Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nghiên cứu những bất thường NST ở cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 90 trang )

Luận văn thạc sĩ khoa học

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN 3
1.1.LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VỀ NHIỄM SẮC THỂ NGƯỜI 3
1.2. TIÊU CHUẨN VÀ QUY ĐỊNH QUỐC TẾ VỀ ĐẶC ĐIỂM BỘ NHIỄM SẮC THỂ NGƯỜI 4
i.Tiêu chuẩn để xếp loại nhiễm sắc thể trong lập karyotyp. 4
ii.Phân loại nhiễm sắc thể 5
1.3. CÁC RỐI LOẠN VÀ CƠ CHẾ GÂY RỐI LOẠN NHIỄM SẮC THỂ NGƯỜI 6
1.3.1. Rối loạn số lượng nhiễm sắc thể 6
1.3.2. Rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể 7
1.3.3. Hậu quả của các đột biến nhiễm sắc thể lên chất liệu di truyền 11
1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỘ NHIỄM SẮC THỂ Ở NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG SẢY THAI LIÊN TIẾP VÀ SINH
CON BỊ DỊ TẬT BẨM SINH TRÊN THẾ GIỚI

11

1.4.1. Tần số rối loạn nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh 11
1.4.2. Tần số rối loạn nhiễm sắc thể giữa người vợ và người chồng ở những cặp vợ chồng sảy thai liên
tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh 13
1.4.3. Sự phân bố các kiểu rối loạn nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con
bị dị tật bẩm sinh 14
1.4.3.1. Sự phân bố giữa rối loạn số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể 14
1.4.3.2. Sự phân bố các kiểu rối loạn nhiễm sắc thể về cấu trúc 16
1.4.3.3. Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn tương hỗ 17
1.4.3.4. Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn hòa hợp tâm 18
1.4.3.5. Sự phân bố những dạng đảo đoạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị
tật bẩm sinh 20
1.4.3.6. Sự phân bố các rối loạn phức tạp nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị


tật bẩm sinh 21
1.4.3.7. Sự phân bố các kiểu rối loạn nhiễm sắc thể về số lượng 22

1.4.4. Nguy cơ sinh sản của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh mang rối
loạn nhiễm sắc thể 23
1.4.4.1. Nguy cơ sinh sản ở các cặp vợ chồng mang rối loạn nhiễm sắc thể chuyển đoạn tương hỗ 24
1.4.4.2. Nguy cơ sinh sản ở các cặp vợ chồng mang rối loạn NST chuyển đoạn hòa hợp tâm 25
1.4.4.3. Nguy cơ sinh sản ở các cặp vợ chồng mang rối loạn nhiễm sắc thể kiểu đảo đoạn 27

1.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỘ NHIỄM SẮC THỂ Ở NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG SẢY THAI LIÊN TIẾP VÀ SINH
CON BỊ DỊ TẬT BẨM SINH Ở VIỆT

NAM 28

CHƯƠNG 2 - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
1.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 31
1.Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 31
2.Tiêu chuẩn loại trừ 31


Luận văn thạc sĩ khoa học
2.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.2.1. Lập hồ sơ bệnh án di truyền 31
2.2.2. Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể và lập karyotyp 31
1.Nuôi cấy tế bào bạch cầu lympho máu ngoại vi theo phương pháp của Hungerford D.A (1965) có cải tiến
[72]. 31
2.Thu hoạch tế bào 32
3.Phương pháp nhuộm tiêu bản bằng băng G theo Seabright M (1975) [80]. 32
4.Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể và lập karyotyp theo tiêu chuẩn ISCN (2009) [84] 33


2.2.3. Xử lý số liệu 34

CHƯƠNG 3 – KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 35
3.1.BIỂU HIỆN RỐI LOẠN NHIỄM SẮC THỂ Ở CÁC CẶP VỢ CHỒNG SẢY THAI LIÊN TIẾP VÀ SINH CON BỊ DỊ TẬT
BẨM SINH

35

3.2. BIỂU HIỆN RỐI LOẠN NHIỄM SẮC THỂ GIỮA NGƯỜI VỢ VÀ NGƯỜI CHỒNG CÓ TIỀN SỬ SẢY THAI LIÊN
TIẾP VÀ SINH CON DỊ TẬT BẨM SINH

37

3.3.BIỂU HIỆN RỐI LOẠN NHIỄM SẮC THỂ Ở CÁC CẶP VỢ CHỒNG SẢY THAI LIÊN TIẾP VÀ SINH CON BỊ DỊ TẬT
BẨM SINH

39

3.3.1.Sự phân bố các kiểu rối loạn do chuyển đoạn tương hỗ ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị
dị tật bẩm sinh 43
3.3.2.Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn hòa hợp tâm ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật
bẩm sinh 45
3.3.3. Biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể kiểu đảo đoạn 48

3.4. NGUY CƠ SINH SẢN CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG SẢY THAI LIÊN TIẾP VÀ SINH CON BỊ DỊ TẬT BẨM SINH
MANG RỐI LOẠN NHIỄM SẮC THỂ

53

3.4.1. Nguy cơ sinh sản của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh mang

chuyển đoạn tương hỗ 53
3.4.2. Nguy cơ sinh sản ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh mang
chuyển đoạn hoà hợp tâm 55
3.4.3. Nguy cơ sinh sản ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh mang đảo
đoạn NST số 9 62

KẾT LUẬN 65
ĐỀ NGHỊ 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
PHỤ LỤC


Luận văn thạc sĩ khoa học

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Tỷ lệ rối loạn NST ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh của một
số tác giả. 37
Bảng 2. Sự phân bố các kiểu rối loạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị
dị tật bẩm sinh. 40
Bảng 3. Sự phân bố các rối loạn số lượng nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng 41
Bảng 4. Sự phân bố các kiểu karyotyp của chuyển đoạn tương hỗ ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật 44
Bảng 5. Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn hòa hợp tâm 46
Bảng 6. Biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể kiểu đảo đoạn ở các cặp vợ chồng 48
Bảng 7. Các dạng rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể khác 50
Bảng 8. Nguy cơ sinh sản của các cặp vợ chồng (vợ hoặc chồng) mang chuyển đoạn tương hỗ 54
Bảng 9. Nguy cơ về sinh sản của các cặp vợ chồng (vợ hoặc chồng) mang chuyển đoạn hòa hợp tâm xảy
ra giữa các nhiễm sắc thể khác cặp tương đồng 56
Bảng 10. Nguy cơ sinh sản của các cặp vợ chồng (vợ hoặc chồng) mang chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa

các nhiễm sắc thể cùng cặp tương đồng 57
Bảng 11. Nguy cơ sinh sản của các cặp vợ chồng (vợ hoặc chồng) mang đảo đoạn NST số 9 63


Luận văn thạc sĩ khoa học

DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử ở người mang chuyển đoạn tương hỗ giữa NST số 3 và
NST số 21. 8
Hình 2: Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của người mang chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa 2 NST
khác cặp tương đồng t(14q;21q). 9
Hình 3: Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của người mang chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa 2 NST
cùng cặp tương đồng t(21q;21q). 10
Hình 4: Tỷ lệ rối loạn NST ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh 35
Hình 5: Tỷ lệ rối loạn NST giữa người vợ và người chồng ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh. 38
Hình 6: Karyotyp của người chồng (bệnh nhân Trần Quang T) mang chuyển đoạn tương hỗ
46,XY,t(9;11)(q34;q13) 43
47
Hình 7: Karyotyp của người chồng (bệnh nhân Nguyễn Việt C) mang chuyển đoạn hòa hợp tâm
45,XY,t(13q;14q) 47
Hình 8: Karyotyp của người chồng (bệnh nhân Phạm Văn Đ) mang NST đảo đoạn 46,XY,inv(9)
(p12;q12) 49
Hình 9: Karyotyp của người vợ (bệnh nhân Vũ Thị Lan H) mang NST rối loạn phức tạp
46,XX,t(1;16)(q22;p13),t(12;15)(q15;q23) 52
Hình 10: Karyotyp của người vợ (bệnh nhân Mai Kim D) mang chuyển đoạn hòa hợp tâm
45,XX,t(13q;13q) 58
Hình 11: Sơ đồ gia hệ cặp vợ chồng có người vợ mang chuyển đoạn hòa hợp tâm 45,XX,t(14q;21q)
61



Luận văn thạc sĩ khoa học

MỞ ĐẦU
Hiện tượng các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp, sinh con bị dị tật bẩm sinh là
vấn đề ngày càng được quan tâm theo dõi và điều trị trên các cơ sở y tế ở Việt Nam
nói riêng và trên thế giới nói chung. Sảy thai liên tiếp, sinh con dị tật cũng như
những vấn đề liên quan đến hiếm muộn, vô sinh đã và đang là nỗi đau, nỗi lo của
mỗi gia đình và xã hội, gây ra nhiều tổn thất về mặt tinh thần và vật chất. Tại Việt
Nam, song song với sự phát triển kinh tế - xã hội, những vấn để về sức khỏe sinh
sản đang ngày càng được quan tâm và cần có những nghiên cứu sâu rộng để đưa ra
các biện pháp cải thiện, trong đó tư vấn di truyền đối với những cặp vợ chồng sảy
thai liên tiếp, sinh con dị tật hay hiếm muộn là một trong những biện pháp cần thiết.
Sảy thai liên tiếp và sinh con dị tật bẩm sinh có thể do nhiều nguyên nhân như
nhiễm trùng, hoocmon, các bệnh mãn tính, bất thường tử cung, bất thường NST…
đặc biệt với sảy thai sớm (dưới 3 tháng trong thời kì mang thai) thì phôi mang rối
loạn NST đóng vai trò chủ yếu [10]. Đối với các trường hợp sinh con bị dị tật bẩm
sinh mang rối loạn NST nguyên nhân có thể do bố hoặc mẹ mang rối loạn NST tạo
nên những hợp tử mang NST rối loạn. Ở những cặp vợ chồng mang rối loạn NST
cân bằng có nguy cơ mang thai bất thường rất cao có thể chết trong thời kì bào thai
hoặc sinh ra những đứa trẻ bị dị tật hoặc chậm phát triển trí tuệ.
Với sự phát triển của khoa học nói chung và di truyền y học nói riêng, những
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
ngày càng được đánh giá một cách sâu rộng hơn ở mức độ di truyền tế bào và di
truyền phân tử với những rối loạn NST hay rối loạn về gen. Ở mức độ di truyền tế
bào, bộ NST được quan sát, đánh giá và phân tích về số lượng, cấu trúc bao gồm
các chuyển đoạn, đứt đoạn, lặp đoạn và đảo đoạn...
Xét nghiệm và phân tích NST ở những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên
tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh nhằm tìm ra nguyên nhân đồng thời đưa ra tư vấn
di truyền để lựa chọn phương pháp công nghệ hỗ trợ sinh sản cần thiết hoặc lựa

chọn có sinh con nữa hay không?

Trương Thị Thuỳ Linh
học

1

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Hiện nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu NST và báo cáo về
những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
mang rối loạn NST. Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều phòng xét
nghiệm di truyền tế bào như Viện nhi Trung ương, Viện Sản Trung ương, phòng
Di truyền tế bào bệnh viện Từ Dũ, bộ môn Y Sinh học – Di truyền trường Đại
học Y Hà Nội làm xét nghiệm và phân tích NST ở những cặp vợ chồng có tiền sử
sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh góp phần trong chẩn đoán và đưa
ra những lời khuyên di truyền.
Sử dụng phương pháp xét nghiệm và phân tích bộ NST, chúng tôi thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu những bất thường NST ở cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh
con bị dị tật” với mục tiêu:
Phát hiện những bất thường của bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng
sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh.
Đưa ra những nguy cơ về sinh sản ở một số trường hợp rối loạn NST ở
những cặp vợ chồng này.

Trương Thị Thuỳ Linh
học


2

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học

CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN
1.1. Lược sử nghiên cứu về nhiễm sắc thể người
Bộ NST người là đối tượng chính trong các nghiên cứu tế bào di truyền học
loài người. Các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu NST người từ cuối thế kỷ XIX
và được đánh dấu bằng công trình mở đầu của Walther Flemming (1882) [33]. Ông
đã quan sát NST của người ở các kỳ phân bào trên tiêu bản tươi, cắt mảnh lấy từ
tinh hoàn. Trong thời gian đó, NST của người là vấn đề được các nhà di truyền học
quan tâm, nghiên cứu và cũng là đề tài được đem ra tranh luận nhiều lần. Tuy nhiên
ở thời kỳ ấy do những hạn chế về kỹ thuật làm tiêu bản, mẫu vật không đáp ứng và
không phù hợp cho việc nghiên cứu chi tiết NST. Ở người, số lượng NST nhiều,
kích thước nhỏ và thường tập trung thành từng đám, với những kỹ thuật cắt mảnh,
cố định và nhuộm thông thường, các nhà di truyền tế bào chưa thể đếm chính xác
nên đã cho rằng trong nhân của tế bào người có 48 NST, gồm 23 cặp NST thường
và 1 cặp NST giới tính (Winiwarter. V, 1912; Painter, T.S, 1923) [102,73].
Những năm thuộc thập kỉ 50 của thế kỉ XX có những phát hiện quan trọng
khai sinh ra chuyên ngành di truyền tế bào người, bằng việc xử lý tế bào bằng sốc
nhược trương của Hsu T.C (1952), Ford C.E và Hamerton J.L (1956) tiền xử lý tế
bào nuôi cấy bằng colchicine để tích lũy nhiều cụm kì giữa. Công trình của Tjio và
Levan (1956) kết hợp xử lý nhược trương và colchicine đã công bố nghiên cứu xác
định lại bộ NST 2n của người là 46 NST chứ không phải là 48 NST và công trình
này đã được Ford và Hamerton khẳng định [35].
Từ năm 1956 có nhiều phòng thí nghiệm tế bào di truyền được xây dựng để
nghiên cứu NST. Các công trình đầu tiên công bố các rối loạn NST liên quan với

bệnh là công trình của Lejeune (1958-1959) về hội chứng Down do thừa một NST
21 dạng trisomi 21, hội chứng Turner do tế bào cơ thể chỉ có 45 NST dạng 45,X
thiếu một NST giới tính X (Ford, 1959), hội chứng Klinefelter ở nam với 47 NST
trong đó có ba NST giới tính XXY (Jacobs và Strong, 1959) [48].
Từ năm 1956 đến năm 1960 là thời kỳ còn khó khăn của nghiên cứu tế bào di
truyền học người các nghiên cứu đều mới chỉ phân biệt được các rối loạn số lượng
Trương Thị Thuỳ Linh
học

3

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
và rối loạn cấu trúc lớn gây bất thường ở người do mới chỉ sử dụng phương pháp
nhuộm bình thường bằng Giemsa, nhuộm đồng đều các NST.
Năm 1960, Moorhead và cs công bố phương pháp làm tiêu bản NST từ
lympho bào nuôi cấy ngắn hạn với việc dùng PHA (phytohemagglutinin) để kích
thích phân bào[64].
Năm 1960, Nowell và Hungerford đã mô tả NST Philadelphia (mất đoạn
nhánh dài của NST 22) trong bệnh bạch cầu thể tủy mãn tính (Chronic myeloid
leukemia) [72].
Năm 1963, hội chứng mèo kêu, một hội chứng do bị mất đoạn nhánh ngắn của
NST số 5 (5p-), lần đầu tiên được phát hiện bởi Lejeune và cs [101].
Từ năm 1968 đến năm 1970, sự ra đời của các kỹ thuật nhuộm băng cho phép
các nhà di truyền học đánh giá chính xác tới từng chiếc NST trong bộ NST và phát
hiện rối loạn cấu trúc NST. Từ sau 1970 trở đi, lần lượt với các kỹ thuật nhuộm
băng Q, băng G, băng R, băng C, băng T, N và nhuộm băng có độ phân giải cao
NST, dùng BrdU (Bromodeoxyuridin) gắn vào ADN trên NST và nhuộm phân biệt

chromatit chị em đã mở ra thời kỳ phát triển mạnh mẽ của tế bào di truyền học
người ứng dụng các kỹ thuật băng để phát hiện các bất thường đặc trưng trên từng
NST ứng với các bệnh, tật, các hội chứng trong lâm sàng.
Từ năm 1980 đặc biệt là sau năm 1985 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ, vượt bậc
của di truyền tế bào và di truyền phân tử ứng dụng trong nghiên cứu bộ gen loài
người. Trong di truyền tế bào thì việc nghiên cứu NST chủ yếu vẫn áp dụng các
phương pháp nhuộm băng NST.
1.2. Tiêu chuẩn và quy định quốc tế về đặc điểm bộ nhiễm sắc thể người
i.

Tiêu chuẩn để xếp loại nhiễm sắc thể trong lập karyotyp.
Lúc đầu người ta chỉ căn cứ vào chiều dài của NST để đặt tên cho chúng từ 1
đến 23 theo thứ tự từ dài đến ngắn (công ước Denver 1960), nhưng ngay sau đó
cũng năm 1960 Patau không đồng ý và đề xuất thêm tiêu chuẩn vị trí phần tâm, sau
này được quốc tế chính thức chấp nhận.

Trương Thị Thuỳ Linh
học

4

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Chiều dài tương đối của NST: là tỷ lệ giữa chiều dài của một NST so với
chiều dài trung bình của cả bộ NST, tức chiều dài tổng cộng tất cả các NST của bộ
đơn bội có chứa NST X tính theo phần nghìn trong cùng một tế bào. Vị trí của phần
tâm được biểu hiện bằng chỉ số phần tâm, tức là tỷ lệ giữa chiều dài nhánh ngắn trên
tổng chiều dài của cả NST.

Ngoài ra còn có một số tiêu chuẩn chi tiết khác vận dụng cho các NST có nhánh
ngắn rất ngắn (NST tâm đầu) và các vệ tinh của chúng, NST Y có đặc thù riêng.
ii.

Phân loại nhiễm sắc thể
Ở người bộ NST 2n = 46 trong đó có 22 cặp NST thường (autochromosome)
và 1 cặp NST giới tính (sex chromosome). Dựa vào đặc điểm hình thái như độ dài,
vị trí tâm động người ta sắp xếp các NST thành từng nhóm. 46 NST được chia
thành 7 nhóm, kí hiệu là A, B, C, D, E, F và G trên nguyên tắc dài trước ngắn sau,
nếu các NST bằng nhau thì tâm giữa đặt trước, tâm lệch đặt sau.
• Nhóm A có 3 cặp NST có kích thước lớn nhất, gọi tên từ số 1 đến 3, cặp số 1
tâm giữa, cặp số 2 tâm lệch, cặp số 3 tâm giữa.
• Nhóm B có 2 cặp NST số 4 và 5. Các NST này có kích thước lớn và đều có
tâm lệch.
• Nhóm C có 7 cặp từ số 6 đến 12 có chiều dài trung bình. NST X cũng được
xếp vào nhóm này. Tất cả đều tâm gần giữa và khó phân biệt.
• Nhóm D có 3 cặp từ số 13 đến 15 gồm các NST có nhánh ngắn rất ngắn, gần
như không đáng kể gọi là các NST tâm đầu (acrocentric). Tất cả 3 cặp NST này đều
có vệ tinh ở nhánh ngắn.
• Nhóm E có 3 cặp 16, 17,18 tương đối ngắn. NST số 16 tâm giữa, 17 và 18
tâm lệch.
• Nhóm F có 2 cặp NST 19 và 20, ngắn và có tâm giữa.
• Nhóm G có 2 cặp 21 và 22, kích thước ngắn và tâm đầu, có vệ tinh. NST Y
cũng được xếp vào nhóm này nhưng không có vệ tinh.

Trương Thị Thuỳ Linh
học

5


Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
1.3. Các rối loạn và cơ chế gây rối loạn nhiễm sắc thể người
1.3.1. Rối loạn số lượng nhiễm sắc thể
Rối loạn số lượng NST gồm

hai dạng: đa bội (polyploidy) và lệch bội

(aneuploidy).
* Đa bội thể: là hiện tượng tăng chẵn hoặc tăng lẻ cả bộ NST. Ví dụ: ở người
3n = 69 NST = thể tam bội (3n) thuộc dạng thể đa bội lẻ, 4n = 96 NST = thể tứ bội
(4n) thuộc dạng thể đa bội chẵn.
Ở người, các trường hợp đa bội phần lớn phôi thai chết ở giai đoạn trước
sinh, một vài trường hợp sống đến khi sinh hoặc sau sinh nhưng hầu hết là các
trẻ sơ sinh bị dị tật.
Một số trường hợp đa bội thể ở người:
- Đa bội thể ở người hầu hết quan sát thấy ở những thai sảy tự nhiên hoặc ở
một số thai sống sót vài giờ sau khi sinh hoặc ở phần lớn các khối u.
- Thể tam bội (3n) thuần (69,XXY hoặc 69,XYY) đã quan sát ở những thai sảy
tự nhiên hoặc ở một số thai sống sót vài giờ sau khi sinh.
- Thể khảm (3n/2n) hoặc (4n/2n) đứa trẻ có thể sống được vài năm nhưng
chậm phát triển trí tuệ và nhiều dị tật bẩm sinh khác: dị dạng mắt, thoát vị màng tủy,
dị tật tim, dị tật cơ quan sinh dục…
Karyotyp ở những đứa trẻ này là: 46,XY/69,XXY hoặc 46,XX/92,XXYY….
* Lệch bội: là hiện tượng số lượng NST của tế bào tăng lên hoặc giảm đi một
hoặc vài NST so với bộ NST lưỡng bội.
* Lệch bội NST thường
Ở người, hợp tử trisomi thuần NST thường có được tiếp tục phát triển hay

không, số lượng các dị tật và khả năng sống sót của thai ở bên trong hay bên ngoài
tử cung còn phụ thuộc vào trisomi về NST nào trong bộ NST. Trong số 22 cặp NST
thường, chỉ có trisomi nhóm D (13,14,15), trisomi 18 và trisomi 21 thai nhi có thể
sống ở bên ngoài tử cung, đặc biệt trisomi 21 có khả năng sống lâu hơn, thậm chí có
thể sống đến tuổi trưởng thành. Nhìn chung trisomi của nhóm A (1-3), nhóm B (4-5)
hoặc nhóm C (6-12), phôi thai thường chết ở giai đoạn sớm trong tử cung.

Trương Thị Thuỳ Linh
học

6

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Những dòng tế bào hoặc hợp tử monosomi NST thường, nhìn chung không có
khả năng phát triển và thường chết ở giai đoạn sớm của phôi thai.
* Lệch bội NST giới tính
Trường hợp trisomi thuần NST giới tính, thai nhi có thể phát triển được đến tuổi
trưởng thành, nhưng thường có các dị tật ở cơ quan sinh dục và một số dị tật khác.
Chỉ có trường hợp monosomi NST giới X là có khả năng sống đến tuổi trưởng
thành nhưng có những biểu hiện rối loạn phát triển hình thái của cơ thể, về cơ quan
sinh dục và có thể chậm phát triển trí tuệ.
* Thể khảm lệch bội: NST thường và NST giới tính tức là cá thể có từ hai hoặc
nhiều dòng tế bào, hay gặp nhất là một dòng tế bào lưỡng bội và một dòng tế bào
lệch bội hoặc là thừa một NST (trisomi) hoặc là thiếu một NST (monosomi).
* Lệch bội phức tạp – (lệch bội kép): trong tế bào của cơ thể có dư 2 NST ở
hai cặp tương đồng khác nhau (thông thường là một cặp NST thường và một cặp
NST giới tính).

1.3.2. Rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể
Rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể bao gồm vật liệu di truyền bị mất, thêm, hoặc
đảo ngược trong cùng 1 NST hoặc trao đổi giữa các đoạn của các NST khác nhau
(translocations). Rối loạn NST là cân bằng nếu vật liệu di truyền không bị mất (đảo
đoạn và chuyển đoạn NST cân bằng) và không cân bằng nếu thừa, thiếu vật liệu di
truyền (trong trường hợp lặp đoạn hoặc mất đoạn NST) [56].
* Mất đoạn (deletion): là hiện tượng NST bị đứt rời ra một hoặc nhiều đoạn,
đoạn bị đứt rời ra không có tâm sẽ tiêu biến đi hoặc gắn sang NST khác, phần còn
lại mang tâm trở lên ngắn hơn bình thường.
Sự mất đoạn NST tức là sự mất đi vật liệu di truyền và tùy theo mức độ tổn
thương nhiều hay ít mà ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của phôi thai, hoặc thai nhi
sinh ra với nhiều dị tật. Ở người tần số gặp mất đoạn rất hiếm. Ví dụ: hội chứng
mèo kêu: 46, XX(XY), del (5p)… đã được mô tả bởi Lejeune và cs năm 1963. Một
số trường hợp có biểu hiện chậm phát triển trí tuệ và rối loạn cơ quan sinh dục, hay
gặp trong số đó là NST X hình vòng. Ví dụ: Hội chứng Turner: 46,Xr(Xq).

Trương Thị Thuỳ Linh
học

7

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
* Chuyển đoạn (Translocation): Chuyển đoạn là hiện tượng trao đổi các đoạn
của NST. Chuyển đoạn NST đã được xác định là hay gặp nhất trong rối loạn cấu
trúc của NST [86]. Có hai kiểu chuyển đoạn là chuyển đoạn tương hỗ (reciprocal
translocation) và chuyển đoạn hòa hợp tâm (Robertsonian translocation).
- Chuyển đoạn tương hỗ (reciprocal translocation): là hiện tượng trao đổi

đoạn giữa hai NST. Mỗi NST đứt một chỗ, trao đổi đoạn đứt cho nhau và hình thành
hai NST mới. Cả hai đều thay đổi hình thái nếu những đoạn trao đổi khác nhau về
kích thước. Người mang NST chuyển đoạn tương hỗ có kiểu hình bình thường và
trong bộ NST chứa 46 chiếc với 2 NST bất thường [30]. Trong quá trình hình thành
giao tử, hợp tử và sinh ra những đứa con hoặc là monosomi (thường chết) hoặc
trisomi hoặc có karyotype bình thường hoặc mang chuyển đoạn cân bằng giống bố
mẹ. Dưới đây là sơ đồ mô tả quá trình hình thành giao tử và hợp tử ở những người
mang chuyển đoạn tương hỗ giữa NST số 3 và NST số 21. Các trường hợp chuyển
đoạn tương hỗ khác cũng tương tự.

Hình 1: Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử ở người mang chuyển đoạn tương
hỗ giữa NST số 3 và NST số 21.
- Chuyển đoạn hòa hợp tâm (Robertsonian translocation): Chuyển đoạn hòa hợp
tâm là do phần tâm của hai NST hợp nhất hình thành và hay gặp nhất là sự chuyển
đoạn giữa các NST tâm đầu số 13,14,15 (nhóm D), số 21,22 (nhóm G) bao gồm là sự
Trương Thị Thuỳ Linh
học

8

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
chuyển đoạn giữa các NST nhóm D với nhóm D (D/D) hoặc giữa nhóm D với nhóm G
(D/G) hoặc giữa nhóm G với nhóm G (G/G). Nhìn chung trong quần thể, chuyển đoạn
hòa hợp tâm chiếm tỷ lệ khoảng 1,23% ở trẻ sơ sinh còn sống [15].
Ở những người mang chuyển đoạn hòa hợp tâm trong bộ NST có 45 chiếc
thiếu 2 NST tâm đầu và thay vào đó 1 NST tâm giữa có kích thước lớn nếu là sự
chuyển đoạn giữa các NST nhóm D với nhóm D (D/D) hoặc 1 NST có kích thước

trung bình tâm lệch nếu là sự chuyển đoạn giữa các NST nhóm D với các NST
nhóm G (D/G) hoặc 1 NST kích thước nhỏ tâm giữa nếu là sự chuyển đoạn giữa các
NST nhóm G với các NST nhóm G (G/G).
Những người đàn ông mang chuyển đoạn hoà hợp tâm, các đoạn chuyển có thể
can thiệp vào sự sản sinh tinh trùng (số lượng tinh trùng thấp hoặc tinh trùng mang
NST rối loạn). Bố hoặc mẹ mang chuyển đoạn hoà hợp tâm có thể sinh ra con cái dị
tật bẩm sinh sau: hội chứng Down khi con thừa hưởng 3 nhánh dài của NST 21. Hội
chứng Patau khi thừa hưởng 3 nhánh dài của NST 13…. Nếu cả bố và mẹ đều mang
chuyển đoạn hoà hợp tâm thì việc có một đứa con bình thường là rất khó do sự hình
thành nên hợp tử mang NST không cân bằng [94].
Có 2 dạng chuyển đoạn hòa hợp tâm đó là sự chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa
các NST trong cùng cặp NST tương đồng và chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa các
NST khác cặp tương đồng. Dưới đây là sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của các
cặp vợ chồng (người vợ hoặc người chồng) mang chuyển đoạn hòa hợp tâm.

Hình 2: Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của người mang chuyển đoạn hòa
hợp tâm giữa 2 NST khác cặp tương đồng t(14q;21q).
Trương Thị Thuỳ Linh
học

9

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học

Hình 3: Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của người mang chuyển đoạn hòa
hợp tâm giữa 2 NST cùng cặp tương đồng t(21q;21q).
* Lặp đoạn (duplication) là hiện tượng một đoạn nào đó của NST được nhân

đôi lên. Lặp đoạn xảy ra khi 2 NST tương đồng ghép đôi với nhau không tương
xứng trong kỳ đầu của phân bào giảm phân, có sự đứt của 2 NST và trao đổi đoạn
giữa 2 đoạn khác nhau của 2 NST trong cặp tương đồng. Trong trường hợp này có 2
NST bị thay đổi cấu trúc, nhưng không mất đi hoặc tăng thêm vật liệu di truyền
trong tế bào. Khi các NST trong cặp tương đồng này phân ly nhau trong giảm phân
sẽ tạo ra hợp tử mang NST lặp đoạn (trisomi từng phần) hoặc NST thiếu một đoạn
có liên quan (monosomi từng phần)….Ở người hay gặp trisomi một phần nhánh dài
hoặc monosomi một phần nhánh dài hoặc nhánh ngắn của NST số 18 (nhóm E).
Đảo đoạn (Inversion): Kết quả đảo đoạn khi hai điểm đứt gãy xảy ra trong
một nhiễm sắc thể và mảnh đứt gãy quay ngược 1800 trước khi được chèn trở lại.
Đảo đoạn mang tâm động (pericentric) nếu nó liên quan đến tâm động. Đảo đoạn
không mang tâm động (paracentric) chỉ liên quan đến một nhánh của một nhiễm
sắc thể, hay ngoài tâm động. Đảo đoạn là tái sắp xếp cân bằng, nhưng người mang
đảo đoạn quanh tâm và ngoài tâm động đều có nguy cơ tạo giao tử với nhiễm sắc
thể không cân bằng bổ sung [5].
Trương Thị Thuỳ Linh
học

10

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Đảo đoạn có thể ở trạng thái đồng hợp tử hoặc dị hợp tử. Khi ở trạng thái đồng
hợp tử thì đảo đoạn thường gây ảnh hưởng chết cho cơ thể do làm thay đổi vị trí của
các gen (hiệu ứng vị trí) và đứt gãy nhiễm sắc thể sẽ dẫn tới gây chết. Khi ở trạng
thái dị hợp tử thì đảo đoạn gây nên một số thay đổi về di truyền và tế bào, do đó
người ta có thể dễ dàng phát hiện ra đoạn đảo. Khi có đảo đoạn ngoại tâm sẽ không
làm thay đổi vị trí hai vế, còn khi có đảo đoạn quanh tâm sẽ dẫn đến thay đổi vế của

nhiễm sắc thể, có thể biến nhiễm sắc thể tâm cận mút (acrocentrric chromosome)
thành nhiễm sắc thể cân tâm (metacentric chromosome) và ngược lại [3].
1.3.3. Hậu quả của các đột biến nhiễm sắc thể lên chất liệu di truyền
Căn cứ vào sự biến đổi chất liệu di truyền trong các loại đột biến NST người ta
chia làm hai loại:
Đột biến cân bằng (balanced mutation): Đột biến NST không làm mất
hoặc thêm chất liệu di truyền như các trường hợp chuyển đoạn, đảo đoạn. Do
không làm mất hoặc thêm chất liệu di truyền nên những đột biến này thường không
ảnh hưởng lên kiểu hình [98].
Đột biến không cân bằng (unbalanced mutation): Bao gồm các đột biến
NST làm mất chất liệu di truyền như thể đơn nhiễm, đột biến mất đoạn hoặc làm
tăng chất liệu di truyền như thể tam nhiễm, thể tam bội, nhân đoạn. Đây là những
đột biến gây ra những hậu quả trên kiểu hình [99].
1.4. Tình hình nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng sảy thai liên
tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh trên thế giới
1.4.1. Tần số rối loạn nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng sảy thai là do bố
mẹ mang rối loạn NST, đặc biệt là những trường hợp sảy thai sớm. Khoảng 60%
trường hợp sảy thai liên tiếp trước tuần thứ 20 của thai là do rối loạn NST ở phôi
thai [22]. Các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh có tỷ lệ
mang rối loạn NST lớn hơn so với tỉ lệ rối loạn NST trong dân số nói chung

Trương Thị Thuỳ Linh
học

11

Cao học K20 - Sinh



Luận văn thạc sĩ khoa học
(khoảng <0,55%) [16,37,52,53,17,78]. Sau đây là một số ghi nhận về nghiên cứu
tần số rối loạn NST ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con dị tật:
CU Diedrich và cs (1983) khi phân tích truyền tế bào ở 136 cặp vợ chồng có
tiền sử sảy thai hai lần trở lên đã phát hiện 15 trường hợp (chiếm tỷ lệ 11%) có rối
loạn NST [28].
Báo cáo của J.P. Fryns và cs (1984) trong 1068 cặp vợ chồng có tiền sử sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh được phân tích NST có 59 trường hợp
mang rối loạn NST (chiếm 5,5%) [40].
Một nghiên cứu khác của Kroshikina VG và cs (1984) trong 202 cặp vợ
chồng sảy thai liên tiếp được xét nghiệm NST thì tỷ lệ các cặp mà một trong hai
người có rối loạn NST là 2,5% [51].
Năm 1998 Fryns JP và cs khi phân tích NST của 1743 cặp vợ chồng sảy thai
liên tiếp đã phát hiện 5,34% trong số họ mang rối loạn NST [39].
Khi tiến hành làm xét nghiệm NST cho 61 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai
liên tiếp từ hai lần trở lên. Jiang J. và cs (2001) đã phát hiện 7 cặp vợ chồng có một
trong hai người bị rối loạn NST (chiếm tỷ lệ 11,5%) [49].
M. Azim (2003) sử dụng kỹ thuật nhuộm băng G phân tích NST của 300 cặp vợ
chồng có tiền sử sảy thai từ 2 lần trở lên. Kết quả cho thấy có 16 cặp (vợ hoặc chồng)
mang rối loạn NST (chiếm tỷ lệ 5,3%) [17].
Nghiên cứu NST ở 742 cặp vợ chồng (1484 trường hợp) có tiền sử sảy thai
liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh, Dubey và cs (2005) đã phát hiện được 31
trường hợp có rối loạn NST (chiếm tỷ lệ 2%) [30].
Lakshmi Rao và cs (2005) sử dụng kỹ thuật nhuộm băng G để phân tích NST
cho 160 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp. Kết quả phát hiện 18 trường hợp
mang rối loạn NST chiếm 11,25% tổng số các cặp nghiên cứu [53].
Năm 2006 Figen Celepa và cs đã phân tích NST của 645 cặp vợ chồng (1290
trường hợp) có tiền sử sảy thai liên tiếp. Kết quả tìm thấy có 25 trường hợp mang
rối loạn NST (chiếm tỷ lệ 3,86%) [32].


Trương Thị Thuỳ Linh
học

12

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Razied Dehghani Firoozabadi và cs (2006) phân tích NST của 88 cặp vợ
chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp. Kết quả cho thấy 12.5% trong số họ mang rối
loạn NST [75].
Nghiên cứu của Mary D.Stephenson và Sony Sierra thuộc Đại học Chicago
(Mỹ) và Đại học Colombia (Anh) năm 2006 khi phân tích kết quả sinh sản của các
cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp đã phát hiện 51 người mang rối loạn NST
trong 1853 cặp vợ chồng (2.7 %) [85].
L.V.Tavokina và cs (2007) đã phát hiện 46 trường hợp (10,95%) rối loạn
NST khi phân tích NST của 210 cặp vợ chồng có vấn đề về sinh sản [52].
Usha R. Dutta (2010) và cs đã phân tích sự bất thường về di truyền tế bào
trong 1162 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp ở vùng phía nam Ấn độ đã
phát hiện 78 trường hợp rối loạn NST [95].
Faeza Abdel và cs (2011) khi nghiên cứu nguyên nhân sảy thai liên tiếp ở Ai
Cập đã phát hiện 9 cặp vợ chồng trong 73 cặp được kiểm tra NST mang rối loạn
NST tương ứng với 6.1% [31].
1.4.2. Tần số rối loạn nhiễm sắc thể giữa người vợ và người chồng ở những cặp
vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
Năm 1983 ALippman-Hand đã phân tích NST của 347 người (trong đó có
170 cặp vợ chồng và 7 người vợ) có tiền sử sảy thai liên tiếp từ hai lần trở lên. Kết
quả là phát hiện có 8 người vợ và 4 người chồng mang rối loạn NST [14].

Phân tích NST của 391 cặp vợ chồng sinh con mắc bệnh Down, Stoll.C và
cs (1998) đã phát hiện được 7 người (5 người mẹ và 2 người bố) mang NST chuyển
đoạn hòa hợp tâm [88].
Năm 2005, Dubey và cs kiểm tra NST của 742 cặp vợ chồng có tiền sử sảy
thai liên tiếp. 31 trường hợp đã được phát hiện mang rối loạn NST, trong đó 24 nữ
và 7 nam với tỉ lệ nữ: nam là 2,1:1 [30].
Nghiên cứu kết quả sinh sản của 11.971 cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp, Flyn H
và cs (2013) phân tích NST và phát hiện có 278 trường hợp rối loạn NST trong đó 176
người vợ (tương đương 63%) và 102 người chồng (tương đương với 37%) [34].

Trương Thị Thuỳ Linh
học

13

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Cũng trong năm 2013, Ali karaman và Pasa Ulug phân tích NST của 158 cặp
vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp đã phát hiện các trường hợp rối loạn NST bao
gồm 13 nữ (8,22%) và 7 nam (4,43%) [13].
Ngoài những trường hợp rối loạn NST xảy ra ở người vợ hoặc người chồng ở
những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con dị tật, chúng tôi còn ghi nhận một
số kết quả nghiên cứu mà cả hai vợ chồng đều mang rối loạn NST sau:
Khi nghiên cứu cặp vợ chồng 25 tuổi với tiền sử 2 lần sảy thai liên tiếp P.R
Scarbrough và cs (1984) với phương pháp nhuộm băng G đã phát hiện sự có mặt
của chuyển đoạn NST số 13 (thuộc nhóm D) với NST số 14 (thuộc nhóm D) ở
người chồng, karyotyp của người chồng là 45,XY,t(13q;14q). Phân tích NST của
người vợ phát hiện chuyển đoạn tương hỗ giữa NST số 7 và NST số 13, karyptyp là

46,XX,t(7;13)(p21;q22). Theo tác giả thì xác suất để cặp vợ chồng này có 1 con
mang NST cân bằng hoặc mang NST bình thường là 4/48. Xác suất này có thể được
cải thiện trong trường hợp có chọn các tế bào mầm [78].
Ahonadreza Zarifian và cs (2012) đã báo cáo 1 trường hợp cặp vợ chồng với
nhiều lần sảy thai không rõ nguyên nhân: khi phân tích NST trên cơ sở kỹ thuật
nhuộm băng G ở độ phân giải cao đã cho kết quả người chồng có karyotyp là
46,XY,t(6;16)(p12;q26), karyotyp của người vợ là 46,XX,t(6;16)(p12;q26). Cũng
theo báo cáo này thì những cặp vợ chồng mà cả 2 đều mang rối loạn NST cân bằng
có khả năng sản xuất những giao tử bất thường tạo lên các hợp tử bất thường dẫn
đến hiện tượng sảy thai, thai lưu hoặc con sinh ra mang dị tật bẩm sinh. Về lý
thuyết, chỉ có 25% giao tử bình thường mỗi người do đó nguy cơ sinh sản đối với
các cặp vợ chồng mà cả hai đều mang rối loạn NST là rất cao [12].
1.4.3. Sự phân bố các kiểu rối loạn nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
1.4.3.1. Sự phân bố giữa rối loạn số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể
Năm 1982, Micheles VV và cs phân tích NST của 220 cặp vợ chồng có tiền sử
sảy thai từ 2 lần trở lên đã phát hiện có 18 trường hợp mang rối loạn NST trong đó có
13 trường hợp rối loạn cấu trúc NST và 5 trường hợp rối loạn số lượng NST [61].

Trương Thị Thuỳ Linh
học

14

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
U. Diedrich và cs (1983) khi phân tích NST của 136 cặp vợ chồng có tiền sử sảy
thai liên tiếp đã phát hiện 15 trường hợp rối loạn NST trong đó có 11 trường hợp rối

loạn cấu trúc và 4 trường hợp rối loạn số lượng NST [28].
Muneera Al Hussain (2000) khi phân tích các rối loạn NST ở các cặp vợ chồng
sảy thai liên tiếp đã phát hiện 15 trường hợp mang rối loạn NST trong đó 13 trường
hợp là rối loạn cấu trúc và 2 trường hợp rối loạn số lượng NST [65].
Khi phân tích nguyên nhân của các trường hợp sảy thai liên tiếp, M.zim và cs
(2003) nghiên cứu NST của 300 cặp vợ chồng đã phát hiện 16 trường hợp rối loạn
NST trong đó có 14 trường hợp là rối loạn cấu trúc và 2 trường hợp rối loạn số
lượng NST [17].
Năm 2005 Dubey và cs phân tích NST và lập karyotyp của 742 cặp vợ chồng
(1484 trường hợp) có tiền sử sảy thai liên tiếp hoặc sinh con bị dị tật bẩm sinh. Các tác
giả đã phát hiện có 9 trường hợp rối loạn số lượng NST, 22 trường hợp rối loạn về cấu
trúc NST [30].
Raizied Dehghani và cs (2006) khi phân tích di truyền tế bào của các cặp vợ
chồng có tiền sử sảy thai tái phát đã phát hiện 6 trường hợp rối loạn số lượng và 5
trường hợp rối loạn cấu trúc NST [75].
Cũng trong năm 2006, Figen Celapa và cs khi phân tích NST của 645 cặp vợ
chồng đã phát hiện 25 trường hợp mang rối loạn NST, trong đó rối loạn cấu trúc
chiếm 3,7% và rối loạn về số lượng chiếm 0.15% [32].
L.V Tavokina và cs (2007) khi nghiên cứu các bệnh nhân rối loạn sinh sản đã
phát hiện 46 trường hợp mang rối loạn NST trong đó rối loạn cấu trúc NST chiếm
89,13%, rối loạn số lượng NST chiếm 10,87% [52].
Năm 2008, Hossem Mozdarani và cs khi phân tích NST của các cặp vợ
chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh đã phát hiện có 21 trường hợp
mang rối loạn NST trong đó có 4 trường hợp là rối loạn số lượng, 17 trường hợp là
rối loạn về cấu trúc [46].
Feaza Abdel Mogib và cs (2011) phân tích tế bào các cặp vợ chồng có tiền sử
sảy thai ít nhất 2 lần ở bệnh viện Nhi, đại học Mansoura, Ai Cập đã phát hiện 9

Trương Thị Thuỳ Linh
học


15

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
trong 73 cặp vợ chồng mang rối loạn NST, trong đó 7 trường hợp là rối loạn cấu
trúc và 2 trường hợp là rối loạn về số lượng NST [31].
1.4.3.2. Sự phân bố các kiểu rối loạn nhiễm sắc thể về cấu trúc
Năm 1982, Micheles VV, Medrano C và cs nghiên cứu bất thường NST ở
220 cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp đã phát hiện các trường hợp rối loạn cấu trúc
NST, trong đó chủ yếu là chuyển đoạn hòa hợp tâm 8 trường hợp (3,6%), đảo đoạn
5 trường hợp [61].
Diedrich U và cs (1983) khi nghiên cứu những bất thường NST ở 136 cặp vợ
chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp đã phát hiện 15 trường hợp rối loạn NST trong đó
có 11 trường hợp rối loạn cấu trúc NST bao gồm: 9 trường hợp chuyển đoạn, 1
trường hợp mất đoạn và 1 trường hợp lặp đoạn [28].
Nghiên cứu của Fortuny và cs (1988) đã phát hiện 27 trường hợp có biểu
hiện rối loạn NST, trong đó có 19 trường hợp chuyển đoạn cân bằng và 8 trường
hợp đảo đoạn [36].
Muneera Al Hussain và cs (2000) khi phân tích NST của các cặp vợ chồng
sảy thai liên tiếp đã ghi nhận 13 trường hợp rối loạn cấu trúc NST bao gồm: 10
trường hợp chuyển đoạn tương hỗ, 2 trường hợp đảo đoạn và 1 trường hợp chuyển
đoạn hòa hợp tâm [65].
Khi tiến hành xét nghiệm NST của 61 cặp vợ chồng có tiển sử sảy thai liên
tiếp từ 2 lần trở lên, Jiang Jing và cs (2001) đã phát hiện 7 cặp vợ chồng có 1 trong
2 người mang rối loạn NST, trong đó có 6 người mang chuyển đoạn và 1 người
mang NST đảo đoạn quanh tâm [49].
Kết quả nghiên cứu của M. Azim và cs (2003) khi phân tích NST ở 300 cặp

vợ chồng phát hiện 14 cặp mang rối loạn cấu trúc NST, trong đó 7 trường hợp
chuyển đoạn, 5 trường hợp đảo đoạn và 2 trường hợp mất đoạn [17].
Kết quả nghiên cứu của Dubey và cs năm 2005 trong số 22 người mang
rối loạn cấu trúc NST có 19 trường hợp là chuyển đoạn và 3 trường hợp là mất
đoạn NST [30].

Trương Thị Thuỳ Linh
học

16

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Năm 2006, Razied Dehghani Firoozabadi và cs đã phân tích NST của 165
cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp đã phát hiện các trường hợp rối loạn cấu
trúc NST sau: 2 trường hợp chuyển đoạn, 1 trường hợp mất đoạn và 2 trường hợp
lặp đoạn NST [75].
Năm 2008, Hossein Mozdra và cs khi phân tích NST của các cặp vợ chồng
sảy thai liên tiếp đã phát hiện 16 trường hợp mang rối loạn NST cấu trúc gồm
các dạng rối loạn: đảo đoạn 5 trường hợp, chuyển đoạn 3 trường hợp, lặp đoạn 7
trường hợp [46].
Usha R.Dutta và cs (2010) khi phân tích NST của 1162 cặp vợ chồng có tiền
sử sảy thai liên tiếp ở vùng phía nam Ấn Độ đã phát hiện 78 trường hợp mang rối
loạn NST, phần lớn là chuyển đoạn tương hỗ cân bằng [95].
Năm 2012, Feaza Abdel Mogib và cs đã phát hiện 7 trường hợp mang rối
loạn NST về cấu trúc trong 73 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai ít nhất 2 lần. Trong
đó có 3 trường hợp là chuyển đoạn tương hỗ, 1 trường hợp chuyển đoạn hòa hợp
tâm, 2 trường hợp đảo đoạn và 1 trường hợp mất đoạn [31].

Ali karaman và Pasa Ulug (2013) khi phân tích NST của 158 cặp vợ chồng
có tiền sử sảy thai liên tiếp đã phát hiện 20 trường hợp rối loạn cấu trúc NST bao
gồm: 7 trường hợp chuyển đoạn tương hỗ, 7 trường hợp chuyển đoạn hòa hợp tâm,
4 trường hợp đảo đoạn gồm tâm động, 2 trường hợp đảo đoạn ngoài tâm [13].
Theo báo cáo của Flyn H và cs (2013) thì từ 1/1992 đến 1/2001 đã có 11.971
cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp được phân tích NST. Trong nghiên cứu này, các tác
giả đã ghi nhận 278 trường hợp rối loạn cấu trúc NST. Trong đó các kiểu rối loạn
được phân bố như sau: 177 trường hợp mang chuyển đoạn tương hỗ (chiếm 64%),
43 trường hợp mang chuyển đoạn hòa hợp tâm (chiếm 15%), 21 trường hợp đảo
đoạn NST gồm tâm động (chiếm 8%), 21 trường hợp đảo đoạn NST không gồm tâm
động (chiếm 8%), và 16 trường hợp rối loạn khác [34].
1.4.3.3. Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn tương hỗ
Theo Zarina A L và cs thì chuyển đoạn tương hỗ chiếm 0.2% trong dân số.
Tuy nhiên ở những cặp vợ chồng sảy thai trên 3 lần ở 3 tháng đầu thì tỉ lệ này có thể
tăng tới 9.2% [99].

Trương Thị Thuỳ Linh
học

17

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Kết quả nghiên cứu của Claude Stoll và cs (1981) khi phân tích NST của 122
cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp từ 3 lần trở lên phát hiện 4 trường hợp
mang chuyển đoạn tương hỗ ở các cặp NST bao gồm t(2;17), t(11;12), t(17;22),
t(5;9) [24].
Năm 1983, khi phân tích NST của 170 cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp,

Alippman –Hand và cs đã phát hiện 6 trường hợp mang chuyển đoạn tương hỗ bao
gồm: t(4;6), t(6;8), t(1;21), t(7;13), t(16;20), t(18;21) [14].
Nghiên cứu của J.P.Fryns và cs (1984) phân tích NST của 1068 cặp vợ chồng
phát hiện 33 trường hợp mang chuyển đoạn tương hỗ (chiếm 3.08%) [45].
Phân tích NST và lập Karyotype của 445 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai
liên tiếp Fortuny và cs (1988) đã phát hiện 16 cặp mang chuyển đoạn tương hỗ
(3,6%) [36].
Năm 2007, khi nghiên cứu về vai trò của chuyển đoạn NST đối với các
trường hợp sảy thai liên tiếp, Simona Farcas đã phát hiện 9 trường hợp mang NST
chuyển đoạn tương hỗ bao gồm có các dạng chuyển đoạn giữa các NST t(4;21),
t(X;4), t(7;13), t(4;16) [86].
Usha R.Dutta và cs (2010) khi phân tích NST của 1162 cặp vợ chồng có tiền
sử sảy thai liên tiếp ở vùng Nam Ấn Độ đã chỉ ra rằng phần lớn các trường hợp rối
loạn NST được tìm thấy là chuyển đoạn tương hỗ. Trong 78 trường hợp mang
chuyển đoạn tương hỗ có 3 loại chuyển đoạn giữa các cặp NST lần đầu tiên được
phát hiện bao gồm (3;14), (18;22), (X;22) [95].
Ali karaman và Pasa Ulug (2013) khi phân tích NST của 158 cặp vợ chồng
có tiền sử sảy thai liên tiếp đã phát hiện 7 trường hợp mang NST chuyển đoạn
tương hỗ bao gồm các dạng chuyển đoạn t(1;18), t(3;8), t(5;8), t(5;11), t(11;12),
t(14;17), t(16;22) [13].
1.4.3.4. Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn hòa hợp tâm
Chuyển đoạn hoà hợp tâm được công nhận là rối loạn NST phổ biến nhất
trong dân số chiếm 1.23/1000 trẻ sống và đặc biệt ở các cặp vợ chồng có tiền sử sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật thì tỷ lệ này tăng lên (Nielsen et al, 1991) [71].

Trương Thị Thuỳ Linh
học

18


Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Dưới đây là một số nghiên cứu về chuyển đoạn hòa hợp tâm ở những cặp vợ chồng
sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh:
Michels và cs (1982) đã phân tích NST của 200 cặp vợ chồng có tiền sử sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật phát hiện số lượng lớn các trường hợp mang
chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa NST số 13 và NST số 14 [61].
Năm 1983, khi phân tích NST của 170 cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp,
Alippman – Hand và cs đã phát hiện 4 trường hợp rối loạn NST kiểu chuyển đoạn
hòa hợp tâm bao gồm: 2 trường hợp chuyển đoạn giữa NST số 13 (nhóm D) và NST
số 14 (nhóm D); t(13q;14q), 1 trường hợp mang chuyển đoạn giữa NST số 14
(nhóm D) và NST số 15 (nhóm D); t(14q;15q), 1 trường hợp mang chuyển đoạn
giữa NST số 15 (nhóm D) và NST số 15 (nhóm D); t(15q;15q) [14].
Năm 1989, Therman và cs đã phát hiện các trường hợp mang chuyển đoạn
hòa hợp tâm ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp. Trong đó chuyển đoạn giữa NST
số 13 và 14 và NST số 14 và 21 là hay gặp nhất (tương ứng với 73% và 10% trong
tất cả các dạng chuyển đoạn HHT). Chuyển đoạn giữa NST số 13 và 21, giữa NST
số 13 và 22 đều là những dạng hiếm gặp [91].
391 cặp vợ chồng có con mắc bệnh Down được Stoll.C và cs (1998) phân
tích NST. Các tác giả đã phát hiện được 7 cặp vợ chồng mang NST chuyển đoạn
hòa hợp tâm giữa NST số 14 (nhuộc nhóm D) và NST số 21 (thuộc nhóm G).
Karyotyp ở những người vợ là 45,XX,t(14q;21q) và ở những người chồng là
45,XY,t(14q;21q) [88].
Năm 2003, M. Azim và cs khi nghiên cứu 300 cặp vợ chồng có tiền sử sảy
thai liên tiếp đã phát hiện 16 cặp vợ chồng mang rối loạn NST trong đó chuyển
đoạn hoà hợp tâm gặp nhiều nhất chiếm 2.3% [17].
Dubey S và cs (2005) nghiên cứu 742 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên
tiếp và sinh con dị tật đã phát hiện 4 trường hợp mang chuyển đoạn hòa hợp tâm

trong đó: 2 trường hợp chuyển đoạn nhóm D/D giữa NST số 13 và 14, 2 trường
hợp chuyển đoạn nhóm G/G gồm 1 chuyển đoạn giữa NST số 21 với 22 và 1
chuyển đoạn giữa NST số 22 và 22 [30].

Trương Thị Thuỳ Linh
học

19

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Phân tích NST trong một gia đình có tiền sử thai sản: lần đầu sinh được một
bé gái bình thường, lần 2 bị sảy và lần 3 sinh được một trẻ trai mắc bệnh Down.
Cyril cyrus và cs (2006) phát hiện ở người vợ có karyotyp bình thường là 46,XX,
nhưng chồng mang NST chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa NST số 13 (thuộc nhóm D)
với NST số 21 (thuộc nhóm G), karyotyp của chồng là 45,XY,t(13q;21q) [25].
Simona Farcas và cs (2007) phân tích NST và lập karyotype của 260 cặp vợ
chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con dị tật phát hiện 17 trường hợp rối loạn
NST dạng chuyển đoạn, trong đó chuyển đoạn hòa hợp tâm có 6 trường hợp bao
gồm: 4 trường hợp chuyển đoạn giữa NST nhóm D (trong đó, 3 trường hợp là
chuyển đoạn giữa NST số 13 và 14 và 1 trường hợp chuyển đoạn giữa NST số 13 và
15), 1 trường hợp mang chuyển đoạn NST nhóm D với nhóm G ở NST số 14 và
NST số 21, 1 trường hợp mang chuyển đoạn giữa NST trong nhóm G giữa NST số
22 và NST số 22 [86].
1.4.3.5. Sự phân bố những dạng đảo đoạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
Hình thức đảo đoạn phổ biến gặp ở người là đảo đoạn NST số 9 và chiếm 1 –
1.65% dân số nói chung [24]. Ở châu Á, tỷ lệ này được cho là thấp hơn so với các

dân tộc khác (khoảng 0,25 %) [90].
Turleau và cs khi nghiên cứu 413 cặp vợ chồng có tiển sử sảy thai liên tiếp
đã phát hiện tỉ lệ cao nhất trong các rối loạn NST là đảo đoạn NST số 9 [92].
Năm 2003, M. Azim và cs khi nghiên cứu nguyên nhân của sảy thai tái phát đã
phân tích NST của 300 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai đã phát hiện 5 trường hợp mang
đảo đoạn NST trong đó 4 trường hợp đảo đoạn quanh tâm NST số 9 [17].
Báo cáo của Lakshmi Rao và cs (2005) khi phân tích NST của 160 cặp vợ
chồng sảy thai liên tiếp. Các tác giả đã phát hiện đảo đoạn NST chiếm tỷ lệ phổ biến
trong các trường hợp rối loạn NST [54].
Năm 2007, Simona Farcas và cs đã nghiên cứu 354 cặp vợ chồng có tiền sử sảy
thai liên tiếp đã phát hiện 10 nữ và 6 nam mang đảo đoạn NST số 9. Theo báo cáo này
thì các đoạn đảo có nguy cơ bị mất hoặc sắp xếp lại trong quá trình giảm phân [86].

Trương Thị Thuỳ Linh
học

20

Cao học K20 - Sinh


Luận văn thạc sĩ khoa học
Nasrin Ghasemi và cs năm 2007 cũng đã báo cáo trường hợp của hai cặp vợ
chồng trong đó 1 người mang đảo đoạn NST số 9. Trường hợp đầu tiên là cặp vợ
chồng sảy thai liên tiếp (trong ba tháng đầu), xét nghiệm NST cho thấy người vợ có
karyotyp là 46 XX,inv(9)(p11q13) và NST của người chồng bình thường (46XY).
Cặp đôi thứ hai vô sinh không rõ nguyên nhân: NST của người vợ bình thường
(46XX ), karyotyp của chồng là 46XY,inv(9)(p11;q13) [68].
1.4.3.6. Sự phân bố các rối loạn phức tạp nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh

Rối loạn phức tạp NST là một dạng rối loạn cấu trúc rất hiếm liên quan đến ít
nhất 3 NST hoặc nhiều hơn 3 điểm đứt trên NST. Rối loạn phức tạp cũng có thể
chia thành 2 loại: rối loạn cân bằng và rối loạn không cân bằng. Trong đó rối loạn
cân bằng thường không làm thay đổi kiểu hình nhưng có nguy cơ cao trong sinh sản
như vô sinh, sảy thai hoặc sinh con dị tật. Theo kinh nghiệm của Madan và cs ở các
cặp vợ chồng mà 1 người mang rối loạn phức tạp thì nguy cơ sảy thai là 50%, nguy
cơ sinh con dị tật là 20% [59]. Những người mang rối loạn phức tạp không cân bằng
thường có nguy cơ cao chậm phát triển trí tuệ và mang nhiều dị tật khác [70].
Ulrike A Mau và cs (2000) đã báo cáo kết quả phân tích NST trong một gia đình
có một trẻ mắc bệnh Down do mang NST chuyển đoạn với karyotyp là
46,XY,t(15q;21q). Người bố có karyotyp bình thường 46,XY, người mẹ mang NST
chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa NST số 15 (nhóm D) với NST số 21 (nhóm G) và đảo
đoạn quanh tâm NST số 21, karyotyp là 45,XX,t(15q;21q),inv(21)(q21.1;q22.1) [93].
Trường hợp rối loạn phức tạp gồm NST số 9, 14 và 13 ở người phụ nữ với
tiền sử sảy thai liên tiếp được Sei Kwang Kim và cs (2001) nghiên cứu. Phân tích
NST cho thấy karyotyp của chồng bình thường, karyotyp của vợ mang rối loạn NST
cân bằng phức tạp bao gồm NST 9, 14 và 13, có 3 điểm đứt: 9p21.2, 14q21 và
13q12.2, karyotyp của vợ là 46,XX,t(9;14;13)(p21.2,q21;q12.2) [82].
Năm 2009 Priya A.Iyer và cs đã báo cáo về một trường hợp ở người phụ nữ
25 tuổi với tiền sử sảy thai liên tiếp ba lần. Khi phân tích NST phát hiện karyotyp
của người phụ nữ này mang chuyển đoạn phức tạp bao gồm NST số 7, 13 và 15,

Trương Thị Thuỳ Linh
học

21

Cao học K20 - Sinh



×