văn hóa cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của người
dân còn thấp. Để tỉnh Cao Bằng có thể tiến kịp với các địa phương khác trong
cả nước và thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Tỉnh cần phải xem sự phát triển nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu.
Xuất phát từ thực tế trên, em xin chọn khóa luận “Phát triển nguồn
nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Tỉnh Cao
Bằng” làm đề tài nghiên cứu nhằm nhận thức đúng đắn hơn vai trò, vị trí, yêu

1




cầu của việc phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa Việt Nam.
Đồng thời, từ việc nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Cao
Bằng, em xin đề ra các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh từ này đến năm
2020.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề thu hút được sự
quan tâm rộng rãi của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học. Liên quan đến
vấn đề này đã có các công trình được công bố như:
- GS.TS Phạm Minh Hạc phân tích vấn đề con người trong “Sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam’’, NXB Chính trị quốc gia ,Hà Nội, 1996
- TS. Nguyễn Thanh: “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
- PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa: “Nguồn nhân lực – động lực cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, XNB Chính trị quốc gia, 2001.
- TS. Phạm Văn Đức: “ Vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, NXB CTQG, 2001.
- TS. Nguyễn Hữu Dũng : “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở
Việt Nam”, NXB Lao động – xã hội , Hà Nội, 2003.
- Tác giả Mai Quốc Chánh : “Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá’’, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999.
- Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (đồng chủ biên, 2004), sách:
“Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển
nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Cao Bằng, từ
2


đó, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh trong giai đoạn 2010 – 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Cao
Bằng trong những năm vừa qua (2001 – 2010)
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn
2010 – 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một khóa luận tốt nghiệp Đại học, em xin nghiên cứu
sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
phạm vi tỉnh Cao Bằng ( khảo sát, đánh giá từ 2001 – 2010) và đề xuất giải
pháp phát triển từ nay đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước; Các nghị quyết,
quyết định của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực.
Kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các nhà nghiên cứu, các
học giả về vấn đề trên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;

phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê…kết hợp với việc
xử lý các tài liệu xung quanh vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phấn mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:

3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1.1. Nguồn nhân lực – khái niệm, đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng
1.1.1.1. Các khái niệm
* Khái niệm nguồn lực:
Nguồn lực là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần đã, đang và sẽ có
khả năng tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện thích
hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một dân tộc, một quốc gia.
* Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực hay còn gọi là “nguồn lực con người”, “nguồn tài
nguyên con người”
Khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng từ những năm 60 ở nhiều
nước phương Tây và một số nước Châu Á. Có nhiều cách hiểu khác nhau về
nguồn nhân lực:
- Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng
sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự vận động và phát

triển lực lượng sản xuất và do đó quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã
hội.
- Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như là một loại vốn,
một thành tố cơ bản và tất yếu của quá trình sản xuất kinh doanh. Với cách
tiếp cận này, Ngân hàng thế giới cho rằng nguồn lực con người là toàn bộ vốn
người (thể lực và trí lực) của mỗi cá nhân sở hữu.

4


Như vậy, nguồn lực con người ở đây được coi như một nguồn vốn bên
cạnh các loại vốn vật chất khác như: vốn tiền, vốn công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên.
- Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành
nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực
tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng.
Nguồn nhân lực được hiểu là “Toàn bộ trình độ chuyên môn mà con
người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập
trong tương lai. Giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu
tư trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai” (Beng, Fischer
& Dornhusch, 1995).
- Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng được hiểu là nguồn lực con người
giống như các nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính cần được huy động,
quản lý thực hiện những mục tiêu đã định.
- Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hoá được trong
công tác kế hoạch hoá ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số,
bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động theo quy
định của Bộ luật lao động Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 đến
hết 55 tuổi).
Trên cơ sở đó, một số nhà khoa học Việt Nam đã xác định nguồn nhân

lực hay nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ.
Trong đó lực lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc
và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người
thất nghiệp). Lao động dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người
trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu cầu lao động.
Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các tiềm
năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công
việc lao động nào đó.

5


Xét trên bình diện một quốc gia hay địa phương, nguồn nhân lực còn
được xác định là: “Tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một
địa phương, tức là nguồn nhân lực được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau)
sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những lao động có
kỹ năng, hay khả năng nói chung, bằng con đường đáp ứng yêu cầu của
chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Như vậy, dù ở góc độ nào, nguồn nhân lực trước hết phải là những lao
động tham gia vào hoạt động kinh tế, là những người có trình độ, tay nghề
chuyên môn cả về thể lực và trí lực. Ngoài ra, nguồn nhân lực còn bao gồm
những người trong độ tuổi lao động song vì những lý do khác nhau mà có khả
năng của họ cũng khác nhau, có những người không tham gia lao động như
người làm nội trợ, người đang đi học, người nghỉ hưu trước tuổi quy định và
cả những người có khả năng lao động nhưng không tích cực tìm kiếm việc
làm.
Với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội gồm toàn bộ dân
cư phát triển bình thường về mọi mặt, nguồn nhân lực bao gồm những người
bắt đầu bước vào độ tuổi lao động trở lên tham gia vào nền sản xuất xã hội

* Khái niệm nguồn lao động
Nguồn lao động là tất cả những người trong độ tuổi lao động, đang
tham gia làm việc hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Nguồn lao động được hiểu là một bộ phận dân số có khả năng lao động
gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và dân số ngoài độ
tuổi lao động đang làm việc thường xuyên trong nền kinh tế quốc dân
Như vậy, nguồn lao động bao gồm những người đang làm việc trong,
ngoài độ tuổi lao động và cả những người thất nghiệp.
Người có việc làm là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động, có việc làm và đang hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực
của đời sống xã hội trong nền kinh tế quốc dân.
6


Đây là lực lượng trực tiếp tạo ra sản phẩm và của cải vật chất cho xã
hội. Những người có việc làm trong xã hội còn được gọi là dân số tham gia
hoạt động kinh tế, trên thực tế, lực lượng này đã và đang tạo ra nhiều sản
phẩm vật chất cho xã hội.
Người thất nghiệp: Là những người có khả năng lao động, có nhu cầu
lao động nhưng hiên ại không có việc làm hoặc đang chờ đợi được trở lại làm
việc.
Xét trong cơ cấu lực lượng lao động, thất nghiệp có vai trò như một
nguồn dự trữ lao động về nhân lực, bao gồm thất nghiệp dài hạn (hoàn toàn
không có việc làm) và thất nghiệp mùa vụ. Ở các nước đang phát triển, thất
nghiệp theo mùa vụ thường chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng số những
người thất nghiệp và là nhân tố cần tính đến trong cân đối nguồn nhân lực.
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là không thể tránh khỏi, song
một quốc gia giữ cho người lao động có đủ việc làm ở mức cho phép sẽ đạt
được mức GDP cao hơn so với việc để cho người lao động không có việc làm.
* Phân biệt nguồn nhân lực và nguồn lao động

Qua một số khái niệm nêu trên, đã có ý kiến cho rằng: nguồn
nhân lực rộng hơn nguồn lao động vì tất cả những người trong độ tuổi quy
định có khả năng làm việc đều là nguồn nhân lực. Như vậy, nguồn nhân lực
gồm những người đang làm việc, người nội trợ, người về hưu sớm, người
chưa tìm được việc làm…; còn nguồn lao động chỉ bao gồm những người
đang tham gia làm việc và những người thất nghiệp.
Tuy nhiên, ở đây giới hạn không đi quá sâu về mặt thuật ngữ và không
thiên về mặt số lượng, ở một chừng mực nhất định, có thể tạm thời coi nguồn
lao động và nguồn nhân lực đều giống nhau vì cùng chỉ những người lao động
trong một quốc gia. Vấn đề đáng bàn là ở chỗ, dù cách này hay cách khác, có
thể hiểu nguồn nhân lực theo nghĩa nhấn mạnh, đề cao hơn yếu tố chất lượng
vì rõ ràng với sự hình thành nền kinh tế tri thức, nhân loại đang bước sang

7


thời đại văn minh mới mà ở đó quyền lực tri thức được khẳng định thì yếu tố
chất lượng của nguồn nhân lực có ý nghĩa sống còn.
Nếu các mô hình kinh tế truyền thống dựa chủ yếu vào sức lao động cơ
bắp thuần túy và tài nguyên… thì ở nền kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo,
trình độ tiếp cận và vận dụng tri thức hiện đại trong quá trình sản xuất các giá
trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa quyết định thúc đẩy nền kinh tế. Tất cả
những vấn đề đó đều có mối quan hệ chặt chẽ với con người và do con người
sáng tạo ra. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực về mặt lượng là chưa đủ,
mà quan trọng là sự phát triển về mặt chất.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần chú trọng phát triển
một cách toàn diện nguồn nhân lực, khuyến khích và bồi dưỡng nhân tài. Ở
bối cảnh hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra
mạnh mẽ và những yếu tố của nền kinh tế tri thức xuất hiện ngày càng nhiều
thì yêu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được những đòi hỏi của thực

tiến đặt ra ngày càng trở nên bức thiết.
Thực tế cho thấy, khi một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo
tham gia vào các hoạt động kinh tế thì điều đó là cần thiết nhưng chưa đủ. Bởi
vì, nguồn nhân lực đó còn phải đáp ứng yêu cầu là những con người khỏe
mạnh đúng nghĩa về mặt thể lực, trí lực thì mới có thể sử dụng hiệu quả các
nguồn lực khác, làm tăng năng suất lao động, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và
phát triển bền vững nền kinh tế đất nước nói chung, từng vùng, từng địa
phương nói riêng. Tuy nhiên trên thực tế, không phải nguồn nhân lực của
quốc gia nào cũng có số lượng và chất lượng đạt yêu cầu. Vậy phải chú trọng
đến những nhân tố nào để đảm bảo về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực.
Chúng ta sẽ làm rõ trong phần tiếp theo.
* Khái niệm phát triển nguồn nhân lực:
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một ''tài nguyên đặc
biệt'', một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con
người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm
8


trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu
tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia.
Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất
cho sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có
nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực.
Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao
gồm giáo dục đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị
cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như
kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những

năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và
ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Theo quan điểm sử dụng năng lượng con người của Tổ chức quốc tế và
lao động thì “ Phát triển nguồn nhân lực bao hàm không chỉ sự chiếm lĩnh
trình độ lành nghề, mà bên cạnh phát triển năng lực, là làm cho con người có
nhu cầu sử dụng năng lực đó để tiến đến có được việc làm hiệu quả cũng như
thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân”.
Một số tác giả khác lại quan niệm Phát triển nguồn nhân lực là quá
trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực,
đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân
lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát
triển kinh tế - xã hội.
Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một
quốc gia: chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên
các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo
ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát
nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực
9


toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân
mỗi con người.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề
cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn
nhân lực của một quốc gia
Như vậy, Phát triển nguồn lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực với công việc nâng cao hiệu quả sử
dụng chúng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, của vùng, của ngành hay của một doanh nghiệp. Nói một
cách khác, phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp,

chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao sức lao động xã hội
nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội
trong từng giai đoạn phát triển.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một
người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng
với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn,
kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành
nghề).
Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực
của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu
thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy,
khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng
thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được
yêu cầu của thị trường (yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước),
đó là: có kiến thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và

10


tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm
việc tốt, trách nhiệm với công việc.
Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát
triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính
trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao
có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải đi vào thực chất.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa
trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn

nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò
quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền
kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột
cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao, tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng,
kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn
vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến
động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có
nguồn nhân lực , có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường
chính trị- xã hội ổn định.
1.1.1.2. Đặc điểm của nguồn nhân lực Việt Nam
- Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào, cơ cấu nguồn nhân lực trẻ
Nguồn nhân lực gồm những người nằm trong độ tuổi lao động: Nam từ
15 – 60; nữ từ 15 – 55 tuổi đã được Bộ Luật Lao động quy định. Tính đến 0
giờ ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573 người, tăng 9,47 triệu
người so với năm 1999 (với sai số thuần là 0,3%). Tỷ lệ tăng dân số bình quân
năm trong giai đoạn 1999-2009 là 1,2%/năm.
Cơ cấu nguồn nhân lực: Nhóm trẻ, từ 15 – 34 tuổi chiếm hơn 50%;
nhóm người ở độ tuổi trung niên từ 35 – 54 tuổi chiếm hơn 42%. Số nhân lực
11


cao tuổi chiếm khoảng 7%. Nguồn nhân lực trẻ gắn với những điểm mạnh
như sức khỏe tốt, năng động, dễ tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di
chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa, đào tạo nghề, họ sẽ phát huy tác dụng
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nguồn nhân lực Việt Nam phân bố không đồng đều và có sự khác biệt
lớn theo vùng

Lực lượng lao động phân bổ không đồng đều giữa nông thôn và thành
thị (nông thôn 75,6%, thành thị 24,4%), tập trung chủ yếu vùng đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (44%), các vùng còn lại 56%. Số
đông lực lượng lao động có nguồn gốc làm nông nghiệp… vì thế gặp nhiều
khó khăn trong chuyển đổi ngành nghề sang lao động phi nông nghiệp, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự cách biệt về chuyên môn kỹ thuật của
lực lượng lao động giữa thành thị và nông thôn là rất lớn, đã đang và sẽ gây
bất lợi cho khu vực nông thôn. Tỷ lệ lao động tham gia thị trường lao động
(làm công ăn lương) chiếm tỷ lệ còn nhỏ, chứng tỏ thị trường lao động phát
triển chưa cao, chưa ổn định.
Hai vùng Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long có tới
43% dân số của cả nước sinh sống. Hai vùng trung du, miền núi phía Bắc và
vùng Tây Nguyên chỉ có 19% dân số cả nước sinh sống.
Dân số ở thành thị hiện chiếm 29,6% tổng dân số cả nước, tăng bình
quân 3,4%/năm; trong khi tỷ lệ tăng dân số ở khu vực nông thôn chỉ là
0,4%/năm. Đông Nam Bộ là vùng có mức độ độ thị hóa cao nhất với dân số
thành thị chiếm 57,1%; tiếp đến là vùng Đồng bằng Sông Hồng có mức độ đô
thị hóa tương đối cao với 29,2% dân số sống ở thành thị.
- Nguồn nhân lực Việt Nam còn hạn chế về thể lực
Số Theo Bộ Lao động, thương binh và xã hội, thể lực người lao động
nước ta hiện nay còn yếu. So với thế giới tầm vóc và thể lực của người Việt
Nam thuộc loại trung bình thấp. Chiều cao của thanh niên 15 tuổi thấp hơn so
với chuẩn quốc tế 8,34cm đối với nam và 9,13cm đối với nữ; thấp hơn thanh
12


niên Nhật Bản 8cm đối với nam, 4cm đối với nữ; thấp hơn thanh niên các
nước trong khu vực là Thái Lan, Singapore từ 2-6 cm.
Việc này ảnh hưởng đến việc sử dụng, vận hành máy móc, hiện đại, hạn
chế năng suất lao động, bắt buộc người lao động phải gắng sức nhiều và làm

tăng nguy cơ mất an toàn lao động.
Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 73 tuổi năm 2008 nhưng
tuổi trung bình khỏe chỉ đạt bình quân trên 60 tuổi (trung bình một con người
Việt Nam có khoảng 12 năm ốm đau, bệnh tật).
Theo đánh giá của các nhà sử dụng lao động nước ngoài, lao động Việt
Nam làm việc khéo léo, chăm chỉ nhưng không đáp ứng được yêu cầu công
việc với cường độ lao động cao, sức dẻo dai cũng hạn chế. Đồng thời việc
chứng nhận sức khỏe của người lao động không chính xác, có tới 15% sức
khỏe yếu và khoảng 5% phải chú ý về sức khỏe như nhẹ cân, áp huyết cao…
So sánh giữa khả năng lao động của người Việt Nam với các nước
trong khu vực cho thấy năng suất lao động khá thấp (thấp hơn Trung Quốc 1,8
lần; Indonesia 1,5 lần - theo nguồn của Viện Khoa học thống kê năm 2006).
- Chất lượng của nguồn nhân lực ở Việt Nam còn thấp so với khu vực
và trên thế giới
Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có tỷ lệ người lớn
biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao. Sau hơn 20 năm đổi mới,
lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nước ta đã tăng từ
7,6% (năm 1986) lên gần 30% (năm 2007).
So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, người lao động Việt
Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như: thông minh, cần cù, chịu
khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các
công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng của
nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao
động quốc tế.

13


Tuy nhiên, với yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh tế đất nước
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì chất lượng nguồn

nhân lực nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Mặc dù các chỉ số
thống kê hằng năm về giáo dục ở nước ta khá cao (hơn 90% dân số biết chữ,
nhiều địa phương đã thực hiện xong chương trình phổ cập giáo dục cấp tiểu
học cơ sở, trung học cơ sở v.v..), tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng nền giáo
dục ở nước ta còn đạt ở mức thấp.
Báo cáo phát triển thế giới năm 2006 của Ngân hàng thế giới (WB) đưa
ra nhận định: Việt Nam chỉ có 2% dân số được học từ 13 năm trở lên, tụt hậu
khá xa so với các nước trong khu vực. Việt Nam xếp hạng chót trong khu vực
với tỷ lệ 10% số người trong độ tuổi 20 - 24 học đại học. Tỷ lệ này ở Trung
Quốc là 15%, Thái Lan là 41% và Hàn Quốc là 89%.
Sau hơn 30 năm tiến hành công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 60% lao
động cả nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ lệ số học sinh, số
trường các loại, số trường đại học, tỷ lệ tốt nghiệp đại học, tỷ lệ học vị tiến sĩ
trên triệu dân của nước ta đều cao hơn so với tất cả các nước có mức thu nhập
bình quân theo đầu người tương đương với Thái Lan. Nhưng chất lượng lại là
vấn đề đáng quan tâm.
Điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới
63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì
hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học,
trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều
dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp.
Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa
học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng
năm chỉ bằng khoảng 1/4 của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc
dù số người nhận bằng tiến sỹ hằng năm của ta thường nhiều hơn của Thái
Lan, có năm cao gần gấp đôi.

14



Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2005: nguồn
nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53/59 quốc gia được khảo
sát, song mất cân đối nghiêm trọng.
Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp
trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1,
4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó
của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân
tính theo đầu người của Trung Quốc khoảng gấp đôi của nước ta.
1.1.2. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên
thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục
tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh".
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh
tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã
hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người…), làm cho xã hội phát triển
lên một trạng thái mới về chất.
Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài
mới trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con
người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ
quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn
nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng.
Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển.
Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tiến
hành để đáp ứng nhu cầu đó. Ngược lại, để tiến hành thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải xác định rõ vai trò của việc
phát triển nguồn nhân lực.
15



1.1.2.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết
định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội.
Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác,
sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất
kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng
trong đó NNL được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, NNL với yếu tố
hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu
biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều
đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp
với NNL một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là NNL, là chủ
thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội
lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện
thiên nhiên không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh
và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện :
+ Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
+ Hai là, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
+ Ba là, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và
đông đảo.
+ Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Như đã nói ở trên, phát triển kinh tế xã hội phải dựa trên nhiều nguồn
lực, song nguồn lực con người mới tạo động lực cho sự phát triển. Trong lịch
sử kinh tế học, một số nhà kinh tế học tư sản trước Mác như Wiliam Petty,
Adam Smirth đều cho rằng một trong những yếu tố không thể thiếu trong quá
trình tái sản xuất là lao động. W. Petty đã đưa ra luận điểm nổi tiếng “ lao
động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải” – một quan điểm thường được coi


16


là chỉ đúng một nửa song lại rất có ý nghĩa khi khẳng định được lao động là
nguồn gốc tạo ra mọi giá trị.
Đến thời Mác, ông đặc biệt coi trọng lao động trong việc tạo ra giá trị
của hàng hóa. Ông viết : “Bất kỳ lao động nào, một mặt, cũng đều là sự chi
phí sức lao động của con người, hay lao động trừu tượng của con người, là lao
động tạo ra giá trị của hàng hóa. Mặt khác, bất kỳ lao động nào cũng là một
sự chi phí sức lao động của con người dưới một hình thái đặc biệt, có mục
đích, và chính với tính chất lao động cụ thể, có ích đó của nó mà lao động tạo
nên giá trị sử dụng”. Như vậy, lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Còn lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” Ăngghen khẳng định rằng
lao động đúng là như vậy, nhưng một mình lao động không cũng chưa thể sản
sinh ra mọi của cải vật chất. Lao động trong sự kết hợp với giới tự nhiên, cái
cung cấp những vật liệu cho lao động, mới tạo ra của cải vật chất.Vì thế, khi
nói nguồn nhân lực có vai trò quyết định không có nghĩa tách nó ra một cách
riêng biệt với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Ngược lại, khi nhấn
mạnh nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định thì cần hiểu điều đó có nghĩa là
đã đặt nguồn lực con người trên cơ sở, tiền đề các nguồn lực hiện có.
Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển là hiện đại cũng xác định 4 yếu tố tác
động tới tăng trưởng và phát triển kinh tế: lưc lượng lao động, vốn sản xuất,
đất đai và khoa học công nghệ.
Nếu ta gọi các biến số đầu vào là X, hàm số đầu ra là Y, thì sự tăng
trưởng có mối quan hệ hàm số sau: Y= f(xi)
Trong đó, xi là các yếu tố đầu vào cụ thể:
- L: Nguồn lao động
- T: Nguồn lực khoa học công nghệ

- R: Tài nguyên thiên nhiên
- K: Nguồn vốn

17


Như vậy, nguồn lao động là một trong những yếu tố đầu vào quyết định
tới quy mô tăng trưởng kinh tế.
Từ các nhà kinh tế tư sản cổ điển cho đến các nhà kinh tế học hiện đại
đều đánh giá cao vai trò của nguồn lao động đối với quy mô, tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, có thể thấy ở đây mối quan hệ hai chiều, nếu nguồn
nhân lực quyết định tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế thì ngược lại,
mức tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng là một trong những điều kiện cần
thiết và quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, buộc nguồn nhân
lực phải luôn tự hoàn thiện để bắt kịp với quá trình phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2.2. Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao
là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 1/1994)
đã đưa khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. "Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ của khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao". Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta được coi là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Muốn khắc phục nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế, chúng ta phải thực hiện con đường công nghiệp hóa,

hiện đại hóa rút ngắn trên cơ sở kết hợp linh hoạt và hợp lý những bước đi
vừa tuần tự, vừa nhảy vọt. Vì vậy, cần có những biện pháp hữu hiệu hơn để có
thể phát triển nhanh và hiệu quả cả về giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ,
tiếp cận nhanh với cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
từng bước hình thành nền kinh tế tri thức.

18


Đặc biệt, trong nền kinh tế tri thức, vai trò của nguồn nhân lực lại càng
được coi trọng. Để xây dựng nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
vào năm 2020, trước mắt là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
thì việc tiếp thu những tiến bộ mọi mặt của nhân loại là việc cần thiết. Và điều
đó phụ thuộc phần lớn vào trình độ của nguồn nhân lực. Trái với các nguồn
lực khác như tài nguyên thiên nhiên luôn ở dạng hữu hạn, yếu tố trí tuệ của
nguồn nhân lực được nhắc đến với tính vô tận, không bao giờ cạn kiệt. Bởi
vậy, con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận
kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu
cầu nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Đảng
ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
1.1.2.3. Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn
khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước nhằm phát triển bền vững
Lý luận và thực tiễn phát triển ở tất cả các nước trên thế giới đã cho
thấy nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Hayami và Godo (2005) cho rằng trong giai đoạn
đầu của quá trình phát triển, mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu là dựa vào

tích lũy vốn vật chất. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế
trong giai đoạn sau sẽ chủ yếu dựa trên cải tiến công nghệ và phát triển vốn
con người hay vốn nhân lực.
Trên thực tế, sự hồi phục nhanh chóng của Tây Âu cùng với Kế hoạch
Marshall thời hậu chiến, sự phát triển thần kỳ của nhiều nước ở khu vực Đông
Á bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, và tốc độ tăng trưởng nhanh
chóng của nhiều nước công nghiệp mới, các nước ASEAN và Trung Quốc
đều phần lớn nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Không chỉ có vai trò

19


quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nguồn nhân lực có chất lượng cao còn
có ý nghĩa trong việc giải quyết các vấn đề xã hội như bất bình đẳng, đói
nghèo, các vấn đề về môi trường, và sự tiến bộ về mọi mặt của xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khi mà sự cạnh tranh diễn ra ngày càng
gay gắt thì nguồn nhân lực đóng vai trò ngày càng quan trọng. Do vậy, phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, khái niệm chỉ lực lượng lao động có
học vấn, có trình độ chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích ứng nhanh
với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất (Nguyễn Trọng
Chuẩn, 2003), là một yếu tố then chốt nhằm phát triển kinh tế bền vững.
1.1.2.4. Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực
đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước
nhiều thách thức lớn.
So với trước đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự
phát triển của các doanh nghiệp mới nói riêng, nhu cầu về nguồn nhân lực
chất lượng cao của các ngành dịch vụ và công nghiệp như marketing, tài
chính, bảo hiểm, quản trị doanh nghiệp, công nghệ thông tin, điện, điện tử và

hóa chất ngày càng tăng lên.
Trong những năm vừa qua, do Việt Nam đẩy mạnh cải cách hành chính,
làn sóng đầu tư trong nước cũng như nước ngoài ngày càng tăng lên. Các
doanh nghiệp trong nước được thành lập mới ngày càng nhiều đã tạo ra một
lượng cầu nhân lực chất lượng cao ngày càng lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài
cũng thường ưu tiên tuyển lao động chất lượng cao ngay tại Việt Nam vì lao
động Việt Nam là người am hiểu thị trường, phong tục tập quán, có nhiều mối
quan hệ, và có mức lương thấp hơn so với thuê lao động từ nước khác. Vì vậy,
nguồn nhân lực chất lượng cao là một điều kiện hết sức thuận lợi để Việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế.

20


Ngược lại, khi hội nhập kinh tế quốc tế lại tạo điều kiện cho người lao
động được học tập và làm việc tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu hiện đại, có
cơ hội mở rộng hợp tác liên doanh với các cơ sở của nước ngoài, qua đó có
nhiều thuận lợi trong việc học tập, áp dụng kinh nghiệm, phương pháp nghiệp
vụ, kỹ năng chuyên môn, công tác đào tạo, nghiên cứu để có thể theo kịp
trình độ tiên tiến của các nước trên thế giới.
1.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những yêu cầu đối với phát
triển nguồn nhân lực
1.1.3.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa yêu cầu nguồn nhân lực phải
đảm bảo về thể lực và trí lực
CNH - HĐH gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương pháp sản
xuất công nghiệp, các thiết bị và công nghệ hiện đại, do đó đòi hỏi sức khỏe
và thể lực cường tráng của người lao động trên các khía cạnh:
+ Sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng những quá trình sản xuất liên tục,
kéo dài.
+ Có các thông số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị

công nghệ được sản xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế
giới.
+ Luôn luôn có sự tỉnh táo, sảng khoái tinh thần, những điều này lại
phụ thuộc chủ yếu vào trạng thái sức khỏe của người lao động. Kỹ thuật công
nghệ càng tinh vi, đòi hỏi sự chính xác và an toàn cao độ; mặt khác giá trị của
nhiều loại sản phẩm rất lớn, chỉ một sơ suất nhỏ trong động tác lao động có
thể gây tổn thất to lớn.
Mấu chốt để phát triển nguồn nhân lực nói chung trước mắt và lâu dài
là phải tính đến yếu tố chất lượng sinh đẻ và yếu tố bồi dưỡng sức dân. Không
thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sinh ra những đứa con còi cọc, ốm
yếu. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sức dân không được bồi
dưỡng. Vấn đề này liên quan đến hàng loạt các yếu tố khác như chính sách xã
hội, chính sách y tế, chính sách tiền lương, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng.
21


Các vấn đề này hiện vẫn chưa được giải quyết một cách cơ bản. Không thể
nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học còn thấp, khi
kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém, khi tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ
có từ 30 - 40%, và tỷ lệ 80% công chức, viên chức không biết sử dụng máy vi
tính, hơn 90% không biết sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ kém.
Chúng ta không thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
với những con người có học vấn thấp, trình độ tay nghề thấp. Trong thời đại
ngày nay “trí thức là sức mạnh, tri thức là sự giàu có”. Yêu cầu quan trọng
bậc nhất đối với nguồn nhân lực là yêu cầu về trí tuệ. Nói như thế không có
nghĩa là tách với các yêu cầu khác; nhưng chắc chắn rằng khi nhân loại bước
sang nền kinh tế tri thức thì những con người không có tri thức khó có thể xây
dựng và phát triển kinh tế. Tiềm năng về trí tuệ của nguồn nhân lực được biểu
hiện ở trình độ văn hóa, khả năng tiếp thu, tính sáng tạo…

Nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải có trình độ văn hóa cao. Nước ta là một nước đi lên từ nền
nôn nghiệp, nên tâm lý tiểu nông, sự trì trệ còn tồn tại. Đặc biệt là khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng nguồn
nhân lực lại càng được đề cao. Trong xã hội mà tư duy chất xám được sử
dụng như một công cụ lao động chính thì yêu cầu càng được đề cao hơn.
Ngày nay, kinh tế tri thức, đặc biệt là tri thức về khoa học công nghệ
được sử dụng một cách phổ biến. Chúng ta có thuận lợi là nước đi sau nên có
thể tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ của nhân loại để tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng để nắm bắt được những vốn
tri thức quý giá này, người tiếp thu phải trang bị đủ năng lực trí tuệ, khả năng
chủ động và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn cuộc sống. Nguồn nhân lực
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nguồn nhân
lực có trình độ chuyên môn nghề nghiệp cao, có kỹ năng, kỹ xảo, đầu óc tư
duy năng động, nhạy bén mới có thể làm chủ được tri thức, các phương thức
22


cải tiến trong sản xuất kinh doanh, biết phát minh và ứng dụng được khoa học
công nghệ mới, tạo được những chuyển biến tốt về năng suất lao động.
Để phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo đóng vai trò thiết yếu.
Giáo dục đào tạo làm giàu thếm vốn trí tuệ của nguồn nhân lực – một lợi thế
quyết định khả năng cạnh tranh giữa các quốc gia trong điều kiện hiện nay.
Khi mà nền kinh tế tri thức lan rộng trên toàn cầu. Một dân tộc mạnh chỉ khi
có nguồn nhân lực trí tuệ đủ sức giải các bài toán về mọi lĩnh vực do cuộc
sống đặt ra; và một dân tộc yếu khi nó không có nguồn trí tuệ hay gặp phải
nạn “chảy máu chất xám”. Giáo dục đào tạo không chỉ trang bị cho nguồn
nhân lực kiến thức, trình độ học vấn mà còn giúp hình thành nhân cách, văn
hóa, văn minh trong học tập và lao động; cung cấp nguồn nhân lực chất lượng
cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1.1.3.2. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa yêu cầu nguồn
nhân lực vừa có tài, vừa có đức.
Đức và tài là hai yêu cầu hàng đầu của người lao động xã hội chủ
nghĩa. Đức được coi là chuẩn mực, quy phạm của xã hội để có thể điều chỉnh
các mối quan hệ và hành vi của mỗi tập thể và các nhân. Đạo đức được coi là
thái độ chấp hành những chuẩn mực chung của cộng đồng. Hay có thể hiểu
đạo đức là thái độ chính trị cá nhân, lấy pháp luật và các quy phạm xã hội làm
chuẩn mực cho các hành vi của mình.
Với nước ta, đạo đức của nguồn nhân lực còn được thể hiện ở ý thức
tuân thủ những quy phạm nghề nghiệp, có lương tâm, trách nhiệm với công
việc mình đảm nhận. Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được
tiến hành trong nền kinh tế thị trường nên yêu cầu về đạo đức của nguồn nhân
lực càng được chú trọng hơn bao giờ hết. Đạo đức là chuẩn mực cho mỗi cá
nhân, tập thể điều chỉnh hành vi của mình. Nền kinh tế thị trường bên cạnh
những ưu việt nhất định vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: Với sự xâm nhập của
văn hóa nước ngoài, xuất hiện những hiện tượng không tốt về đạo đức là lối
sống như lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân – coi trọng lợi ích bản thân và
23


xem thường lợi ích tập thể, vì chạy theo đồng tiền mà sẵn sang làm hàng giả,
hàng kém chất lượng…Vì vậy, đạo đức phải trở thành một yêu cầu lớn để
thiết lập kỷ cương trong đời sống xã hội, trong phát triển nguồn nhân lực.
Bác Hồ từng dạy: con người nếu chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng, mà thiếu tri thức, kiến thức khoa học, tức có đức mà
không có tài, thì cũng chẳng khác gì ông Bụt ngồi trên toà sen, không làm
điều gì xấu nhưng cũng chẳng làm được việc gì có ích cho đời. Tri thức, trí
tuệ thực sự là yếu tố thiết yếu của mỗi con người, bởi vì, tất cả những gì thúc
đẩy con người hành động đều phải thông qua đầu óc của họ - tức là phải
thông qua trí tuệ. Sự yếu kém về trí tuệ sẽ là lực cản nguy hại nhất dẫn đến sự

thất bại trong hoạt động của con người.
1.1.3.3. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa yêu cầu nguồn
nhân lực phải có các phẩm chất tâm lý xã hội phát triển cao
CNH - HĐH đòi hỏi người lao động phải có phẩm chất tâm lý sau:
+ Tác phong công nghiệp
Với các nước phát triển, tuân thủ giờ giấc theo đúng luật định là một
trong những nguyên tắc cơ bản, tiên quyết để đưa doanh nghiệp đi đến thành
công, và nếu ở phương diện cá nhân thì đó là yếu tố đầu tiên để nhà tuyển
dụng chọn lựa. Không đảm bảo yếu tố này coi như tự loại mình ra khỏi vòng
xoáy của thời đại công nghiệp.Việt Nam đặt mục tiêu năm 2020 sẽ là một
nước công nghiệp, nhưng điều này đang bị coi nhẹ, thậm chí trong tiềm thức
ấu trĩ của nhiều người, đó đã là một căn bệnh trầm kha, vô hình trung tạo nên
“giờ cao su” rất không đáng có, nếu không nói rằng sẽ tạo nên một cái nhìn
phản cảm trong con mắt của bạn bè quốc tế.
Tác phong công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu để
định giá một con người, thông qua đó để biết năng lực của một cơ quan và
hơn bao giờ hết là để hiểu về con người và cả một đất nước.
+ Ý thức kỷ luật, tự giác cao
Nền sản xuất công nghiệp còn đòi hỏi ở người lao động hàng loạt năng
lực cần thiết như: có kỷ luật tự giác, biết tiết kiệm nguyên vật liệu và thời
24


gian, có tinh thần trách nhiệm trong việc bảo dưỡng thiết bị máy móc, phương
tiện sản xuất, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, lương
tâm nghề nghiệp, nghĩa là phải có văn hoá lao động công nghiệp. Một trong
những phẩm chất quan trọng nhất của văn hoá lao động công nghiệp là tinh
thần trách nhiệm cao đối với chất lượng sản phẩm.
+ Niềm say mê nghề nghiệp chuyên môn
Đội ngũ trí thức phải thực hiện có hiệu quả các chức năng: nghiên cứu,

thiết kế, tham mưu, sáng tác; thực hiện, thi hành, ứng dụng, phát triển; giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện; quản lý, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ đạo... Bộ
phận nhân tài có vai trò thực sự quan trọng trong đội ngũ lao động. Bộ phận
này là hạt nhân có chất lượng cao, có năng lực khai phá những con đường mới
mẻ trong nghiên cứu khoa học để đạt được những thành tựu mới, phục vụ
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lượng của đội ngũ này không
nhất thiết phải đông, nhưng thực sự là đội ngũ các nhà khoa học đầu đàn, tiêu
biểu cho tinh thần trí tuệ của dân tộc.
+ Tính sáng tạo, năng động trong công việc
Tính năng động được hiểu là khả năng thích nghi, đáp ứng công việc
trong môi trường văn hóa đa dân tộc, đa tôn giáo; khả năng di chuyển lao
động, không ngừng vươn lên trong công việc của người lao động.
Trong xu thế của nền kinh tế hiện đại ngày nay, trước những đòi hỏi
của công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa, nguồn nhân lực phải có khả
năng thích ứng nhanh trong từng điều kiện cụ thể. Tính nhạy bén của nguồn
nhân lực là một yêu cầu, họ phải có cách nhìn, cách nghĩ phù hợp với từng
hoàn cảnh, từng môi trường khác nhau. Không thể áp dụng một hình mẫu nào
đối với người lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá
trình này đòi hỏi con người năng động theo đúng nghĩa là ý chí không ngững
vươn cao trong mọi hoạt động, có khả năng hoạch định và vận dụng đường lối
chính xác, lựa chọn các giải pháp trong phát triển kinh tế.

25


×