Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Tiểu sử thánh vinh sơn Phạm Hiếu Liêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.42 KB, 5 trang )

Tiểu sử Thánh Vinh Sơn Liêm

Thánh Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm (tên khác: Vinh Sơn
Lê Quang Liêm, Vinh Sơn Hòa Bình, Vincente de la Paz hay Vicente Liem de la
Paz, 1732 – 1773) là một vị thánh tử đạo Việt Nam. Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm,
Sinh năm 1732 tại Trà Lũ, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 7
tháng 11 năm 1773 tại Ðồng Mơ dưới đời chúa Trịnh Sâm. Ngày 20.05.1906 Đức
Piô X suy tôn các ngài lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô
II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 7/11.
Vinh sơn Phạm Hiếu Liêm mở mắt chào đời năm 1732 tại Thôn Đông, làng Trà Lũ,
Phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Thân phụ cậu, ông Antôn Doãn, là một thân
hào trong thôn. Thân mẫu cậu, bà Maria Doãn, một người mẹ đạo đức, đã hết mình
với việc giáo dục con cái. Năm 12 tuổi, cậu Liêm vào tu trong nhà Đức Chúa Trời
ở Lục Thủy. Qua sáu năm học tập, cậu đã tỏ ra là người thông minh đạo đức, nên
được các cha dòng Đa Minh thời đó đang phụ trách giáo phận Đông Đàng Ngoài
để ý. Cha chính Espinnoza Huy đã chọn cậu vào số các thanh niên hưởng học bổng
của Tây Ban Nha, gởi đi du học Manila (Phi Luật Tân) tại trường Juan de Letran.


Sau ba năm học thành công xuất sắc, thầy Liêm xin gia nhập dòng Đa Minh và
lãnh tu phục ngày 09.09.1753. Năm sau, thầy tuyên khấn trọng thể cùng với ba tu
sĩ đồng hương và lấy biệt hiệu là Vinh Sơn Hòa Bình (Vincente de la Paz). Tiếp đó,
thầy Vinh Sơn học thêm bốn năm thần học và được thụ phong linh mục năm 1758.
Thụ phong linh mục rồi, Cha Liêm liền chuẩn bị trở về phục vụ quê hương. Ngày
03.10.1758, khi giã từ các giáo hữu và thân hữu để xuống tàu hồi hương, Cha
không thể giấu nổi niềm xúc cảm với bao lưu luyến những bạn bè quen thuộc trong
tám năm qua. Về đến Trung Linh ngày 20. 01.1759, cha đã không cầm nổi nước
mắt, vì vui mừng được gặp lại cha chính Huy ra đón tận bến đò, được tái ngộ cùng
thân quyến, đồng bào, xóm làng, và nhất là giáo hữu đang nôn nao đón chờ ngày
“vinh quy” của vị linh mục du học hải ngoại.
Về Việt Nam, trước hết Cha Vinh Sơn được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện


Trung Linh. Cha đã đem hết tài trí và nhiệt thành truyền đạt cho các chủng sinh
những kiến thức cha đã thu thập được. Nhưng nguyện vọng của linh mục Vinh Sơn
Hòa Bình lại là loan báo Tin Mừng bình an cho anh em. Và chẳng bao lâu, cha rời
chủng viện dấn thân vào cánh đồng truyền giáo. Cha lần lượt đảm nhiệm các xứ
Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Linh, Trung Lao, và từ khi cha Jacinto Gia
bị bắt, cha kiêm luôn cả vùng Lai Ổn.
Hoạt động tông đồ của cha không chỉ hạn hẹp trong các giáo xứ, mà còn mở rộng
đến các làng ngoại giáo, bất chấp những khó khăn nguy hiểm của thời cấm cách,
nhất là từ thời chúa Trịnh Sâm (1767 – 1782). Tại bất cứ nơi nào, Cha cũng luôn
nhiệt tình yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên ai cũng hết lòng thương mến. Cha
khích lệ mọi người thêm can đảm, Cha an ủi những người buồn sầu, và không nề
hà bất cứ điều gì vì lợi ích thiêng liêng của họ.
Dầu thành công trong công tác, Cha Liêm không bao giờ tự mãn với chính mình.
Trong các thư của Cha, ta còn đọc được : “Xin Đức cha và Cha bề trên cầu nguyện
cùng Chúa cho con, khi dâng lễ và trong kinh nguyện, để mỗi ngày con được hòan


thiện hơn, vui lòng đón nhận những khốn khó theo ý Chúa”. Một ông Hoàng, em
thứ sáu của chúa Trịnh Doanh trước khi từ trần đã lãnh bí tích Thánh tẩy nhờ công
của các vị thừa sai, Cha Liêm đón nhận tin đó như niềm vui của Giáo Hội Việt
Nam, và loan báo cho bề trên Giám tỉnh ở Manila.
Năm 1773, cha Vinh Sơn Liêm đang đi giảng cho họ Lương Đống, chuẩn bị mừng
lễ Đức Mẹ Mân Côi. Các quan nghe tin, liền cho ông Điều Cam đem quân vây bắt
cha tại nhà ông Nhiêu Nhuệ ngày 02.10. Sau một trận đòn chí tử, họ trói cha và hai
cậu giúp lễ Matthêu Vũ, Giuse Bích, rồi đem nộp cho Chánh tổng Xích Bích. Viên
Chánh tổng giam cha 12 ngày không thấy các tín hữu đưa tiền chuộc, sau đó mới
chịu giải lên Phố Hiến nộp cho quan trấn. Ở đây cha Liêm gặp một linh mục cùng
dòng, cha Castaneda Gia đã bị giam ở đó. Hai anh em sung sướng cùng nhau chia
sẻ ngọt bùi trong cảnh tù tội.
Ngày 20.10 quan trấn bắt hai Cha mang chiếc gông có ghi bốn chữ “Hoa Lang Đạo

Sư” (tức giáo sĩ Công giáo), rồi trao cho quan phủ Thần Khê giải hai Cha và hai
cậu giúp lễ về kinh đô Thăng Long, ra mắt chúa Trịnh Sâm. Chính tại đây đã diễn
ra Hộ Đồng Tứ Giáo.
Có một quan lớn là chú của chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Mẹ của quan lớn, bà
Thượng Trâm, quê xứ Hải Dương, vốn có đạo. Nhiều lần bà khuyên con tòng giáo.
Quan lớn liền nảy ra sáng kiến triệu tập đại diện bốn tôn giáo để trình bày về đạo
của mình. quan nói: “Lòng ta chuộng sự thật muốn biết đạo nào là đạo chính để thờ
phượng”. Cuộc trao đổi kéo dài ba ngày, mỗi ngày một vấn đề về nguồn gốc con
người, mục đích cuộc đời và đời sau của mỗi người. Cha Liêm và Cha Gia đại diện
đạo Thiên Chúa đã khéo léo trình bày đến nỗi quan lớn phải trầm trồ khen ngợi.
Nhưng vì biết Phủ Chúa vẫn cấm đạo, nên quan vẫn ngần ngại chưa theo.
Sau đó ít bữa, hai cha có cơ hội để nói về đạo với Thái Tôn, mẹ của Chúa Trịnh
Sâm. Bà vì tò mò, đã cho vời các ngài vào. Không nói rõ nội dung buổi nói chuyện
ra sao, nhưng cuối cùng Thái Tôn hỏi: “Nếu chỉ có đạo các thầy là đạo thật thì


những người không theo đạo ấy, chết rồi đi đâu?”. Cha Liêm đáp: “Bẩm bà, sa hỏa
ngục ạ”.(5) Nghe thế, Thái Tôn Dương Hậu đùng đùng nổi giận, bà dùng uy tín ép
con là Tĩnh Đô Vương phải xử tử hai vị linh mục. Do đó, ngày 04.11, Tĩnh Đô
Vương đã lên án trảm đã lên án trảm quyết hai Cha, hai cậu giúp lễ bị kết án lưu
đầy, đến khi nộp 100 quan tiền chuộc thì được trả tự do.
Ngày 07.11, hai Cha bị đem đi xử, dân chúng đi xem rất đông. Khi đoàn người
dừng trước hoàng cung, một viên quan đọc bản án. Theo phong tục thời đó, lúc này
vua có thể ân xá cho tội nhân. Nột viên quan khác lớn tiếng nói : “Hoa Lang Đạo
đã bị nghiêm cấm, nhưng cho đến nay, chưa người dân Việt nào bị xử tử vì đạo này
(6) nên vua đại xá cho tên Liêm”. Nghe thế cha Liêm vội lên tiếng thưa rằng:
“Cha Gia bị án trảm quyết vì lẽ gì thì cũng phải lên án trảm quyết cho tôi vì lẽ đó.
Cha Gia là đạo trưởng, tôi cũng là đạo trưởng. Nếu luật nước không kết án tôi thì
cũng không được kết án cha Gia. Vì tôi là công dân nước Việt, lẽ ra tôi phải giữ
luật nước hơn ngài. Nhưng nếu giết cha Gia, còn tôi lại tha, án của vua không công

bằng. Yêu cầu tha thì tha cả hai, giết thì giết cả hai. Thế mới là án công bình”.
Những lời lẽ minh bạch của Cha Liêm có thể là phát xuất từ tình nghĩa huynh đệ,
không muốn xa lìa người anh em, cũng có thể là lời xin tha cho linh mục bạn, vì
nhiều người chứng kiến cảm động và muốn cả hai Cha được tha. Nhưng lời lẽ đó
cũng có thể do lòng ao ước muốn dâng hiến chính mạng sống mình để làm chứng
cho sự thật.
Dầu sao thì bản án vẫn không thay đổi. Hai vị anh hùng đức tin đã vui mừng đọc
kinh Tin Kính và hát kinh Lạy Nữ Vương trên đường ra pháp trường Đông Mơ.
Những nhát gươm định mệnh, chứng tá tuyệt hảo cho Đức Kitô. Thi hài các ngài
được rước về an táng tại Trung Linh.
Giáo hoàng Piô X suy tôn chân phước cho linh mục Liêm vào ngày 20 tháng 5 năm
1906. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ông lên bậc
hiển thánh.


Riêng thánh Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm, nhiều trường học đã nhận ngài làm Bổn
Mạng. Thánh Phạm Hiếu Liêm là đồng bổn mạng của trường Colegio de San Juan
de Letran mà ông từng học, đây là trường đại học cổ nhất Philippines. Tên của ông
đã từng được đặt cho một con đường tại phường 12, quận Tân Bình, Sài Gòn, (nay
là đường Hà Bá Tường). Thánh nhân quả là ánh vinh quang của dân tộc Việt nơi



×