Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Thực hiện thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.12 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI TÀI SẢN CÔNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ
NƢỚC............................................................................................................12
1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nƣớc và tài sản công trong các doanh
nghiệp nhà nƣớc...........................................................................................12
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước........................................................12
1.1.2. Khái niệm tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước....................17
1.2. Những vấn đề chung về thể chế quản lý nhà nƣớc đối với tài sản
công trong các doanh nghiệp nhà nƣớc......................................................20
1.2.1. Khái niệm thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các.....20
doanh nghiệp nhà nước.................................................................................20
1.2.2. Các yếu tố cấu thành thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công....27
trong các doanh nghiệp nhà nước................................................................27
1.3. Thể chể quản lý nhà nƣớc đối với tài sản công trong các doanh
nghiệp nhà nƣớc ở một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo
đối với Việt Nam............................................................................................37
1.3.1. Kinh nghiệp một số quốc gia trên thế giới............................................37
1.3.2. Giá trị tham khảo đối với Việt Nam......................................................42
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI TÀI SẢN CÔNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC – THỰC TIỄN BỘ THÔNG TIN VÀ
TRUYỀN THÔNG........................................................................................44

1


2.1. Khái quát chung về Bộ Thông tin và Truyền thông và doanh nghiệp
nhà nƣớc tại Bộ Thông tin và Truyền thông..............................................44
2.1.1. Khái quát chung về Bộ Thông tin và Truyền thông..............................44


2.1.2. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước và tài sản công trong các doanh. . .46
nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông..................................46
2.2. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nƣớc và hệ thống văn bản pháp
luật quản lý nhà nƣớc đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà
nƣớc tại Bộ Thông tin và Truyền thông......................................................56
2.2.1. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các....56
doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông.......................56
2.2.2. Thực trạng hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với tài
sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền
thông................................................................................................................61
2.3. Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nƣớc đối với tài sản công
trong các doanh nghiệp nhà nƣớc – từ thực tiễn Bộ Thông tin và
Truyền thông..................................................................................................78
2.3.1. Giải pháp chung....................................................................................78
2.3.2. Giải pháp cụ thể đối với Bộ Thông tin và Truyền thông.......................90
KẾT LUẬN....................................................................................................93

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập mạnh mẽ, sâu
rộng vào nền kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp Việt Nam hiện đang phải đối mặt,
cạnh tranh bình đẳng với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia hùng mạnh trên thế
giới, đặc biệt là sau khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và bắt đầu
với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đây vừa là cơ hội, vừa
là thách thức đối với các doanh nghiệp của Việt Nam. Trong hệ thống các
doanh nghiệp, hoạt động của DNNN ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy,
mô hình này đã đạt được những kết quả nhất định, là công cụ điều tiết vĩ mô

hiệu quả của Nhà nước. Về cơ bản, các DNNN đã nắm giữ những ngành, lĩnh
vực then chốt trong nền kinh tế, quy mô vốn liên tục tăng, khẳng định vai trò
cụ thể của mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Các
DNNN không chỉ mang lại lợi ích kinh tế lớn cho đất nước; góp phần quan
trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đóng góp không nhỏ vào nguồn thuế, tạo nguồn
thu ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, tạo
nên sức mạnh cho nền kinh tế... mà còn góp phần giải quyết việc làm cho
người lao động, nâng cao mức sống cho nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội,
quốc phòng, an ninh...
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các DNNN ở Việt Nam có không ít
tiêu cực, làm dấy lên hoài nghi về vai trò thực tế của nó, không chỉ về hiệu
quả kinh tế mà các tập đoàn kinh tế nhà nước gặp phải không ít khó khăn,
thách thức và nhiều vấn đề nảy sinh như:

3


Một là, mục tiêu, hiệu quả hoạt động của các DNNN chưa tương xứng với
nguồn lực nhà nước đầu tư. Nhiều tập đoàn kinh tế thay vì phải tập trung vào
ngành nghề chính, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế và chính trị trọng yếu của
kinh tế nhà nước, lại mở rộng quy mô đầu tư ngoài ngành trong khi thực tế nă
lực tài chính lại hạn chế. Chẳng hạn, một số tập đoàn thiếu vốn cho ngành
chính nhưng vẫn mở rộng sang các ngành nghề rủi ro khác như tài chính,
ngân hàng, bất động sản, từ đó, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả
kinh tế - xã hội của quốc gia.
Hai là, công tác giám sát, kiểm soát hoạt động các DNNN còn nhiều
hạn chế dẫn đến không phát hiện kịp thời để có biện pháp ngăn chặn, giảm
thiểu tổn thất trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt là kiểm
soát việc quản lý sử dụng tài sản công trong các DNNN hiện nay thiếu những

thiết chế hữu hiệu và hành lang pháp lý điều chỉnh một cách toàn diện, kịp
thời. Sự tăng trưởng của nền kinh tế đòi hỏi phải huy động tối đa mọi nguồn
lực, trong đó tài sản công được coi là một nguồn lực quan trọng và cần thiết,
nhất là trong điều kiện đất nước ta đang tập trung phát triển nền kinh tế nhanh
và bền vững. Do vậy nếu không đặt vấn đề quản lý tài sản công một cách có
hiệu quả thì cũng có nghĩa chúng ta đang sử dụng nguồn lực to lớn của quốc
gia một cách lãng phí và cũng là khe hở cho nạn tham nhũng, biển thủ tài sản
công... Trong thời kỳ bao cấp, công tác quản lý tài sản công thiếu chặt chẽ, đất
đai, nhà xưởng, tài sản còn bị sử dụng lãng phí, thất thoát… đã làm giảm nội
lực của nền kinh tế. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế và xu thế hội nhập
đòi hỏi phải thay đổi cơ chế chính sách về quản lý tài sản công, đặc biệt là
quản lý tài sản trong các doanh nghiệp nhà nước.
Chính vì lý do trên việc nghiên cứu quản lý tài sản công, đặc biệt là xây
dựng thể chế để hoàn thiện vấn đề quản lý tài sản trong các DNNN là một vấn

4


đề cấp thiết dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài:
“Thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà
nước – thực tiễn tại Bộ Thông tin và Truyền thông”.

5


2. Tình hình nghiên cứu
Thể chế quản lý nhà nước và thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản
công trong các doanh nghiệp nhà nước là vấn đề được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu, nhiều nhà quản lý. Có thể kể một số công trình nghiên cứu có
những liên quan nhất định đến nội dung của đề tài như sau:

Nhóm công trình nghiên cứu về DNNN và tài sản công trong các
DNNN:
Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới DNNN ,
Nxb Chính trị Quốc gia. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung sau: Quan
niệm và quá trình hình thành DNNN ở Việt Nam; Quá trình đổi mới và thực
trạng DNNN ở nước ta; Mục tiêu, quan điểm và phương hướng tiếp tục đổi
mới DNNN.
Phan Đức Hiếu (2003), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW, Cải
cách doanh nghiệp nhà nước, Nxb Tài chính. Sách tập trung nghiên cứu các
mô hình đổi mới hoạt động của DNNN như sắp xếp lại, cổ phần hóa
DNNN;Chuyển DNNN thành CTCP, Công ty TNHH một thành viên;Giao,
bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước.
PGS.TS Nguyễn Văn Thạ (2004), Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia. Cuốn sách đề cập đến lý luận và thực tiễn
trong việc nhận thức vấn đề sở hữu ở Việt Nam, thực trạng sở hữu doanh
nghiệp nhà nước và đất đai ở Việt Nam.
PGS.TS Lê Hồng Hạnh chủ biên (2004), Cổ phần hóa DNNN- những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia ấn hành. Trong cuốn sách
này, tác giả đã đề cập đến các khía cạnh đa dạng của DNNN như: DNNN ở
các quốc gia và xu thế cải cách DNNN; Những vấn đề lý luận và thực tiễn về


DNNN ở Việt Nam; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CPH DNNN và
hoàn thiện nền tảng pháp lý cho CPH DNNN.
Đề tài nghiên cứu khoa học của TS. Trang Thị Tuyết tại Học viện
Hành chính Quốc gia: Một số giải pháp hoàn thiện QLNN đối với doanh
nghiệp ở Việt Nam (2004), đã làm rõ cơ sở lý luận về QLNN đối với doanh
nghiệp. Đề tài trình bày chi tiết về thực trạng QLNN đối với DNNN, nêu rõ
những tồn tại, khó khăn và đưa ra nhiều giải pháp hoàn thiện QLNN đối với
DNNN.

Ths. Nguyễn Văn Tuấn, Quản lý tài sản công ở nước ta hiện nay:
thực trạng và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng
7/2016.
Nhóm những công trình nghiên cứu liên quan đến thể chế và thể chế
quản lý nhà nước ở các lĩnh vực khác nhau:
-

Giáo trình “ Hành chính công” của Học viện Hành chính , (2012) Nhà

xuất bản Giáo dục. Chương 3 của Giáo trình trình bày những vấn đề lý luận
cơ bản nhất về thể chế hành chính nhà nước
-

Một số luận án tiến sĩ cũng có đề cập đến vấn đề này như Luận án tiến sĩ

quản lý công “Thể chế quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại học ở Việt
Nam hiện nay” của Lê Như Phong, năm 2017; Luận án kinh tế: “Hoàn thiện
thể chế quản lý công chức ở Việt Nam trong điều kiện phát triển và hội nhập
quốc tế” của Trần Anh Tuấn, Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2007 và Luận án
quản lý hành chính công của Bùi Thị Ngọc Hiền: “ Nâng cao năng lực thể chế
hành chính nhà nước để thích ứng với kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập
quốc tế ở nước ta hiện nay” ( 2014).
Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình có nghiên cứu về vấn đề này
như: “Xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường”, Người dịch: Vũ Hoàng Linh,


Ngân hàng Thế giới. Báo cáo phát triển thế giới 2002, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2003; “20 năm đổi mới và sự hình thành thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN", Nguyễn Cúc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005; “Vấn đề điều chỉnh chức năng và thể chế của nhà nước dưới tác động

của toàn cầu hóa”, Phạm Việt Thái, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008. TS.
Nguyễn Sỹ Dũng với bài “Năng lực thể chế”, Báo Người Đại biểu nhân dân
số tháng 01 năm 2006; PGS.TS Đặng Văn Thanh với bài “Nâng cao năng lực
thể chế trong phát triển kinh tế xã hội” đăng trên phần Nghiên cứu-lý luận,
Website Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử ngày 02 tháng 11 năm 2010…
Nội dung chủ yếu nghiên cứu thể chế với tư cách hệ thống văn bản pháp luật
do Nhà nước ban hành điều chỉnh quan hệ kinh tế - xã hội.
Những công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp về mặt lý
luận và thực tiễn đối với đề tài. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đến nay chưa có
đề tài nào đi sâu nghiên cứu về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công
trong các doanh nghiệp nhà nước. Do đó đề tài: “Thể chế quản lý nhà nước
đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước - từ thực tiễn Bộ
Thông tin và Truyền thông” là một đề tài không trùng lặp, mang tính lý luận
và thực tiễn cao, đòi hỏi cần được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy
đủ hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu đề tài đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện
thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà
nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên đây, đề tài có nhiệm vụ:


-

Làm rõ những vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm tài sản công

trong các DNNN; khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố cấu thành của thể
chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước;

-

Phân tích, đánh giá thực trạng thể chế quản lý nhà nước đối với tài

sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông
để chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thực trạng.
-

Đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện thể chế quản lý nhà

nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin
và Truyền thông hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thể chế quản lý nhà nước đối với tài
sản công trong các doanh nghiệp nhà nước từ thực tiễn Bộ Thông tin và
Truyền thông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi về nội dung

Đề tài nghiên cứu thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong
các doanh nghiệp nhà nước dưới hai góc độ: hệ thống văn bản pháp luật điều
chỉnh và hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
DNNN.
thông.

Phạm vi về địa bàn nghiên cứu: Bộ Thông tin và Truyền


-

Thời gian nghiên cứu trong đề tài: được xác định từ năm

2012 đến nay; trong đó có một số số liệu về tình hình sản xuất kinh
doanh được lấy từ 2012 đến 2015 ( những số liệu đã có báo cáo kiểm
toán).


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh và quán triệt các Nghị
quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII
về hoàn thiện kinh tế thị trường và định hướng phát triển đối với các DNNN.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể được sử dụng trong đề tài
như sau:
-

Phương pháp phân tích tài liệu: phương pháp này được sử dụng để phân

tích cả tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp. Tài liệu sơ cấp bao gồm các văn bản
pháp luật và Văn kiện của Đảng có liên quan, các số liệu thống kê chính thức
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tài liệu thứ cấp bao gồm các bài báo,
tạp chí, kết luận phân tích đã được các tác giả khác thực hiện. Phương pháp
này được sử dụng đồng thời trong các chương của luận văn.
-

Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để tổng hợp các

số liệu, tri thức có được từ hoạt động phân tích tài liệu, phỏng vấn, hỏi chuyên

gia. Việc tổng hợp nhằm mục đích đưa ra những luận giải, nhận xét và đề xuất
của chính tác giả luận án. Phương pháp này được sử dụng các chương của
luận văn.
-

Phương pháp so sánh: phương pháp này được áp dụng để nghiên cứu kinh

nghiệm nước ngoài, qua đó rút ra bài học và lựa chọn những hạt nhân hợp lý,
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh để áp dụng đối với Việt Nam. Phương pháp
này chủ yếu sử dụng tập trung ở chương 1 của luận văn.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
bổ trợ khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp, phương pháp
diễn dịch… để cung cấp thêm các luận cứ khoa học và thực tiễn triển khai đề
tài.


6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có những đóng góp trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn mới cơ bản như sau:
-

Trên cơ sở các luận điểm khoa học, luận văn đã xây dựng khái niệm thể

chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước;
chỉ ra đặc điểm, vai trò và các yếu tố thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản
công trong các doanh nghiệp nhà nước.
-

Luận văn đánh giá khách quan và chỉ ra những thành tựu, tập trung làm rõ


những hạn chế, bất cập của thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công
trong các doanh nghiệp nhà nước. Từ những hạn chế, bất cập của thể chế quản
lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước hiện hành
tại Bộ Thông tin và Truyền thông, luận văn đã chỉ ra và phân tích kỹ các
nguyên nhân để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
-

Đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước

đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và
Truyền thông.
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung những
vấn đề lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nước, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc nghiên cứu
nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản
công trong các doanh nghiệp nhà nước nói chung và thể chế quản lý nhà nước
đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và
Truyền thông nói riêng.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho học tập và nghiên cứu, cho các cơ quan quản lý nhà nước,
cho các tổ chức và cá nhân.


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành 2
chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài
sản công trong các doanh nghiệp nhà nước .
Chương 2. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước
đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và

Truyền thông.
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI TÀI SẢN CÔNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nƣớc và tài sản công trong các doanh
nghiệp nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Kể từ khi đất nước thống nhất năm 1975 đến nay (và Miền Bắc xã hội
chủ nghĩa trước đó), DNNN luôn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ở Việt
Nam. Trong từng giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau, quan điểm pháp lý về
DNNN cũng có sự thay đổi tương thích.
Ngày 20/04/1995 Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật DNNN năm
1995 để quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của nhà nước đầu
tư trong các DNNN, mà trước đó mới chỉ được điều chỉnh bởi các Nghị định
và hướng dẫn của Chính phủ. Theo đó, tại Điều 1 Luật DNNN 1995 quan
niệm: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.Doanh nghiệp
nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu


trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có
trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”.Các DNNN được tổ chức theo mô hình
quản lý riêng, không giống như mô hình quản lý của các doanh nghiệp tư
nhân.
Ngày 26/11/2003, Quốc hội đã thông qua Luật DNNN để thay thế cho
Luật DNNN năm 1995. Theo đó: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới
hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH” (Điều 1,
Chương

I). Khái niệm này vẫn thể hiện quan điểm Nhà nước đề cao sở hữu nhà nước
đối với các DNNN (Nhà nước có vốn góp chi phối 51% trở lên vẫn là
DNNN).Về cơ bản, Luật DNNN năm 2003 đã quy định 3 mô hình quản lý của
các DNNN bao gồm: (1) Công ty nhà nước, (2) Công ty TNHH nhà nước, và
(3) công ty cổ phần nhà nước; trong đó, 2 mô hình sau là gần tương đồng với
mô hình quản lý của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tư nhân được quy định
trong Luật Doanh nghiệp năm 1999.
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI, Quốc hội đã chính thức thông qua
Luật Doanh nghiệp 2005 hướng đến việc hợp nhất các quy định tản mát của
Nhà nước quy định về nhiều thành phần doanh nghiệp khác nhau gồm cả
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tư nhân và DNNN, tạo động lực lớn cho Việt
Nam trong việc thể chế hóa các nguyên tắc cơ bản của Tổ chức Thương mại
thế giới WTO như các nguyên tắc bảo đảm đầu tư, kinh doanh, đối xử quốc
gia, công khai, minh bạch...tạo ra sân chơi bình đẳng và môi trường pháp lý
trong sạch, lành mạnh. Theo quy định Luật Doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp
nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có


cổ phần, vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ti Nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.Doanh nghiêp nhà nước là
doanh nghiệp một chủ trong trường hợp nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
(tức sở hữu 100%). Doanh nghiệp nhà nước nhiều chủ sở hữu trong trường
hợp có cổ phần, vốn góp chi phối có tỉ lệ trên 50% và dưới 100%.
Kể từ 1-7-2015, theo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi): “Doanh nghiệp nhà
nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” (Khoản 8
Điều 4).
Như vậy, các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
mới được xem là doanh nghiệp nhà nước, thay vì chỉ 51% như quy định Luật
Doanh nghiệp 2005. Sự thay đổi này được xem là sự cải cách về quan điểm
để dẫn đến thay đổi về vốn và quản trị. Với hướng tiếp cận “cởi trói” cho

doanh nghiệp và tuân theo các cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường là
hạn chế sự can thiệp của nhà nước, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định
chỉ những doanh nghiệp nào do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thì mới
được coi là DNNN, tức là hạn chế số lượng DNNN và mở rộng thành phần
doanh nghiệp không bị ràng buộc bởi “cơ chế Nhà nước”. Với quy định này
các công ty lớn hoạt động trong lĩnh vực then chốt như dầu khí, vận tải hàng
không, hay các ngân hàng có sở hữu của Nhà nước thấp hơn 100% vốn điều
lệ đều không còn là DNNN. Các doanh nghiệp này ngoài việc tháo bỏ cái mác
DNNN, cải tổ cơ chế quản lý điều hành, quản trị rủi ro thì hoàn toàn có thể
cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác mà không có sự
khác biệt nào.
Và theo Quyết định 58/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
tiêu chí phân loại doanh nghiệp có vốn nhà nước và Danh mục doanh nghiệp
nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016-2020, những doanh nghiệp do nhà


nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, hoạt động trong các ngành, lĩnh vực: Đo đạc
bản đồ phục vụ quốc phòng, an ninh; Sản xuất, kinh doanh vật liệu nổ công
nghiệp; Truyền tải, điều độ hệ thống điện quốc gia và quản lý lưới điện phân
phối; thủy điện đa mục tiêu, điện hạt nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về
kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh; Quản lý hệ thống kết cấu hạ
tầng đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị do Nhà nước đầu tư; điều hành giao
thông vận tải đường sắt quốc gia. Ngoài ra, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
dịch vụ không lưu, dịch vụ thông báo tin tức hàng không, dịch vụ tìm kiếm,
cứu nạn; Bảo đảm hàng hải (không bao gồm nạo vét, duy tu luồng hàng hải
công cộng); Bưu chính công ích; Kinh doanh sổ xố; Xuất bản (không bao
gồm lĩnh vực in và phát hành xuất bản phẩm); In, đúc tiền, sản xuất vàng
miếng và các vật phẩm lưu niệm bằng vàng; Tín dụng chính sách phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và tổ chức tín
dụng cũng thuộc nhóm các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều

lệ.
Từ quan niệm trên có thể xem xét một số đặc điểm của doanh nghiệp
nhà nước như sau:
-

Chủ đầu tư: là Nhà nước.

-

Sở hữu vốn: Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (100%).

-

Hình thức tồn tại: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty

trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: công ty mẹ của các tập đoàn
kinh tế; công ty mẹ của tổng công ty nhà nước; công ty mẹ trong mô hình
công ty mẹ - công ty con; công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên độc
lập.


-

Mô hình quản lý: DNNN được tổ chức chức dưới hình thức công ty

TNHH theo một trong hai mô hình quản lý bao gồm: (1) Chủ tịch công ty,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên hoặc (2) Hội đồng thành
viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.
-


Trách nhiệm tài sản: Nhà nước chịu trách nhiệm về các khoản nợ và

nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
-

Mục đích hoạt động: thực hiện mục đích kinh doanh hoặc hoạt động công

ích. Ứng với hai mục đích trên là có hai loại DNNN khác nhau.
DNNN hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
DNNN hoạt động công ích là doanh nghiệp hoạt động sản xuất, cung
ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng an ninh.
Vai trò của các DNNN
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam các DNNN đóng vai trò quan trọng sau:
Một, DNNN là công cụ hữu hiệu điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo nên sức
mạnh kinh tế quốc gia.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, các DNNN nắm giữ các lĩnh vực,
ngành nghề quan trọng, giữ vai trò trụ cột của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Bên
cạnh đó, DNNN còn là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của kinh tế quốc dân.
Đồng thời DNNN còn là trụ cột kinh tế, góp phần giải quyết việc làm cho
người lao động, nâng cao mức sống cho nhân dân, góp phần giải quyết vấn đề
an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh...


Hai, DNNN thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội mà Nhà nước
giao
Do có nhiều lĩnh vực, ngành nghề không hấp dẫn các nhà đầu tư vì ít

lợi nhuận, lâu thu hồi vốn nên các doanh nghiệp tư nhân không muốn tham
gia sản xuất, kinh doanh hoặc việc kinh doanh lệ thuộc rất lớn vào điều kiện
thiên nhiên và kết cấu hạ tầng nên Nhà nước thành lập và giao cho các DNNN
nhiệm vụ tiến hành các hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu chính trị
- xã hội của Nhà nước. Thực tế ở nước ta cho thấy, DNNN chính là lực lượng
quan trọng của Nhà nước đảm nhận sản xuất, kinh doanh nhiều mặt hàng thiết
yếu nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân, góp phần quan trọng trong việc bảo
đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc và khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái...
Ba, DNNN là tổ chức kinh doanh, mang lại lợi nhuận thích đáng cho
Nhà nước.
Các DNNN góp phần mang lại lợi ích kinh tế lớn cho đất nước về các
mặt như: góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước,
đóng góp vào nguồn thuế, tạo nguồn thu ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân
sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế góp phần
đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH đất nước...
1.1.2. Khái niệm tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước
Để làm rõ khái niệm tài sản công trong các DNNN, thiết nghĩ cần giải
nghĩa thuật ngữ: “tài sản công”. Theo Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu



thống

nhất


quản




.”
quy định về tài sản công theo quy định tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013:“đất
đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng
trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý
là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý”.
Bên cạnh thuật ngữ “tài sản công”, trong hệ thống văn bản pháp luật
hiện hành còn sử dụng một thuật ngữ là “tài sản nhà nước”. Luật Quản lý, sử
dụng tài sản nhà nước 2008 tại Điều 1 quy định: “Tài sản nhà nước bao gồm
trụ sở làm việc và tài sản khác gắn liền với đất; quyền sử dụng đất đối với đất
dùng để xây dựng trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan, tổ
chức, đơn vị; máy móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc và các tài
sản khác do pháp luật quy định”.
Theo Điều 3 Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí 2013 định nghĩa:
“Tài sản nhà nước là tài sản hình thành từ ngân sách nhà nước hoặc do pháp
luật quy định thuộc sở hữu, quản lý của Nhà nước, bao gồm: Trụ sở làm việc,
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; máy móc, phương tiện vận tải,
trang thiết bị làm việc; tài sản từ nguồn viện trợ, tài trợ, đóng góp của tổ
chức, cá nhân trong nước và ngoài nước cho Nhà nước và các tài sản khác do
pháp luật quy định”.
Từ những quy định pháp luật trên, có quan điểm cho rằng: “Tài sản
công bao gồm cả tài sản nhà nước (tài sản do nhà nước đầu tư và quản lý) và
tài nguyên quốc gia” [14; tr.48]. Rõ ràng, sử dụng thuật ngữ tài sản công thì
nội hàm rộng và bao trùm hơn thuật ngữ “tài sản nhà nước”.



Bởi thuật ngữ “tài sản nhà nước” được sử dụng trong Luật Quản lý và
sử dụng tài sản nhà nước và Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí đều có
các quy đinh mở: “.. và các tài sản khác do pháp luật quy định”. Vì thế kể từ
Hiến pháp 2013, thuật ngữ “tài sản công” chính thức được sử dụng trong Hiến
pháp. Phạm vi và nội hàm của khái niệm về tài sản công tại các văn bản này
tương đồng và thay thế cho khái niệm tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước
quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005.
Như vậy, tài sản công cũng được hiểu là những tài sản thuộc sở hữu của
Nhà nước. Nói rộng ra chúng thuộc sở hữu của toàn dân. TSC là tài sản vật
chất, của cải của đất nước, của nhân dân, phản ánh sức mạnh kinh tế của một
quốc gia. TSC cũng là tiền đề, là yếu tố vật chất, là nguồn lực quan trọng để
phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, ổn định và nâng cao
đời sống nhân dân. Tài sản công có giá trị rất lớn và có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong quá trình phát triển của các quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Tài sản công là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng
kinh tế chung, để làm cho dân giàu, nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân
dân”.Nguồn gốc hình thành tài sản công chủ yếu từ ngân sách nhà nước và tài
nguyên quốc gia. Tài sản công bao gồm: Tài sản quốc gia do Chính phủ sở
hữu, tài sản do các cấp địa phương quản lý, tài sản nhà nước do doanh nghiệp
nhà nước quản lý, tài sản do các cơ quan hành chính sự nghiệp quản lý, tài sản
do các dự án viện trợ vay nợ hình thành, tài sản nhà nước trong các tổ chức
chính trị - xã hội... Hiện nay nước ta chưa có số liệu thống kê nào xác định
được toàn bộ giá trị cũng như số lượng tài sản công trên toàn quốc để quản lý
và theo dõi.
Trong phạm vi luận văn đề cập đến TSC trong các DNNN. Từ sự phân
tích trên có thể đi đến khái niệm tài sản công trong các DNNN là các tài sản


thuộc sở hữu Nhà nước được giao cho các DNNN quản lý và sử dụng vào

mục đích kinh doanh và phục vụ công ích xã hội. Cụ thể chia thành hai nhóm:
- Tài sản công đã được tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Hiện
nay, việc quản lý, sử dụng được thực hiện theo quy định của Luật Quản lý, sử
dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014.
Tại Điều 3, Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 quy định: “Vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp bao gồm vốn từ ngân sách Nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ
ngân sách Nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ
sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp”.
- Tài sản công do Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, không tính
thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp như: đất đai, tài nguyên thiên
nhiên, tài sản kết cấu hạ tầng, tài sản dự án…
Như vậy, các tài sản công do Nhà nước giao cho DNNN quản lý, sử
dụng rất đa dạng. Trong phạm vi luận văn tập trung nghiên cứu hai loại tài sản
có giá trị lớn, đó là: vốn và đất đai. Các số liệu minh chứng chủ yếu xoay
quanh hai loại tài sản này.
1.2. Những vấn đề chung về thể chế quản lý nhà nƣớc đối với tài sản công
trong các doanh nghiệp nhà nƣớc
1.2.1. Khái niệm thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nước
Để tìm hiểu quan niệm về thể chế quản lý công quản lý nhà nước đối với
tài sản công trong các DNNN, trước tiên cần phải làm rõ nội hàm hai thuật


ngữ: thể chế và quản lý nhà nước. Hiện nay cách tiếp cận về thể chế cũng tồn
tại nhiều quan điểm khác nhau.
Theo từ điển “Từ và ngữ Việt Nam” thì “Thể” là cách thức, “Chế” là
phép định ra - Cơ cấu xã hội do pháp luật quy định [7, tr.1725]. Thể chế là

“những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân
theo” [15, tr.900].
Về mặt học thuật, định nghĩa đầu tiên về thể chế là tính quy chuẩn của
hành vi hoặc các quy tắc xác định hành vi trong những tình huống cụ thể,
được các thành viên của một nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự tuân thủ
các quy tắc đó là do bản thân tự kiểm soát hoặc do quyền lực bên ngoài khống
chế do Thorstein Veblen đưa ra năm 1914 [16, tr. 11]
Schmid (1972) lại cho rằng “Thể chế là tập hợp các mối quan hệ được
quy định giữa mọi người, các mối quan hệ này xác định quyền, trách nhiệm
của con người trong mối tương quan với người khác”. North (1990) coi “Thể
chế là những luật lệ được hình thành trong đời sống xã hội hay đúng hơn đó là
những luật lệ do con người tạo ra để điều tiết và định hình các quan hệ của
con người”. [16, tr. 11,12]
Ở Việt Nam, Giáo trình Hành chính công của Học viện Hành chính Quốc
gia tiếp cận thể chế ở hai khía cạnh:
“Thể chế bao hàm tổ chức với hệ thống các quy tắc, quy chế được sử
dụng để điều chỉnh sự vận hành của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu của tổ
chức” [4; tr.108-109].
“Thể chế được hiểu như là hệ thống các quy định do Nhà nước xác lập
trong hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước và được Nhà nước sử dụng để
điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối quan hệ giữa nhà nước với công dân,
các tổ chức nhằm thiết lập trật tự kỷ cương xã hội” [4; tr.109].


Như vậy, dù có những khác biệt nhất định, song về cơ bản có hai quan
niệm nhìn nhận về thể chế. Nghĩa hẹp, thể chế có thể hiểu là những quy định
pháp luật, nội quy, quy chế, điều lệ. Nghĩa rộng, thể chế bao gồm các quy
định pháp luật, nội quy, quy chế và tổ chức bộ máy vận hành các quy định đó.
Thiết nghĩ quan niệm thể chế theo nghĩa rộng hợp lý và toàn diện hơn.
Bởi lẽ, phải có hệ thống văn bản pháp luật để xây dựng không gian pháp lý

cho hoạt động QLNN đối với tài sản công trong các DNNN diễn ra đồng thời
là cơ sở để cho hoạt động bộ máy QLNN. Bộ máy QLNN triển khai thực thi
pháp luật về TSC trong các DNNN đồng thời kiểm soát việc thực thi pháp
luật. Như vậy, nếu không có văn bản pháp luật thì bộ máy nhà nước không có
cơ sở pháp lý hoạt động; ngược lại không có bộ máy quản lý tốt với cơ cấu tổ
chức phù hợp và đội ngũ nhân sự có năng lực thì khó đảm bảo thực hiện các
quy định. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tiếp cận quan niệm “thể
chế” ở góc độ: hệ thống các quy định pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước
vận hành các quy định đó. Mặt khác, xuất phát từ lý luận về quản lý nhà nước
đối với tài sản công trong các DNNN để có những định hướng cho việc hoàn
thiện thể chế này nên luận văn chỉ tập trung vào những yếu tố chính thức của
thể chế (quy phạm pháp luật) mà không đề cập đến các yếu tố phi chính thức
(đường lối, chính sách…).
Về thuật ngữ quản lý nhà nước , xuất phát từ những góc độ nghiên cứu
khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài nước đã đưa ra giải thích không
giống nhau về quản lý. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, QLNN xuất
hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, là công cụ của nhà nước trong quản
lý xã hội, là một dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước của các
cơ quan nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan
hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân. Thuật ngữ QLNN được sử dụng


khá phổ biến trong các công trình nghiên cứu khoa học thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau ở Việt Nam với nhiều cách tiếp cận nhất định.
Theo nghĩa rộng, QLNN là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy
nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước
trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo nghĩa hẹp, QLNN chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu

cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ QLNN nói chung còn thực
hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành nhằm xây dựng tổ chức
bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình như ra quyết định thành
lập, chia tách, sáp nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình, đề bạt,
khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ…
Như vậy, QLNN theo nghĩa hẹp còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý
hành chính nhà nước. Trong phạm vi luận văn, xuất phát từ nghiên cứu thực
tiễn ở Bộ Thông tin và Truyền thông – một cơ quan quản lý hành chính. Vì
vậy, luận văn tiếp cận khái niệm QLNN ở nghĩa hẹp, cụ thể là quản lý hành
chính nhà nước.
Với những phân tích trên, có thể hiểu: Thể chế quản lý nhà nước đối
với tài sản công trong DNNN là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
vận hành các quy định pháp luật về QLNN đối với tài sản công trong các
DNNN một cách thống nhất nhằm đáp ứng mục tiêu hoạt động của doanh
nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế đất nước.


Từ khái niệm trên, có thể xem xét một số đặc điểm cơ bản của thể chế
QLNN đối với TSC trong các DNNN như sau:
Một là, thể chế QLNN đối với TSC trong các DNNN là một chỉnh thể
thống nhất bao gồm hai bộ phận hợp thành: hệ thống quy phạm pháp luật và
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về TSC trong các DNNN.
Hệ thống bộ máy nhà nước quản lý nhà nước về TSC trong các DNNN
theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ bộ máy nhà nước, cụ thể cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Trong đó, trực tiếp và chủ yếu là hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
Hệ thống văn bản pháp luật được ban hành để QLNN đối với TSC
trong các DNNN ngoài những văn bản chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp như
Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý và sử dụng vốn đầu tư vào sản xuất, kinh

doanh tại các doanh nghiệp nhà nước, Nghị định, thông tư hướng dẫn còn
được quy định trong những văn bản pháp luật có liên quan như Luật Tổ chức
Chính phủ, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công ...
Hai là, thể chế QLNN đối với QLNN đối với TSC trong các DNNN là
một bộ phận của thể chế QLNN nói chung.Vì thế, thể chế QLNN đối với
QLNN đối với TSC trong các DNNN nằm trong một chỉnh thể thống nhất và
có mối quan hệ khăng khít với các lĩnh vực khác của thể chế QLNN. Điều này
xuất phát từ chức năng chung của bộ máy quản lý nhà nước là quản lý trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đồng nghĩa với việc xây
dựng, hoàn thiện thể chế QLNN đối với QLNN đối với TSC trong các DNNN
phải trên cơ sở tính sự tác động tất cả các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa ,
xã hội.


Ba là, thể chế QLNN đối với QLNN đối với TSC trong các DNNN
được xây dựng nhằm mục đích tác động làm thay đổi các quan hệ xã hội, giúp
môi trường kinh tế hình thành, phát triển lành mạnh.
Vai trò thể chế quản lý nhà nước đối với TSC trong các DNNN
Thứ nhất, thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
DNNN xây dựng khung pháp lý để quản lý, sử dụng TSC có hiệu quả
Các DNNN với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường vì vậy được
Nhà nước đầu tư một khối lượng TSC khổng lồ. Doanh nghiệp nhà nước hiện
chiếm tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước, 60% tín
dụng các ngân hàng thương mại và 70% vốn ODA. Tổng tài sản gần 1.800
nghìn tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 700 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận 162 nghìn tỷ
đồng nhưng chỉ đóng góp 35% GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản lượng công
nghiệp hàng năm [10]. Để đảm bảo việc quản lý, sử dụng TSC đúng mục
đích, tránh thất thoát cần một hành lang pháp lý toàn diện, một hệ thống bộ
máy quản lý nhà nước minh bạch và hiệu quả.
Thứ hai, góp phần phòng ngừa, ngăn ngừa, xử lý vi phạm pháp luật

phát sinh trong hoạt động quản lý,sử dụng TSC trong các DNNN
Nhà nước quản lý xã hội thông qua các phương tiện như chính sách, kế
hoạch, chiếu lược, pháp luật. Trong đó pháp luật là phương tiện quản lý hữu
hiệu và quan trọng nhất. Thông qua pháp luật, nhà nước hình thành không
gian, môi trường pháp lý để các chủ thể hình thành nên những hành vi hợp
pháp; đồng thời là cơ sở để xác định những hành vi nào là hành vi vi phạm
pháp luật và có chế tài xử lý nghiêm khắc. Mặt khác, thể chế QLNN đối với
TSC trong các DNNN đảm bảo vai trò kiểm soát của Nhà nước và xã hộ đối
với việc quản lý, sử dụng TSC trong các DNNN thông qua quy định các hình


×