Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

luận văn về chính sách tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.87 KB, 72 trang )

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tôn giáo, tín ngưỡng là hiện tượng xã hội nhạy cảm và có ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội của nhiều quốc gia,
dân tộc. Hình thái sơ khai đầu tiên của tôn giáo xuất hiện từ cách đây hàng
vạn năm. Đã có ý kiến cho rằng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật hiện
đại thì tôn giáo sẽ không còn chỗ đứng trong xã hội loài người. Nhưng tôn
giáo, tín ngưỡng vẫn hiện hữu, tồn tại không chỉ với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội mà còn là một tổ chức xã hội.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, có lịch sử hàng nghìn năm văn hiến.
Tôn giáo, tín ngưỡng đã trở thành một bộ phận của văn hoá truyền thống. Ở
Việt Nam, bên cạnh sự tồn tại của các tín ngưỡng bản địa, còn có sự hiện diện
của các tôn giáo thế giới. Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng ở nước ta, các tôn
giáo có sự hòa hợp lẫn nhau. Trong quá trình lịch sử, có lúc giữa các tôn giáo
có sự cạnh tranh phức tạp nhưng chưa bao giờ xảy ra chiến tranh tôn giáo.
Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam không chỉ là “việc đạo” mà còn là “việc đời”
những người theo đạo còn mong muốn có cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”.
Trên thực tế, tình hình đời sống tôn giáo luôn có những vấn đề nhạy
cảm. Chiều hướng gia tăng của tôn giáo trong giai đoạn hiện nay gắn với
những biến đổi trong tâm lí xã hội. Các thế lực thù địch còn luôn mưu toan sử
dụng tôn giáo làm công cụ thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” chống
phá công cuộc xây dựng đất nước ta. Chính vì vậy mà từ trước đến nay, Đảng
và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến vấn đề tôn giáo.


Xuất phát từ lý do trên, người nghiên cứu đã quyết định chọn đề tài
“Tìm hiểu chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo từ 1986 đến nay”
làm đề tài khoá luận tốt nghiệp cử nhân Triết học của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Đã có những công trình nghiên cứu về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam


trong đời sống hiện nay và qua đó đề cập đến những chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về tôn giáo trong đó có cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
tôn giáo ở Việt Nam”, “Về tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay”…của GS. Đặng
Nghiêm Vạn.
Cuốn “Một số hiểu biết về tôn giáo Việt Nam” của Tổng cục chính trị,
cũng đã khái quát tình hình chung của tôn giáo nước ta trong những năm sau
đổi mới. Đồng thời cuốn sách này cũng đã nêu những quan điểm của Đảng và
Nhà nước về tôn giáo và một số chính sách cụ thể về tôn giáo.
Cuốn sách “Một số chuyên đề về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam” do TS.Đoàn Minh Huấn chủ biên đã khái quát quan điểm chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, nêu lên chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta với tôn giáo qua các thời kì.
Trong những năm gần đây, tình hình tôn giáo ở Việt Nam có nhiều biến
động phức tạp. Một số đã lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược “diễn biến
hoà bình” phản động làm cho tình hình tôn giáo nước ta càng phức tạp hơn.
Trên những tạp chí nghiên cứu chuyên ngành cũng có nhiều nghiên cứu về
tình hình tôn giáo hiện nay và chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn
giáo.
Bài báo của GS. Đặng Nghiêm Vạn “Về chính sách tự do tôn giáo ở
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4/ 2000.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương, “Quan hệ giữa Nhà nước và tôn giáo ở
Việt Nam những năm gần đây”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 3/ 2007.
Tác giả Nguyễn Khắc Huy, “Tiến trình luật pháp tôn giáo ở Việt Nam
từ năm 1990 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1/2007. Ngoài ra còn
2


có những công trình nghiên cứu về tôn giáo Việt Nam, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước là những khoá luận, luận văn tốt nghiệp. Những
nghiên cứu đó tập trung về vấn đề cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chính

sách tôn giáo. Khoá luận tốt nghiệp khoa Triết học, ĐH KHXHNV “Cơ sở lý
luận và thực tiễn trong chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay” của Mai Thị Lĩnh.
Nhìn chung những nghiên cứu trên tập trung nghiên cứu đến tôn giáo
nói chung, tình hình tôn giáo, cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta, nhưng chưa đi sâu vào tìm hiểu chính sách của
Đảng và Nhà nước về tôn giáo. Việc tìm hiểu chính sách tôn giáo nước ta là
một vấn đề không dễ. Với trình độ có hạn người nghiên cứu đề tài mạnh dạn
trình bày hiểu biết của mình về vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt trong giai đoạn từ 1986 đến nay.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích:
Đề tài tìm hiểu về cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo. Đồng thời tìm hiểu quan điểm của Đảng,
một số chính sách cụ thể của Nhà nước về tôn giáo trong giai đoạn từ 1986
đến nay.
Nhiệm vụ:
- Khảo cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm của Hồ
Chí Minh về tôn giáo đây chính là cơ sở lý luận cho chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về tôn giáo. Tìm hiểu cơ sở thực tiễn của chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về tôn giáo gồm: đặc điểm đời sống tín ngưỡng và tình hình tôn
giáo ở nước ta hiện nay.
- Tìm hiểu quan điểm của Đảng, chính sách Nhà nước ta về tôn giáo
trong giai đoạn từ năm1986 đến nay.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận, cơ sở thực

tiễn của chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đề tài cũng tìm hiểu cụ
thể một số chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo từ 1986 đến nay.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đã sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật lịch sử và
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp thống nhất logic lịch sử, phương
pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục đề
tài gồm 2 chương lớn và 4 tiết.

4


Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về tôn giáo
1.1 Cơ sở lý luận của chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về tôn giáo
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Trên lĩnh vực tôn giáo, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin đã có
nhiều cống hiến lớn lao. Tuy không để lại nhiều tác phẩm chuyên về tôn giáo
nhưng các ông đã nêu rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo và đi
vào lí giải tôn giáo cgụ thể là Kitô giáo. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự
nhiên” và “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen” đã đề cập đến
ba nguồn gốc của tôn giáo bao gồm: nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức,
nguồn gốc tâm lí.
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo chính là toàn bộ những nguyên nhân và
điều kiện khách quan của đời sống xã hội làm nảy sinh, tồn tại và tái hiện
niềm tin tôn giáo trong con người. Trong đó, có những nguyên nhân và điều

kiện gắn với mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, có những nguyên nhân
gắn với mối quan hệ giữa con người và con người. Chủ nghĩa Mác- Lênin cho
rằng: sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên là một nguồn
gốc xã hội của tôn giáo. Khi con người ở trình độ sản xuất thấp, nghĩa là khi
công cụ và phương tiện lao động ở trình độ thấp thì con người cảm thấy yếu
đuối, nhỏ bé trước những hiện tượng tự nhiên. Họ không thể giải thích được
những hiện tượng thường xuyên xảy ra hoặc kì bí gây nên thảm họa cho họ
trong tự nhiên như hiện tượng sấm sét, núi lửa, động đất, nhật thực, nguyệt
thực...Họ đã cảm thấy bất lực trong cuộc đấu tranh với tự nhiên. Từ đó, con
người đã đề cao, tôn sùng tự nhiên một cách kinh sợ, thần bí hóa những sức
mạnh của tự nhiên. Như vậy, do sự phát triển thấp của công cụ lao động con
5


người đã không thể đảm bảo được kết quả mong muốn trong lao động và con
người đã tìm đến phương tiện tưởng tượng, hư ảo nghĩa là tìm đến tôn giáo.
Ngoài ra, nguồn gốc xã hội của tôn giáo còn bao gồm cả phạm vi
những mối quan hệ giữa con người với nhau. Trong đó, hai yếu tố giữ vai trò
quyết định là: tính tự phát của sự phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp, chế
độ người bóc lột người.
Ở những hình thái kinh tế xã hội trước hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa thì những mối quan hệ xã hội đã phát triển một cách tự phát. Khi đó
những quy luật của xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng, trói
buộc con người, ảnh hưởng đến số phận của họ. Trong ý thức của con người
những lực lượng này đã được thần thánh hoá và mang hình thức của những
lực lượng siêu nhiên.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp thì sự áp bức giai cấp, chế độ
bóc lột là một nhân tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo. Chính sự thống trị
bóc lột đã làm cho những người vô sản, nô lệ, nông nô trở nên mất tự do, bị
bần cùng hoá. Họ trở nên bất lực, tuyệt vọng trong cuộc sống, không thể tìm

ra được lối thoát hiện thực khỏi sự kìm kẹp của ách áp bức. Cuối cùng họ đã
tìm tới lối giải thoát cho mình khỏi hiện thực đó ở trên trời, ở thế giới bên kia.
V.I.Lênin khi bàn về tôn giáo đã viết: “Tôn giáo là một hình thức áp
bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân
dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu
cảnh bần cùng và cô độc. Sự bất lực của giai cấp bị áp bức trong cuộc đấu
tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn
ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc
đấu tranh chống tự nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ vào những
phép màu…” [22; 169-170]
Ngoài nguồn gốc xã hội thì nguồn gốc nhận thức cũng là nguồn gốc
quan trọng làm nảy sinh tôn giáo. Trước đây, người ta đã từng cho rằng nguồn
gốc nhận thức của tôn giáo là sự không hiểu biết của con người về các hiện
6


tượng xung quanh diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng hiểu như vậy là
sự đơn giản hoá vấn đề, chưa thể vạch ra được cơ chế phức tạp của quá trình
tạo ra các quan niệm tôn giáo.
Tìm hiểu nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cần phải gắn với lịch sử và
đặc điểm của quá trình nhận thức của con người. Như ta đã biết, nhận thức là
một quá trình đi từ các giai đoạn thấp đến các giai đoạn cao. Nhận thức ở giai
đoạn thấp (trực quan cảm tính) thì chưa thể sáng tạo ra tôn giáo bởi vì tôn
giáo luôn gắn với ý thức, niềm tin với cái siêu nhiên, thần thánh, mà nhận
thức trực quan, cảm tính thì chưa thể tạo ra cái siêu nhiên, thần thánh được.
Tôn giáo chỉ ra đời ở một trình độ nhận thức nhất định, và nó gắn với
sự tự ý thức của con người về bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên
ngoài. Khi biết tự ý thức thì con người mới nhận thấy được sự bất lực của
mình trước sức mạnh tự nhiên ở bên ngoài nên nảy sinh ra nhu cầu tôn giáo
để bù đắp cho sự bất lực của mình.

Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng gắn với đặc điểm của quá trình
nhận thức. Do vậy, nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng là một quá trình
hết sức phức tạp, chứa nhiều mâu thuẫn. Nó là sự thống nhất biện chứng giữa
nội dung khách quan và hình thức chủ quan, nhưng hình thức phản ánh thế
giới hiện thực càng đa dạng, phong phú bao nhiêu thì con người càng có khả
năng nhận thức thế giới bấy nhiêu. Thực chất, nguồn gốc nhận thức của tôn
giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu
mặt chủ thể của nhận thức con người, biến nó thành cái không còn nội dung
khách quan, không còn cơ sở “thế gian” nghĩa là thành cái siêu nhiên thần
thánh…[37; 34]
Bàn về nguồn gốc nhận thức của tôn giáo, Lênin đã cho rằng: “Thượng
đế siêu hình không phải là cái gì khác mà là sự tập hợp toàn bộ những đặc
tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng
tượng, tức là chính bằng phương pháp tách rời khỏi bản chất cảm tính, khỏi

7


vật chất của giới tự nhiên, lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay là
một thực thể độc lập”[24; 71]
Tôn giáo ra đời còn có nguồn gốc tâm lý. Tình cảm, cảm xúc, tâm lí
của con người trước sức mạnh của tự nhiên, sự biến động của xã hội, trước
những thử thách trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng cũng là nguyên nhân
quan trọng đối với sự ra đời và phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng.
Trong quá trình tác động vào hiện thực, do sự hạn chế trong nhận thức,
con người đứng trước quy luật tàn khốc của tự nhiên, xã hội làm nảy sinh
những tâm lí, cảm xúc như: đau buồn, cô đơn, bất hạnh…dần dần họ có ý
thức cho rằng sự tồn tại của những lực lượng siêu nhiên sùng bái “thần linh”,
“cảm giác về sự phụ thuộc”.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, những tình cảm

tích cực như lòng biết ơn, tôn kính đối với những người có công khai phá,
chinh phục các lực lượng tự nhiên hay chống lại điều ác, làm điều thiện, bảo
vệ dân lành…Từ lòng biết ơn, ngưỡng mộ đó với sự tưởng tượng giàu có của
mình, con người đã xây dựng nên những hình tượng thánh thần để tôn thờ.
Việc nghiên cứu nguồn gốc tâm lí của tôn giáo còn mang ý nghĩa thực
tiễn. Điều này giúp giải thích vì sao trong điều kiện chủ nghĩa xã hội khi mà
các nguồn gốc xã hội chủ yếu, nguồn gốc nhận thức của tôn giáo đã dần được
khắc phục mà tôn giáo vẫn còn tồn tại và phát triển.
Như vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định tôn giáo là một hiện
tượng xã hội, nguồn gốc của nó là ở trong những điều kiện tồn tại vật chất của
xã hội, trong những giai đoạn phát triển của xã hội nhất định, ở các mối quan
hệ hạn chế của con người đối với tự nhiên và con người đối với con người.
Chính vì vậy con người đóng vai trò sáng tạo ra tôn giáo nhằm đáp ứng nhu
cầu của mình.
Tôn giáo là một hiện tượng phức tạp, do đó trong lịch sử đã có nhiều
quan niệm khác nhau về tôn giáo.

8


Quan điểm của các nhà thần học cho rằng, tôn giáo là một phương thức
mà Chúa sáng tạo ra cho con người để thông qua đó thượng đế tha thứ tội lỗi
cho con người vì tôn giáo là hiện thân của Chúa. Nhà triết học Ôguýtxtanh
(354- 430) đã khẳng định chân lý của đạo Cơ đốc cho rằng: Thượng đế có sức
mạnh vạn năng, có quyền lực tuyệt đối, quá trình nhận thức của con người là
quá trình nhận thức Thượng đế, nhận thức Chúa trời. Nhận thức thượng đế chân lý tối cao đó chỉ có thể đạt được bằng lòng tin tôn giáo.
Các nhà triết học duy tâm cũng đã bàn về vấn đề tôn giáo. Chủ nghĩa
duy tâm khách quan không trực tiếp thừa nhận bản chất của tôn giáo song họ
gián tiếp thừa nhận một đấng siêu nhiên là “thượng đế” hay “tinh thần thế
giới” đã sáng tạo ra con người và chi phối con người. Các nhà triết học duy

tâm chủ quan thì lại giải thích tôn giáo từ trong ý thức của mỗi cá nhân, từ
trong tâm hồn, trong “cái tôi” của nó, từ cảm xúc chủ quan.
Chủ nghĩa Mác- Lênin với quan niệm duy vật lịch sử đã coi tôn giáo là
một hiện tượng xã hội nảy sinh từ nền tảng là xã hội hiện thực và do chính
con người sáng tạo ra. Ý thức, niềm tin tôn giáo chính là sản phẩm tất yếu của
xã hội và gắn với nhận thức của con người.
Ăngghen đã đưa ra một định nghĩa có tính chất kinh điển về tôn giáo
dưới góc độ triết học duy vật về lịch sử: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là
sự phản ánh hư ảo vào đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần
thế.”[18; 437]
Định nghĩa trên của Ăngghen đã tiếp tục khẳng định con người là chủ
thể sáng tạo ra tôn giáo. Đối tượng của sự phản ánh đó chính là sức mạnh ở
bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của họ. Khi con người ý thức được
rằng mình còn bất lực, chịu sự chi phối của tự nhiên, phải chịu nhiều bất
công, khổ cực trong xã hội thì họ tìm đến một chỗ dựa tinh thần đó chính là
tôn giáo. Do vậy, tôn giáo ra đời không chỉ là phản ánh trình độ phát triển của
9


tư duy, điều kiện sống mà còn phản ánh nhu cầu, khát vọng được che chở,
được giúp đỡ của con người.
Con người đã sáng tạo ra tôn giáo bằng phương thức hư ảo. Đặc trưng
của tôn giáo cũng chính là niềm tin vào thế giới hoang đường hư ảo của con
người, là sự phản ánh mang tính đảo hoá, chuyển hoá những gì mong muốn
tốt đẹp nhất của con người sang cái khác: “theo bản chất của nó, tôn giáo là sự
rút hết toàn bộ nội dung của con người và thế giới tự nhiên, là việc chuyển nội
dung đó sang cái bóng ma thượng đế ở bên kia thế giới thượng đế này, sau đó
do lòng nhân từ, trả lại cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của

mình” [17; 815].
Như vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định: Tôn giáo là một hiện
tượng xã hội, nguồn gốc của nó là ở trong những điều kiện tồn tại vật chất của
xã hội, trong những giai đoạn phát triển của xã hội nhất định, nghĩa là ở các
mối quan hệ hạn chế của con người với tự nhiên, con người với con người. Sự
bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội đã nảy sinh ra nhu cầu đền bù
những hạn chế trong các mối quan hệ hiện thực ở thế giới bên kia, thế giới
siêu trần gian. Vậy chức năng đền bù hư ảo chính là chức năng chủ yếu và đặc
thù của tôn giáo.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen”
(Lời nói đầu), C.Mác đã khẳng định: “sự nghèo nàn của tôn giáo một mặt thể
hiện sự nghèo nàn của hiện thực và mặt khác là sự phản kháng chống lại sự
nghèo nàn của hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp
bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần
của những điều kiện xã hội không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân.” [17; 569]
Luận điểm nổi tiếng của C.Mác: “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”
đã chỉ rõ chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo. Để hiểu đúng luận điểm này,
ta phải đặt nó trong toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và
đặt trong hoàn cảnh lịch sử thời kì bấy giờ. Lúc đó, thuốc phiện đã được sử
10


dụng như một liều thuốc giảm đau chứ không phải là thuốc gây nghiện. Sử
dụng phép so sánh này, trước tiên C.Mác đã chỉ ra mặt tiêu cực của tôn giáo.
Cũng giống như thuốc phiện, tôn giáo giúp làm nhẹ, giảm bớt nỗi đau của con
người, an ủi con người trước những bất lực của họ trong cuộc sống hàng ngày.
Tôn giáo cũng có thể gây nên những tác động tiêu cực đến con người
nếu như họ thường xuyên tách khỏi hiện thực, tiêm nhiễm những quan niệm
hư ảo. Khi đó, tôn giáo mang lại cho con người bức tranh không thật về thế

giới, và nó có thể ru ngủ, biến những người lao động thành những kẻ thụ động
cam chịu áp bức, bóc lột.
Tuy nhiên ta cũng cần hiểu luận điểm trên của Mác không chỉ vạch ra
mặt tiêu cực của tôn giáo mà còn nêu lên mặt tích cực của nó. Đó là tôn giáo
mang lại sự giải thoát về tinh thần, là liều thuốc giảm đau của quần chúng
nhân dân. Trong những điều kiện lịch sử cụ thể thì tôn giáo còn có thể làm
chỗ dựa tinh thần cho những ước muốn chân chính của quần chúng nhân dân
bị áp bức, phục vụ cho lợi ích của họ. Tôn giáo không chỉ là “biểu hiện sự
nghèo nàn của hiện thực” mà còn là “sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn
của hiện thực ấy”.
Chức năng đền bù hư ảo là chức năng chủ yếu, đặc thù và cũng là chức
năng phổ biến của tôn giáo. Lênin đã khẳng định “tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân- câu nói của Mác là hòn đá tảng cho toàn bộ quan niệm của chủ
nghĩa Mác trong vấn đề tôn giáo”. [23; 511]
Ngoài chức năng đền bù hư ảo, tôn giáo còn thực hiện chức năng thế
giới quan. Khi phản ánh về thế giới, tôn giáo phản ánh một cách tưởng tượng,
hư ảo thế giới hiện thực. Ở đó, những tri thức có thể bị xuyên tạc, bóp méo để
tạo nên một thế giới quan tôn giáo với niềm tin vào một sức mạnh siêu nhiên
thần thánh nào đó nên dẫn đến xem nhẹ đời sống hiện thực. Bức tranh của tôn
giáo về thế giới như vậy có thể tác động tiêu cực đến ý thức của giáo dân và
thái độ của họ đối với thế giới xung quanh.

11


Tôn giáo còn thực hiện chức năng điều chỉnh bằng việc tạo ra một hệ
thống chuẩn mực, giá trị đạo đức và luân lý do các tổ chức tôn giáo soạn thảo
và truyền bá. Trong đó, nó chứa đựng những quy định về khuyến khích và
ngăn cấm một cách chi tiết để điều chỉnh hành vi đạo đức xã hội của con
người, điều chỉnh thái độ đối với bản thân, gia đình và với những người khác

trong cộng đồng. Những chuẩn mực quy định này có thể được bổ sung, phát
triển qua các thời kì lịch sử phụ thuộc đặc điểm của từng dân tộc, tôn giáo,
trong đó có những quan điểm phản ánh nguyện vọng, đạo đức chân chính của
con người như: làm điều thiện, trách điều ác, không được tham lam, trộm
cắp…
Trong cuộc sống thực tế, khi con người gặp những nguy hiểm, tai biến
họ được tôn giáo an ủi và bảo đảm hy vọng. Khi con người phạm tội, tôn giáo
bày cho con người sám hối, cảm thấy an toàn, yên tâm với niềm tin được thần
linh che chở, phù hộ.
Ngoài những chức năng trên, tôn giáo còn thực hiện chức năng giao
tiếp và chức năng liên kết. Chức năng giao tiếp của tôn giáo thể hiện khả năng
liên hệ giữa những người có cùng tín ngưỡng với nhau. Trong hoạt động thờ
cúng thì giao tiếp với thánh thần được coi là giao tiếp tối cao nhất. Bên cạnh
những mối liên hệ, giao tiếp trong thờ cúng, sinh hoạt tôn giáo thì các giáo
dân còn có những mối liên hệ ngoài tôn giáo như: liên hệ kinh tế, sinh hoạt
hàng ngày, liên hệ trong gia đình…Chức năng giao tiếp đã giúp cho các giáo
dân củng cố mối quan hệ giữa những người có cùng tín ngưỡng chặt chẽ hơn,
góp phần làm ổn định trật tự xã hội.
Như vậy, các chức năng của tôn giáo đã nêu trên là hệ thống các chức
năng, trong đó, mỗi chức năng lại có thể hàm chứa trong chức năng khác. Cần
phải nghiên cứu các chức năng của tôn giáo linh hoạt trong những giai đoạn
lịch sử cụ thể. Chức năng của tôn giáo giúp chúng ta hiểu về cơ chế tác động
của tôn giáo vào ý thức và hành vi của con người. Thông qua các chức năng
của mình mà tôn giáo có thể tạo ra ở con người cái ảo tưởng về sự cần thiết và
12


lợi ích của nó đối với xã hội và thực hiện được vai trò kìm hãm sự phát triển
xã hội (trong trường hợp cụ thể).
Lênin khi nghiên cứu vấn đề tôn giáo trong quá trình đấu tranh cách

mạng đã cho rằng giải quyết vấn đề tôn giáo không chỉ là vấn đề quan niệm, ý
thức mà còn bao gồm cả các vấn đề: tổ chức tôn giáo, đội ngũ và những người
chuyên môn để hoạt động tôn giáo. Không để cho kẻ thù lợi dụng sự khác biệt
về tôn giáo để chia rẽ đấu tranh. Phải học tập cách đấu tranh với tôn giáo đó
là: giáo dục, tổ chức, rèn luyện quần chúng trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ
áp bức, bóc lột, tuyên truyền “vô thần” trong quần chúng một cách cụ thể,
sinh động. Tôn trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng không xúc phạm, ngăn
chặn, cấm đoán tôn giáo…Trong “ Diễn văn tại đại hội lần thứ I nữ công nhân
toàn Nga”(19/11/1918) Lênin đã khẳng định: “Cần phải cực kì thận trọng
trong cuộc đấu tranh chống lại các thành kiến tôn giáo. Trong cuộc đấu tranh
này, ai làm tổn thương đến tình cảm tôn giáo thì người đó sẽ gây một sự thiệt
hại lớn. Cần phải lấy tuyên truyền, lấy giáo dục mà đấu tranh. Nếu hành động
một cách thô bạo, chúng ta sẽ làm cho quần chúng tức giận, một hành động
như vậy sẽ càng gây thêm chia rẽ trong quần chúng về vấn đề tôn giáo, mà
sức mạnh của chúng ta là đoàn kết.”.
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng
là một nguyên tắc. Quyền ấy được thể hiện về mặt pháp lý và trên thực tiễn.
Đó là quan điểm nhất quán, xuyên suốt, lâu dài của Đảng Cộng sản. Căn cứ
vào bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và quy luật quá trình chuyển
biến về mặt tư tưởng của con người, những người cộng sản tôn trọng và đảm
bảo những quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng có đạo, cũng như quyền
không theo một tôn giáo nào. Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin bao gồm:
Bất kì ai cũng hoàn toàn được tự do theo tôn giáo hoặc không theo tôn
giáo nào. Việc vào đạo, chuyển đạo hay bỏ đạo trong khuôn khổ quy định của
pháp luật là quyền tự do của mỗi người. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thừa nhận
13


và đảm bảo cho mọi công dân có hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình

đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, không có sự phân biệt đối xử vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo được nhà nước thừa nhận đều bình đẳng trước
pháp luật. Giáo hội các tôn giáo có trách nhiệm động viên các tín đồ thực hiện
nghĩa vụ công dân, phấn đấu sống “tốt đời, đẹp đạo” phù hợp với lợi ích dân
tộc. Mọi người có ý thức tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của người khác,
đồng thời chống lại phần tử lợi dụng tôn giáo đi ngược lại lợi ích chung của
dân tộc. Nhà nước nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để
hành nghề mê tín dị đoan và những âm mưu lợi dụng tôn giáo vì những mục
đích chính trị phản động.
Như vậy, có thể tóm lược quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn
giáo như sau:
Về bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định tôn giáo
là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người những lực lượng ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ, là sự phản ánh trong đó những lực lượng
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.
Tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Do vậy, tôn
giáo ra đời từ chính nền tảng xã hội hiện thực do chính con người tạo ra. Khi
con người còn bị hạn chế bởi quan hệ với tự nhiên và với xã hội trong đời
sống hiện thực thì con người đã tìm đến tôn giáo như tìm đến một sự giải
thoát khỏi cuộc sống hiện thực bế tắc ấy.
Tôn giáo vốn là một hiện tượng xã hội phức tạp, vì thế nó không chỉ
thực hiện một chức năng mà thực hiện một hệ thống chức năng xã hội. Bên
cạnh chức năng chủ yếu là đền bù hư ảo, tôn giáo còn thực hiện những chức
năng khác như: chức năng thế giới quan, chức năng điều chỉnh, chức năng
giao tiếp, liên kết…
Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định cần phải tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, không được tuyên chiến với tôn giáo. Việc
khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá
14



trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Thông qua quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trí
tuệ cho con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực
của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo là những cơ sở lý luận
căn bản mà sau này Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng một cách
sáng tạo dựa vào điều kiện thực tế Việt Nam và đem lại hiệu quả to lớn cho
công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo
Trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh có một nội dung độc đáo là tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Đây chính là sự
vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, phù hợp
với điều kiện Việt Nam và đã đem lại những hiệu quả to lớn.
Hồ Chí Minh đặc biệt tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người luôn thấm nhuần tư tưởng:
không được xúc phạm làm tổn thương đến tình cảm tôn giáo của quần chúng,
tẩy trừ mọi sự phân biệt đối xử đối với tôn giáo. Quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng là một trong những quyền chính đáng của con người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn giáo dục mọi người và bản thân Người luôn gương
mẫu tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào có đạo. Trong các bài
nói, bài viết, văn bản, Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định tư tưởng nhất
quán lâu dài của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
của nhân dân. Ngay trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời ngày
3/9/1945, Người đã đề nghị: “Chính phủ ta tuyên bố tín ngưỡng tự do và
lương giáo đoàn kết”.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc soạn thảo Hiến pháp.
Ngày 9/11/1946 Quốc hội khoá I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong đó ghi nhận: nhân dân có quyền tự
do tín ngưỡng. Ngày 14/6/1955, Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh về vấn đề tín

15


ngưỡng, tôn giáo, trong đó nêu rõ nguyên tắc chủ trương cụ thể đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm giáo dục mọi người cần tôn trọng tự do tín
ngưỡng nhất là cán bộ Đảng viên. Người quan tâm công tác tuyên truyền giáo
dục cho cán bộ và cả đồng bào hiểu rõ và thực hiện tốt chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta. Người luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác tôn giáo, khen thưởng kịp thời. Đồng thời Người cũng nghiêm khắc
phê phán những phần tử lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm phương hại đến
quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào. Thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo
cũng đồng thời với việc xoá bỏ những mê tín dị đoan và hủ tục lạc hậu khác.
Hồ Chí Minh luôn tôn trọng những người đã sáng lập ra các tôn giáo
lớn, tranh thủ cảm hoá chức sắc, quan tâm đến đồng bào có đạo, động viên họ
tham gia vào sự nghiệp chung của dân tộc. Người luôn tôn trọng những giá trị
đạo đức, văn hoá tích cực của các tôn giáo. Người đã từng viết rằng học
thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo
của Chúa Giêsu có ưu điểm là lòng bác ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm
là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách
“Tam dân” thích hợp với điều kiện nước ta. Các vị ấy đều mưu cầu hạnh phúc
chung cho xã hội…và Người nguyện là học trò nhỏ của các vị ấy.
Theo Hồ Chí Minh, tôn giáo nằm trong dân tộc, số phận của tôn giáo
gắn liền với số phận của dân tộc, đất nước. Người từng chỉ rõ: “Tổ quốc được
giải phóng, tôn giáo mới được tự do”. Người cho rằng giữa đức tin tôn giáo
và bản sắc văn hóa dân tộc không mâu thuẫn nhau. Tín đồ tôn giáo trước hết
là người con của dân tộc Việt Nam, mang trong mình truyền thống tốt đẹp.
Chính vì vậy, một người có thể vừa là công dân tốt, vừa là tín đồ ngoan đạo.
Hồ Chí Minh quan niệm đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết các tín đồ,
đoàn kết lương giáo là một bộ phận quan trọng trong đại đoàn kết toàn dân

tộc. Thực hiện đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc, các tổ chức trong xã hội trong
đó có các tôn giáo và tín đồ phải đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết
16


chấp nhận những dị biệt nhưng không phương hại lẫn nhau, phát huy các
điểm tương đồng hướng đến mục tiêu chung là Tổ quốc độc lập thống nhất,
nhân dân hạnh phúc ấm no chống mọi âm mưu gây chia rẽ của các thế lực thù
địch. Người nói: “Trong Hiến pháp nước ta đã định rõ: Tín ngưỡng tự do. Nếu
ai làm sai Hiến pháp,… sẽ bị trừng phạt”. Nhưng Người cũng chỉ rõ: “Bảo vệ
tự do tín ngưỡng nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo để phản
Chúa, phản nước”. Thực hiện tự do tín ngưỡng đồng thời với việc từng bước
xoá bỏ mê tín dị đoan và các hủ tục khác. Theo Người: “Ta quan tâm quần
chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì không sợ gì cả…Nếu
giáo dục tốt thì giáo dân có thể đấu tranh…sống theo Đảng, chết theo Chúa.”
Tư tưởng, thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôn giáo nêu trên
rất chân thành và hoàn toàn phù hợp với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân,
trong đó có lợi ích của bộ phận đồng bào có đạo.
Đối với tín đồ các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm
đến đời sống tín ngưỡng của họ mà trên cương vị Chủ tịch nước, Người còn
đặc biệt quan tâm đến đời sống hằng ngày của người dân có tôn giáo. Người
nhắc nhở cán bộ cấp cơ sở phải thường xuyên chăm lo đời sống mọi mặt của
đồng bào, từ ăn, mặc, ở, đi lại, học hành đến khi ốm đau phải được chữa bệnh.
Người đã nói: giáo dân không thể chịu đói, chịu rét đi lễ nhà thờ, do vậy phải
chăm lo cho họ “phần xác” no ấm, “phần hồn” vui vẻ, các cơ sở thờ tự của
các tôn giáo như đình chùa, miếu mạo, thánh thất, nhà thờ phải được tu sửa,
bảo vệ.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo, tín ngưỡng là cơ sở lý luận quan trọng của chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nước ta. Hiện nay, trung thành với quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những quan

điểm, chính sách tôn giáo nhất quán: “đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan
trọng của khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng

17


và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công
dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật…” [9; 122-123]
1.2. Cơ sở thực tiễn của chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo
1.2.1. Đặc điểm đời sống tín ngưỡng của người Việt Nam
Việt Nam là một nước giàu truyền thống văn hoá, bản sắc văn hoá đó đã
được tạo nên bởi quá trình hàng nghìn năm văn hiến. Với vị trí địa lý nằm ở
ngã ba đường, nơi thuận tiện cho việc giao lưu văn hoá của nhiều tộc người,
của nhiều luồng văn minh, nhiều tôn giáo. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, đất
nước ta cũng luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc do vậy đã tạo nên con người Việt Nam có tinh thần dân tộc, tính cộng
đồng cao, có nhiều khả năng tiếp biến với văn hoá ngoại sinh.
Với đặc điểm đời sống sản xuất nông nghiệp nên bên cạnh cộng đồng
huyết thống, dòng họ thì người Việt còn sống trong cộng đồng làng xã, bản
mường, đất nước…Do đó, dưới góc độ tôn giáo đã nảy sinh ra các tôn giáo
ứng với quốc gia, dân tộc. Bên cạnh thờ cúng tổ tiên trong gia đình thì đạo tổ
tiên theo nghĩa rộng còn là tôn thờ các vị thần có công với cộng đồng làng xã,
với đất nước. Trong cộng đồng làng xã thờ Thành hoàng làng, đất nước thì có
quốc tổ vua Hùng.
Khi văn minh Trung Hoa và Ấn Độ vào Việt Nam những năm đầu công
nguyên, các đạo du nhập như: đạo Phật, đạo Nho, Đạo giáo đã được nhân dân
ta đón nhận. Trong thời gian này có thể nói các tôn giáo đó đã được Việt hoá,
chung sống với tôn giáo địa phương.
Tâm thức của người dân Việt Nam cũng giống như người phương Đông,
chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng Nho giáo. Trời được nhân cách hoá, dân

gian vẫn thường gọi là “ông trời”. Trong xã hội phong kiến xưa, nhà vua tức
là thiên tử - con trời, thay trời cai quản thiên hạ. Nho giáo với tư tưởng “mệnh
trời cho rằng: một triều đại thịnh hay suy là do nó có được hay mất “mệnh
trời”. Chính quan niệm đó cũng đã góp phần củng cố sự hiệu trị của các triều
đại phong kiến đương thời.
18


Đạo giáo vào nước ta mang những nét của cả Đạo giáo thần tiên và Đạo
giáo phù thuỷ. Người dân đã chịu ảnh hưởng của cả 2 ngành đạo này. Người
dân chịu ảnh hưởng của Đạo giáo phù thuỷ vì nó phù hợp với tín ngưỡng dân
gian và nó bổ sung những tín điều cần thiết cho tín ngưỡng dân gian không
có. Vì đó là con đường hy vọng để khắc phục những khổ đau xã hội và bệnh
tật của con người lúc đó, tuy nhiên những hy vọng của họ chỉ có tác dụng an
ủi. Người dân còn tin theo Đạo giáo thần tiên vì người Việt vốn có tinh thần
lãng mạn, muốn có cuộc đời dài lâu, muốn có cuộc sống tốt đẹp. Những câu
chuyện như: “Đầm dạ trạch”, “Từ Thức gặp tiên”… thể hiện mong muốn đó
của nhân dân ta xưa. [32; 85]
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Từ khi Phật giáo
được truyền bá vào Việt Nam cho đến nay đã gần 2000 năm. Phật giáo ra đời
ở Ấn Độ với những giáo lý tôn giáo nhằm cứu vớt tầng lớp bị áp bức, thống
trị thoát khỏi cuộc sống bần cùng, nghèo khổ. Triết lý của Phật giáo sâu sắc và
cao cả nhưng nó chưa chỉ ra được nguyên nhân của sự bất công trong xã hội
mà chỉ hướng con người tới cuộc sống ở thế giới bên kia. Chính vì vậy, trong
quá trình du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã cải biến về nội dung, giáo lý và
các hình thức tổ chức nên đã hoà nhập với đời sống tín ngưỡng, tinh thần của
người Việt. Phật giáo đã trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử. Có thời kì,
Phật giáo đã được phát triển mạnh và coi là quốc giáo như thời Lý- Trần, có
đóng góp nhiều vào hệ tư tưởng cũng như chính trị- xã hội của người Việt.
Nhìn chung trong lịch sử, ba đạo Nho - Phật - Lão đều cùng tồn tại

chung sống với tín ngưỡng bản địa mà không có sự bài bác, đố kị.
Đạo Nho nói đến vấn đề chính trị, đạo đức vấn đề nghĩa vụ của con
người với bề trên. Đạo Lão đề cao tính chất tự do, tự tại của con người. Đạo
Phật nêu lên con đường giải thoát khỏi vòng luân hồi, khổ ải. Trong xã hội
phong kiến xưa, do điều kiện xã hội mất ổn định nên thường đưa con người
đến những hoàn cảnh khác nhau, mà mỗi hoàn cảnh ấy về mặt tinh thần họ

19


cần dựa vào một đạo. Lúc gặp thời thì dựa vào đạo Nho, lúc thất thế thì dựa
vào đạo Lão, còn lúc nào le lói khốn khổ thì dựa vào đạo Phật [32; 93]
Vào khoảng thế kỉ XV- XVI văn minh phương Tây có mặt ở Việt Nam,
kéo theo sự có mặt của các nhà truyền giáo theo đạo Công giáo. Lúc đầu, sự
truyền bá đạo Công giáo hầu như không đạt hiệu quả. Sang đến thế kỉ XVII
thì việc truyền bá Công giáo vào nước ta mới có kết quả và có hệ thống.
Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, Công giáo đã từng bị thực dân lợi
dụng vào mục đích chính trị. Ngày nay, đồng bào Công giáo Việt Nam ngày
càng hiểu rõ Công giáo chỉ có thể nêu cao đạo lý tốt đẹp của mình khi thật sự
cùng nhịp bước dân tộc, người có đạo thực hiện tốt đời đẹp đạo cùng nhau
xây dựng cuộc sống mới công bằng, bác ái, văn minh, tôn trọng tự do tín
ngưỡng, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”.
Tóm lại, có thể nói rằng Việt Nam là một nước đa tôn giáo. Giáo sư
Đặng Nghiêm Vạn đã khẳng định: có thể tìm thấy ở đây hầu như tất cả các
hình thức tôn giáo từ Tôtem giáo, ma thuật giáo, linh vật giáo, Saman giáo…
đến các tôn giáo thế giới và khu vực. Việt Nam gần như là một bảo tàng tôn
giáo.
Trong lịch sử cũng như hiện nay, ở Việt Nam có nhiều hình thức tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau cùng tồn tại, trong đó có cả tôn giáo truyền
thống, tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập. Trên bầu trời thần thánh,

không chỉ có Đức Phật, Đức Chúa mà còn có cả một hệ thống thần thánh với
nhiên thần, nhân thần, nhiều nhân vật nửa lịch sử, nửa huyền thoại do nhân
dân sáng tạo ra.
Tôn giáo ở Việt Nam có sự đan xen, hoà quyện bổ sung và cải biến lẫn
nhau giữa các tôn giáo ngoại nhập và các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa. Các
tôn giáo ngoại nhập như Phật giáo đã kết hợp với các yếu tố tín ngưỡng bản
địa như thờ trời, thờ đất, thờ thần nông nghiệp… đã xâm nhập vào lễ thức của
người Việt và được họ tiếp nhận. Do đó, tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam có
đặc điểm nổi bật là tính đa dạng, dung hợp không có mâu thuẫn, kì thị tôn
20


giáo, không tồn tại đức tin cuồng tín. Trong lịch sử nước ta hầu như không
xảy ra chiến tranh tôn giáo.
Tuy nhiên, dù có sự pha trộn, hoà đồng tín ngưỡng, tôn giáo nhưng
trong tâm thức người Việt Nam vẫn luôn coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên. Đạo thờ tổ tiên hầu như được mọi người Việt Nam thực hiện, bất kể là họ
theo tôn giáo nào. Có thể nói không sợ sai rằng: “đạo thờ cúng tổ tiên là nền
tảng cho những tín ngưỡng khác như đạo Hoà Hảo (một trong tứ ân: ân tổ
tiên), như đạo Cao Đài (việc ma chay) nhất là đạo Nho với chữ trung, chữ
hiếu, đạo Phật phát triển một phần cũng nhờ việc đưa bát hương lên chùa”.
[35; 275]
Trong phạm vi gia đình người Việt thờ cúng tổ tiên, trong phạm vi rộng
hơn thì người Việt thờ thành hoàng làng, anh hùng dân tộc, người có công,
thờ Quốc tổ Hùng Vương. Những hoạt động này đã góp phần tạo nên một
khối liên kết tâm thức tôn giáo giữa những thành viên sống trong một cộng
đồng lãnh thổ và những cộng đồng huyết thống.
Việt Nam là nước đa tôn giáo do đó tính đa thần ở tôn giáo Việt Nam
khác hẳn với tính độc thần trong Kitô giáo hay các tôn giáo phương tây khác.
Đối với người dân thì khó có thể xác định rõ ràng họ theo tôn giáo nào

“không ít người sẵn sàng chấp nhận sự hiện diện của các vị thánh thần, tiên,
phật…thờ phụng ở đình, chùa, am. Miếu… tham gia các nghi lễ tôn giáo lớn
nhưng vẫn chăm chỉ thờ cúng tổ tiên, tổ chức hội làng”. [3; 28]
Có thể nói, đặc điểm đời sống tâm linh của người Việt là bàng bạc và
mang tính thực dụng. Họ không tôn thờ duy nhất một vị thần cụ thể mà dàn
trải niềm tin vào nhiều vị thần để mong được toại nguyện những lời cầu xin
và thoả mãn được tâm linh của mình.
1.2.2 Khái quát về tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Sau khi đất nước thống nhất, nhất là hơn chục năm gần đây, tình hình
tôn giáo đã có nhiều bước đổi khác. Nguyên nhân một phần là do: nhu cầu tôn
giáo sau một thời gian chiến tranh nay được đánh thức dậy, và do sự ngỡ
21


ngàng trước diễn biến của sự hội nhập toàn cầu với nền kinh tế thị trường mở
cửa, giao lưu với thế giới. Lúc này, các tôn giáo được độc lập về tổ chức,
người dân thuộc các tôn giáo khác nhau và người dân không theo tôn giáo
cùng đoàn kết, mong muốn góp sức xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh, hàn gắn lại những chia rẽ đã từng tồn tại do hậu quả của
chính sách chia rẽ của kẻ thù trong chiến tranh.
Theo Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn: hiện nay tình hình tôn giáo, tín
ngưỡng Việt Nam có chiều hướng phát triển: Kitô giáo bao gồm cả Công giáo
và Tin lành đang khởi sắc. Đạo Phật chấn hưng, một số đạo khác đang phục
hồi, một số “hiện tượng tôn giáo mới” xâm nhập. Đặc biệt, đạo thờ cúng Tổ
tiên trở lại mạnh mẽ, hội làng được tổ chức, ngày giỗ tổ Hùng vương được
Nhà nước coi là Quốc lễ. Những cuộc hành hương, những cuộc hầu đồng, bói
toán tử vi, nổi lên từng lúc, từng nơi, nhà chùa, thánh thất, đình đền, lăng
tẩm… được xây dựng, tu sửa. [35; 235]
Để làm rõ hơn về nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt, Giáo sư
Đặng Nghiêm Vạn cũng đã đưa ra những con số thống kê kết hợp giữa điều

tra xã hội học tôn giáo và phỏng vấn ở một số thành phố lớn như sau: Nếu
đơn thuần hỏi ông bà (anh, chị) có nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hay không?
Thì 99,47% người được hỏi là những tín đồ Kitô giáo ở Hà Nội trả lời là có,
trong khi đó, ở Huế là 100%, ở thành phố Hồ Chí Minh là 93,4%.
Cuộc điều tra về tôn giáo đã được tiến hành 2 lần: lần thứ nhất từ năm
1992 đến năm 1994, lần thứ 2 được tiến hành từ năm 1995 đến 1998. Kết quả
cuộc điều tra xã hội học tôn giáo gần đây nhất (năm 1998) đã cho thấy: vai trò
của tôn giáo trong đời sống bộ phận Kitô giáo vẫn chiếm vị trí cao trong khi
vai trò của nó lại chiếm vị trí thấp hơn trong bộ phận ngoài Kitô giáo. Bằng
cách tiến hành điều tra so sánh giữa nhu cầu tôn giáo với những nhu cầu thân
thiết nhất của con người (so sánh với 12 nhu cầu cuộc sống khác) như: tình
yêu, gia đình hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, công bằng xã hội, việc làm hợp
lí, văn nghệ thể thao, học vấn - tay nghề, bạn bè tin cậy, tiền bạc, luật pháp
22


nghiêm minh, dân chủ, kinh tế thị trường, sức khoẻ…để đánh giá được vai trò
quan trọng của tín ngưỡng, tôn giáo.
Đối với nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo ở bộ phận Kitô giáo bao giờ cũng
xếp ở một thứ hạng rất cao. Kết quả của cuộc điều tra lần 1 cho thấy nhu cầu
này ở người theo Kitô giáo được xếp thứ nhất với tỉ lệ 82,31%, đợt 2: xếp thứ
2 với tỉ lệ 78,1%.
Ngược lại, với bộ phận ngoài Kitô giáo nhu cầu đó lại luôn đứng ở thứ
hạng thấp nhất kết quả đợt 1: xếp thứ 13/13 với tỉ lệ là 27,85% đợt 2: xếp thứ
11/13 với tỉ lệ 35,9%.
Như vậy, qua kết quả cuộc điều tra đã cho thấy rằng: nhu cầu tôn giáo là
nhu cầu cần thiết của người dân không theo Kitô giáo nhưng không thường
trực và không đóng vai trò quan trọng trong đời sống như ở những người theo
Kitô giáo. Đối với người theo Kitô giáo thì nhu cầu tôn giáo vẫn xếp ở thứ
hạng cao sau tình yêu, gia đình hạnh phúc.

Kết quả của cuộc điều tra cũng cho thấy: với tâm thức đa, phiếm thần,
người Việt Nam còn tin và thờ nhiều vị thánh thần và thực hiện nhiều hành vi
tôn giáo khác. Dù có là tín đồ Kitô giáo hay theo đạo Phật thì người Việt Nam
vẫn thờ cúng tổ tiên của mình, ở bộ phận theo Kitô giáo thì tỉ lệ này có phần ít
hơn.
Thực tế cho thấy, ở nước ta sau ngày thống nhất, nhân dân trở lại với
đạo thờ tổ tiên, tu sửa, xây dựng lại nhà thờ họ. Làng xóm dựng lại ngôi đình,
tổ chức lễ hội, xây dựng thêm nhiều đền thờ những người có công với đất
nước. Ngày giỗ tổ Hùng vương chính thức được coi là ngày quốc lễ. Đạo Kitô
giáo cho phép các tín đồ tôn kính tổ tiên, các vị anh hùng dân tộc, đạo Phật
với lễ Vu Lan và việc đưa bát hương lên chùa, đạo Cao Đài, Hoà Hảo đề cao
ân đức người đã khuất…
Các tôn giáo ở Việt Nam được du nhập, hình thành, phát triển đa dạng,
đồng thời có nét đặc thù riêng. Sự phân bố tôn giáo ở nước ta cũng phức tạp.
Có những nơi tín đồ từng tôn giáo sống thành cộng đồng tương đối tập trung
23


với quy mô nhỏ, có những vùng các tín đồ sống xen kẽ với nhau và với quần
chúng không theo tôn giáo. Biểu hiện của tôn giáo ở Việt Nam cũng đa dạng
theo từng vùng, từng miền, từng dân tộc trên đất nước. Tôn giáo, tín ngưỡng
vốn là vấn đề nhạy cảm, đặc biệt đối với một nước đa tôn giáo như Việt Nam
thì đây là lĩnh vực cần quan tâm. Sau đây là tình hình một số tôn giáo cụ thể ở
nước ta.
Phật giáo
Phật giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trong các tôn giáo ở
Việt Nam. Hiện nay, số lượng tín đồ Phật giáo khoảng 10 000 000 tín đồ theo
số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ trong cuốn “Tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam” (2005). Đạo Phật được truyền vào nước ta từ những năm
đầu Công nguyên. Thời kì đầu Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ

Ấn Độ qua đường biển cùng với các thương nhân, tăng sĩ Ấn Độ.
Từ thế kỉ V đến thế kỉ X, do hoàn cảnh lịch sử, Phật giáo ở Việt Nam
dần dần chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc. Từ thế kỉ X đến XV Phật
giáo Việt Nam có bước phát triển mới cùng với nền độc lập dân tộc. Dưới thời
Lí- Trần là thời kì cực thịnh của Phật giáo, Phật giáo đã được coi là quốc đạo.
Vua Trần Nhân Tông đã sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang bản
sắc Việt Nam với tinh thần sáng tạo, nhập thế và dung hợp. Từ thế kỉ XV, vị
trí của Phật giáo nhường dần cho Nho giáo nhưng Phật giáo vẫn là một tôn
giáo quan trọng trong Tam giáo đồng nguyên.
Phật giáo ở Việt Nam có hai tông phái chính là Nam tông và Bắc tông.
Trong quá trình du nhập, Phật giáo luôn là tôn giáo hoà hợp, dung hợp với tín
ngưỡng bản địa, luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, thực dân đã lợi
dụng Phật giáo để chống phá cách mạng, nhưng không thành công. Phần lớn
các tăng ni Phật tử đều gắn bó với dân tộc, nêu cao tinh thần yêu nước cùng
nhân dân đấu tranh chống ách đô hộ thực dân. Từ năm 1954 đến 1975 là thời
kì Phật giáo có nhiều biến động.
24


Ở miền Bắc, Đại hội đại biểu Phật giáo Miền Bắc đã nhất trí thành lập
Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam. Hội đã tích cực tham gia hoạt động xã
hội và phong trào yêu nước góp phần xây dựng, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh
chống ngoại xâm, giải phóng miền Nam.
Ở miền Nam, ra đời hàng chục tổ chức Phật giáo, có sự phân rẽ một bộ
phận nhỏ bị lợi dụng vào mục đích chính trị của thực dân, nhưng tuyệt đại đa
số tăng ni Phật tử gắn bó với dân tộc, tiếp tục duy trì truyền thống yêu nước,
tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam chung cho Phật giáo cả nước
đã được thành lập. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thông qua Hiến chương và

đường hướng hoạt động là “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Đa số
tăng ni đã tiếp tục tích cực góp phần xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam
ngày một trưởng thành, khẳng định vị trí của mình trong lòng dân tộc.
Phật giáo Việt Nam có lịch sử gần hai nghìn năm, ngày nay các tín đồ,
tăng ni Phật giáo cả nước dưới sự lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
đã và đang có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới của đất
nước.
Công giáo
Công giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới. Ở Việt Nam, các giáo sĩ
phương Tây đã đến truyền đạo vào khoảng đầu thế kỉ XVI.
Thời kì kháng chiến chống Pháp, một số tổ chức, tín đồ Công giáo đã bị
thực dân lợi dụng mua chuộc vì lợi ích chính trị. Do đó, họ đã quay lưng lại
với cuộc đấu tranh cách mạng của toàn dân tộc. Thực dân cũng lợi dụng tôn
giáo để thực hiện chia rẽ, gây mất đoàn kết làm suy yếu sức mạnh của toàn
dân tộc ta.
Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, có thể nhận thấy sự phân rẽ
trong hàng ngũ chức sắc và tín đồ Công giáo. Đại bộ phận tín đồ muốn dung
hoà quyền lợi tôn giáo và dân tộc, đứng về phía kháng chiến. Tuy nhiên, đã
tồn tại một bộ phận khác cả tin vào lời tuyên truyền của kẻ thù xâm lược và
25


×