Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Đề cương bài giảng giáo dục học nghề nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 144 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Phần 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC NGHỀ NGHIỆP
Chương 1
GIÁO DỤC HỌC LÀ KHOA HỌC VỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI
1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội
1.1.1. Nguồn gốc
Giáo dục là một hiện tượng xã hội chứ không phải là một hiện tượng tự
nhiên vì:
Để tồn tại và phát triển, loài người không ngừng tác động vào thế giới khách
quan, nhận thức thế giới khách quan. Trong quá trình đó, con người tạo ra hệ thống
kinh nghiệm. Những kinh nghiệm đó bao gồm: tri thức, kĩ năng kĩ xảo, tư tưởng,
giá trị đạo đức, tiêu chuẩnh hành vi… Một xã hội chỉ phát triển đựơc nếu các thành
viên của xã hội tiếp nhận được những kinh nghiệm mà loài người đã tích luỹ được.
Và những kinh nghiệm đó được lưu giữ ở nền văn hoá nhân loại, được tiếp nối qua
các thế hệ. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, thế hệ trước không
ngừng truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ sau, thế hệ sau lĩnh hội những kinh
nghiệm đó để tham gia vào cuộc sống lao động và các hoạt động xã hội nhằm duy
trì và phát triển xã hội loài người. Sự truyền thụ và lĩnh hội đó gọi là giáo dục. Như
vậy giáo dục là một hiện tượng của xã hội, thể hiện ở việc truyền đạt những kinh
nghiệm mà loài người đã tích luỹ được từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên,
trong quá trình lĩnh hội kinh nghiệm đó thế hệ sau còn bổ sung và làm phong phú
thêm.
Trong quá trình tiến hoá nhân loại, giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện
của xã hội loài người. Mới đầu, giáo dục chỉ đơn thuần là sự truyền thụ và tiếp thu
kinh nghiệm lao động sản xuất. Sự xuất hiện chữ viết làm cho quá trình truyền thụ
và lĩnh hội kinh nghiệm, tri thức… diễn ra có tổ chức, chuyên biệt. Ngày nay, giáo
dục trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, thiết kế theo một kế hoạch chặt


chẽ có phương pháp, phương tiện hiện đại, góp phần tạo ra động lực thúc đẩy sự
phát triển xã hội.
1.1.2. Tính chất của giáo dục
1.1.2.1 Tính phổ biến, vĩnh hằng
Giáo dục tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Tồn tại vĩnh viễn cùng với sự tồn tại của xã hội loài người. Ở bất cứ giai
đoạn lịch sử nào, một quốc gia, dân tộc nào đều có giáo dục. Và giáo dục cũng
diễn ra trong toàn bộ cuộc đời mỗi con người.
1.1.2.2 Tính lịch sử
Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau có một nền giáo dục khác nhau. Vì mỗi giai
đoạn phát triển của xã hội loài người, giáo dục cũng chịu sự quy định bởi trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển của mỗi giai đoạn trên tiến
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

trình vươn tới đỉnh cao; mặt khác nó cũng tác động tích cực vào sự phát triển của
lịch sử.
Tính lịch sử của giáo dục là cơ sở của các cuộc cải cách giáo dục trong lịch
sử ở nứơc ta cũng như các nước khác trên thế giới. (nước ta đã tiến hành 3 cuộc cải
cách giáo dục: lần 1 – 1950, lần 2 – 1956, lần 3 – 1979).
1.1.2.3 Tính giai cấp
Sự phân chia xã hội thành giai cấp đã làm cho giáo dục mang tính giai cấp.
Giáo dục được sử dụng như một công cụ của giai cấp cầm quyền để duy trì quyền
lợi của mình thông qua mục đích-nội dung-phương pháp giáo dục.
VD: Trong xã hội phong kiến, xã hội chia thành giai cấp thống trị - địa chủ,
giai cấp bị trị - nông dân. Giáo dục trong xã hội phong kiến được giai cấp địa chủ

sử dụng như là công cụ để duy trì trật tự, phục vụ quyền lợi của giai cấp địa chủ.
Vì vậy mục đích giáo dục là đào tạo mẫu người quân tử để làm quan, làm người
lãnh đạo, nội dung giáo dục nằm trong tứ thư, ngũ kinh; phương pháp giáo dục
mang tính giáo điều.
1.1.2.3. Tính dân tộc
Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có một truyền thống lịch sử, nền văn hoá
riêng, giáo dục ở mỗi nước phản ánh trình độ phát triển của lịch sử nước đó và có
những nét độc đáo bản sắc riêng thể hiện trong nội dung, phương pháp và trong
sản phẩm giáo dục của mình.
Sự sao chép, bắt chước một cách máy mô hình giáo dục của bất cứ một nước
nào đều là phản khoa học.
1.1.3. Chức năng của giáo dục
1.1.3.1 Chức năng tư tưởng - văn hoá
- Giáo dục có tác động to lớn đến việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối
toàn xã hội.
- Nhờ có giáo dục mà trình độ học vấn của người dân trong một đất nước
được nâng cao. Trong đó làm xuất hiện, bồi dưỡng, trang bị cho toàn xã hội có
trình độ dân trí thông qua quá trình truyền đạt và lĩnh hội, nhờ đó người học tích
luỹ, mở mang trí tuệ, hình thành văn hoá đạo đức. Họ không chỉ là người tiếp thu
nền văn hoá mà còn bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc và trên thế giới.
- Giáo dục đã xây dựng một lối sống phổ biến cho toàn xã hội.
VD: Sau khi nước Việt Nam DCCH ra đời, 95% dân số mù chữ. Nhờ sự
quan tâm phát triển giáo dục của Đảng và chính quyền mà sau một năm đã có hàng
triệu người biết đọc biết viết. Trải qua 2 cuộc chiến tranh, giáo dục đào tạo vẫn
được quan tâm và thu được những thành tựu to lớn. Năm 2000 nước ta đã tuyên bố
phổ cập giáo dục Tiểu học, hiện nay phần lớn các tỉnh đã phổ cập THCS và đang
tiến tới phổ cập THPT.
1.1.3.2 Chức năng kinh tế - sản xuất
2



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Chức năng kinh tế sản xuất của giáo dục được thể hiện thông qua việc đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Đất nước muốn phát triển phải có đủ nhân lực và nhân lực phải phát triển
với trình độ tay nghề, trình độ kỹ thuật cao đảm bảo cho xã hội vận động đúng quy
luật.
Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài là việc làm quan trọng, là một sứ mệnh của
giáo dục cần phải thực hiện. Trong xã hội hiện đại, khi nền khoa học công nghệ và
những thành tựu thế giới đạt đến trình độ phát triển cao, đòi hỏi người lao động
phải có trình độ cao, tay nghề vững, đặc biệt phải có tính năng động sáng tạo, có
khả năng linh hoạt để giải quyết mọi vấn đề của thực tiễn đầy biến động.
1.1.3.3 Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục là con đường chủ đạo hình thành và phát triển nhân cách nên giáo
dục đã tác động đến các bộ phận hợp thành cấu trúc xã hội. Sự phân tầng xã hội,
các nhóm trong xã hội, các quan hệ xã hội giữa chúng đều chịu sự tác động sâu sắc
bởi giáo dục.
Giáo dục thúc đẩy quá trình di chuyển xã hội, vì vậy nó tác động trực tiếp
đến cấu trúc xã hội.
Giáo dục luôn chịu sự chi phối bởi tư tưởng của giai cấp thống trị, thông qua
giáo dục giai cấp thống trị củng cố địa vị, quyền lực của mình.
1.2. Giáo dục học là khoa học
1.2.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học là quá trình giáo dục với tư các h là
một quá trình xã hội hình thành và phát triển nhân cách con người được tổ chức chỉ
đạo một cách có ý thức và có mục đích.
Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học nghề nghiệp là quá trình giáo dục

nghề nghiệp với các quy luật, mối quan hệ trong quá trình giáo dục nghề nghiệp
gồm: mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp, điều kiện giáo dục …
1.2.2 .Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu sâu sắc thực tế giáo dục nghề nghiệp với tất cả các mâu thuẫn
của nó để tìm ra mối quan hệ bản chất có tính quy luật của quá trình giáo dục đào
tạo nghề nghiệp và xác định các phạm trù các khái niệm cơ bản của giáo dục nghề
nghiệp.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa mục đích với nội dung, các hình thức tổ chức
và phương pháp giáo dục của giáo dục nghề nghiệp, từ đó vạch ra con đường thực
hiện mục đích giáo dục, đưa ra định hướng, hướng dẫn có cơ sở khoa học để tổ
chức quá trình giáo dục nghề nghiệp.
Nghiên cứu hoạt động của giáo dục nghề nghiệp: bao gồm hoạt động của
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đào tạo, nghiên cứu những đặc điểm yêu cầu
của nhà giáo dục và người được giáo dục, mối quan hệ giữa người được giáo dục
3


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

với người giáo dục, hoạt động của các cơ sở đào tạo, qua đó đưa ra chỉ dẫn cụ thể
cho các hoạt động giáo dục đào tạo ở phạm vi nhà trường.
1.2.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu giáo dục học, được chia thành 3 nhóm phương
pháp sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Là phương pháp thu thập thông tin lý luận từ các nguồn tài liệu (văn kiện,
tạp chí khoa học, các sách chuyên khảo…)
Gồm các phương pháp: phương pháp phân tích - tổng hợp lý thuyết, phương

pháp mô hình hóa, phương pháp phân loại, hệ thống hóa, phương pháp lịch sử…
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát: Trực tiếp xem xét các hiện tượng giáo dục theo
một chương trình, một kế hoạch chủ động, có mục đích nhằm thu thập những số
liệu, sự kiện cụ thể đặc trưng cho quá trình diễn biến của hiện tượng để rút ra kết
luận và kiến giải hợp lý.
+ Phương pháp điều tra: Là phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa
học xã hội và nghiên cứu giáo dục học nói riêng. Là phương pháp sử dụng bảng
câu hỏi đã được soạn sẵn với một hệ thống câu hỏi đặt ra cho đối tượng nghiên cứu
nhằm thu thập những thông tin phục vụ cho vấn đề nghiên cứu và nó được sử dụng
nghiên cứu đối tượng giáo dục trên diện rộng.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của thầy và trò để phát hiện
trình độ nhận thức, phương pháp, chất lượng hoạt động của họ để tìm giải pháp
nâng cao chất lượng quá trình giáo dục.
+ Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu kinh nghiệm
là để phát hiện và phổ biến những thành tựu và kinh nghiệm tốt của giáo viên, cán
bộ quản lý. Phương pháp này giúp phát hiện ra các vấn đề cần giải quyết, nêu các
giả thuyết kiến nghị, các giải pháp để cải tiến và hoàn thiện quá trình sư phạm.
+ Phương pháp thực nghiệm: Người nghiên cứu đề xuất những giả thuyết
mới rồi tác động hoặc tạo ra sự tác động, sau đó rút ra kết luận và phân tích, khái
quát thành lý luận về những mối liên hệ trong điều kiện mới.
+ Phương pháp chuyên gia: Là phương pháp thu thập thông tin khoa học
đánh giá bằng một sản phẩm khoa học bằng cách sử dụng trí tuệ một đội ngũ
chuyên gia có trình độ cao về một lĩnh vực nhất định nhằm phân tích hay tìm ra
giải pháp tối ưu cho sự kiện giáo dục nào đó. Phương pháp này được thực hiện
thông qua hội thảo, đánh giá, nghiệm thu công trình khoa học.
+ Phương pháp đàm thoại: Là phương pháp nghiên cứu bổ trợ hoặc độc lập
nhằm làm sáng tỏ những vấn đề chưa rõ khi quan sát. Phương pháp này được tiến
hành thông qua tác động trực tiếp giữa người hỏi và người được hỏi nhằm thu thập
thông tin phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu.

- Nhóm phương pháp toán học (nhóm phương pháp hỗ trợ)
4


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Gồm các phương pháp: xác suất, thống kê, tập hợp… để xử lý số liệu, tài
liêu thu thập được từ các phương pháp khác nhau để có đựơc những số liêu khái
quát, chính xác, tin cậy về đối tượng nghiên cứu.
Các phương pháp được lựa chọn và sử dụng tuỳ theo mục đích, nội dung và
đặc điểm của từng đối tượng nghiên cứu. Trong một đề tài nghiên cứu người ta
thường sử dụng nhiều phương pháp mang tính tích hợp để đạt được mục tiêu
nghiên cứu.
1.2.4. Những khái niệm cơ bản
Giáo dục (Education)
- Theo nghĩa khái quát: Giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu tri thức,
kinh nghiệm xã hội lịch sử giữa các thế hệ qua các giai đoạn phát triển xã hội.
- Theo nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình có mục đích, có tổ chức và hệ thống
nhằm hình thành nhân cách, bao gồm toàn bộ quá trình giáo dục với tất cả các mặt
tổ chức vầ tác động của nó.
Quá trình giáo dục theo nghĩa rộng (hay còn gọi là qúa trình sư phạm tổng
thể) gồm 2 quá trình bộ phận: quá trình dạy học và quá trình giáo dục (theo nghĩa
hẹp).
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là quá trình hình thành cho người được giáo dục
những phẩm chất đạo đức theo những tiêu chuẩn nhất định.
Tự giáo dục (Self-educated)
Tự giáo dục là sự đấu tranh với chính bản thân mình trong qúa trình tiếp thu
các yêu cầu và tác động giáo dục của xã hội, làm cho các yêu cầu và tác động đó

chuyển thành nhu cầu và kích thích bên trong của chính ngừơi được giáo dục.
Hay tự giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích của cá nhân hướng vào
việc xây dựng, hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của bản thân cho phù hợp
với những quan niệm giá trị và những định hướng xã hội được hình thành do tác
động của giáo dục, của điều kiện sống.
Đào tạo (Training)
Đào tạo được hiểu như là qúa trình truyền thụ và lĩnh hội một hệ thống tri
thức nhất định đã được khái quát hoá trong các ngành khoa học tự nhiên và xã hội,
khoa học kỹ thuật và tư duy con người, các kỹ năng kỹ xảo và năng lực nhận thức
để hình thành nhân cách nghề nghiệp, quá trình này được thực hiện chủ yếu thông
qua vịêc dạy học theo các chuyên môn.
Dạy học (Teaching)
Dạy học là hoạt động có tổ chức gồm 2 hoạt động dạy và học, 2 hoạt động
nay diễn ra trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau trong một quá trình thống nhất.
Dưới sự tổ chức của người thầy, trò hoạt động tích cực tiếp thu kiến thức, kỹ năng,
thái độ và phát triển trí tuệ.
Giáo dưỡng
5


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Là quá trình cung cấp cho người học nội dung học vấn mà cốt lõi của học
vấn là hệ thống tri thức khoa học, cơ bản, hiện đại; hệ thống kỹ năng kỹ xảo tương
ứng, đặc biệt là thái độ với tự nhiên, xã hội và đối với bản thân, giúp họ đủ điều
kiện bước vào cuộc sống tự lập, cống hiến nhiều cho xã hội.
Công nghệ giáo dục
Không chỉ là việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật vào quá trình giáo dục,

dạy học mà đó là quá trình tích hợp nhiều lĩnh vực khoa học hiện đại nhằm làm
chất lượng và hiệu quả giáo dục tối ưu.
Các khái niệm cơ bản của giáo dục học và giáo dục học nghề nghiệp thay
đổi và phát triển theo sự tiến bộ cảu khoa học sư phạm vì vậy phải tiếp cận thường
xuyên với những tiến bộ mới để cập nhật và không ngừng hoàn thiện cho bộ môn,
đồng thời đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiến của giáo dục đào tạo.

6


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Chương 2
GIÁO DỤC VÀ SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
2.1. Sự phát triển nhân cách
* Khái niệm về nhân cách
Nhân cách là bộ mặt tâm lý - đạo đức của mỗi người, đó là toàn bộ
những đặc điểm, phẩm chất tâm lý quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của
người đó.
Hay, nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân, biểu hiện
bản sắc và giá trị làm người của con người.
Nhân cách có sự thống nhất hài hoà giữa 3 cấp độ:
- Cấp độ bên trong cá nhân: Nhân cách con người được thể hiện trước tiên ở
dạng cá tính, ở sự khác biệt giữa người này với người khác. Giá trị nhân cách ở
mức độ này là ở tính tích cực của nó trong việc khắc phục những hạn chế của hoàn
cảnh và sự hạn chê tự nhiên của mình.
- Cấp độ giữa các cá nhân: Nhân cách được thể hiện trong mối liên hệ và
trong mối quan hệ mà nó tham gia trong quá trình hoạt động cộng đồng. Giá trị của

nhân cách ở mức độ này được thể hiện trong các hành vi, cử chỉ xã hội của nó.
- Nhân cách như là một chủ thể của hoạt động: Nhân cách được xem như là
một chủ thể đang thực hiện một cách tích cực, có chủ định hay không chủ định
những biến đổi trong người khác mà nó có liên quan hoặc không liên quan bằng
hoạt động của mình. Giá trị nhân cách ở mức độ này là những tác động , mà nhân
cách này gây ra đối với nhân cách khác, với những biến đổi ở nhân cách khác, dưới
sự ảnh hưởng hoạt động của nhân cách này. Đồng thời trong quá trình đó cũng tạo
ra sự biến đổi ở ngay bản thân mình, tạo thành nét đặc trưng đầy đủ và có giá trị
nhất của nhân cách ấy.
Khi xem xét một nhân cách phải xem xét trong sự thống nhất của cả 3 bình
diện trên, trong chính một nhân cách bao giờ cũng là một đại biểu của cái toàn thể,
được đánh giá thông qua thực tiễn xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách
- Quan điểm về sự phát triển
Sự phát triển là sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Sự tích luỹ và
tăng tiến về số lượng sẽ dẫn đến sự nhảy vọt về chất lượng.
- Sự phát triển của con người là sự trưởng thành cả về vật chất và tinh
thần. Sự phát triển về thể chất là sự phát triển sinh học, là sự trưởng thành về cơ
bắp, thần kinh và các cơ quan nội tạng… theo quy luật tự nhiên. Sự phát triển về
tinh thần là sự trưởng thành về tâm lý, ý thức theo quy luật tâm lý và quy luật xã
hội trên cơ sở lĩnh hội nền văn minh nhân loại. Sự phát triển về thể chất gắn liền
với sự phát triển tinh thần theo quy luật tâm, sinh lý lứa tuổi. Đó là sự biến đổi về
số lượng, chất lượng và sự chuyển hóa giữa chúng cho nhau; là bước nhảy vọt ,
7


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT


tiến lên của từng cá nhân về tài năng và phẩm hạnh phù hợp với lịch sử xã hội và
thời đại.
- Sự phát triển nhân cách
Nhân cách không có sẵn mà nó được nảy sinh, hình thành và phát triển trong
cuộc đời mỗi con người.
Sự phát triển nhân cách thể hiện ở mức độ năng lực ngày càng cao, ở bề
rộng và tính bền vững của xu hướng, tính cách ngày càng phong phú và có dấu ấn
độc đáo của riêng mình.
Sự phát triển nhân cách con người là một trong những vấn đề phức tạp của
khoa học giáo dục. Nó chịu sự tác động và là kết quả tác động của nhiều yếu tố tự
nhiên và xã hội, bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan, tự phát và có ý
thức… Có thể và cần phải nêu ra một số điều kiện cho sự phát triển nhân cách của
con người như sau:
- Đứa trẻ ra đời đã là một con người nhưng nó phải được sống trong xã hội
loài người, tiếp thu những kinh nghiệm xã hội lịch sử của loài người mới phát triển
thành một nhân cách.
- Tiền đề, khả năng của sự phát triển là đặc điểm cơ thể của đứa trẻ: giác
quan, hệ thần kinh, hệ cơ, hệ xương… là cơ sở bên trong cho sự tiếp thu kinh
nghiệm xã hội lịch sử.
- Điều kiện cho sự phát triển nhân cách là mối quan hệ của con người với
môi trường tự nhiên và xã hội.
- Nguồn gốc sự phát triển phải hiểu nó nằm ngoài cá thể, ở bên trong những
đối tượng khách thể, trong các mối quan hệ xã hội, trong những người khác. Do
vậy, nội dung, trình độ của sự phát triển nhân cách của cá thể phụ thuộc vào sự lĩnh
hội nền văn hoá xã hội. (QHXH là toàn bộ những quan hệ của con người với thế
giới đồ vật do loài người sáng tạo ra, là quanhệ của con người với xã hội, với
những người khác, với chính bản thân mình. Nền VHXH là toàn bộ những thành
tựu về vật chất và tinh thần do các thế hệ sáng tạo ra, đúc kết được và truyền từ đời
này sang đời khác.)
- Phương thức và động lực của sự phát triển nhân cách chính là hoạt động và

quan hệ giao tiếp của mỗi cá nhân để tiếp thu những kinh nghiệm tiên tiến của loài
người.
- Giáo dục có nhiệm vụ xác định mục tiêu, yêu cầu; lựa chọn nội dung, điều
kiện phương tiện; tổ chức hoạt động kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá, uốn nắn quá
trình phát triển nhân cách cho đúng với quỹ đạo, mục tiêu mà xã hội đòi hỏi.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành phát triển nhân cách
Một số quan điểm về sự phát triển nhân cách
*Quan điểm thuyết tiền định tiền định: Coi bản chất và số phận con người
được quy định trước khi người đó ra đời: “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”,
“Thông minh vốn sẵn tính trời”, “do kiếp trước”, “nhân chi sơ tính bổn thiện”…
8


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Những quan điểm trên là những quan điểm khác nhau làm cho con người
không tin tưởng vào chính mình mà chỉ chờ mong vào số phận, vào trời đất quỷ
thần. Nó làm cho con người không tự tin dũng cảm cải thiện tự nhiên, đấu tranh xã
hội và cải tạo chính bản thân mình.
* Quan điểm thuyết phân tâm
Do S.Freud – nhà tâm thần học người Áo nêu ra. Thuyết này giải thích mọi
hành vi của con người đều do sự thôi thúc của bản năng mà chủ yếu là bản năng
tính dục. Theo thuyết này con người gồm 3 khối: cái nó, cái tôi và cái siêu tôi. Mặc
dù trong con người có ý thức về đời sống hàng ngày của bản thân (cái tôi), có ý
thức về cái cao xa do thể chế xã hội, ý thức xã hội ràng buộc (cái siêu tôi) nhưng
tất cả những cái đó đều bất lực trước cái bản năng vô cùng sôi sục mãnh liệt (cái
nó), nó thúc đẩy con người đến những đam mê vô thức, những hành động bản
năng. Thuyết này khẳng định: sự đam mê tình dục nằm trong cái vô thức giữ vai

trò quan trọng bậc nhất, là trung tâm quyết định đời sống tâm lý con người, là cội
nguồn của mọi sức mạnh tinh thần của con người.
Thuyết này ra đời từ đầu thế kỷ XX đến nay vẫn thịnh hành ở phương Tây.
Họ dùng thuyết này để giải thích những hiện tượng xã hội và hành vi con người
chủ yêú quy định bởi bản năng vô thức, bản năng tính dục. Thực chất thuyết này
chỉ đi phân tích những bản năng sinh vật ở con người, khuyếc đại lên, tuyệt đối hoá
đi mà không thấy được bản chất xã hội của con người.
* Quan điểm thuyết “môi trường quyết định”
Thuyết này cho rằng: hoàn cảnh xã hội của mỗi ngừời đã định sẵn bản chất
của người đó. Họ cho rằng: trẻ em như tờ giấy trắng, mọi tác động của môi trường
sẽ ghi lên tờ giấy trắng đó một cách máy móc.
Thuyết này coi con người như thực thể thụ động tiếp thu máy móc mọi tác
động của hoàn cảnh. Hoàn cảnh xã hội của mỗi người quyết định sẵn bản chất của
con người, tốt hay xấu đều tại hoàn cảnh, tại môi trường.
Đúng là hoàn cảnh, môi trường rất quan trọng nhất là đối với trẻ em, nhưng
môi trường không tự nó quyết định tất cả. Cùng một gia đình, một nhóm người
nhưng người ta phát triển rất khác nhau.
* Quan điểm macxit về phát triển nhân cách
Con người vừa là một thực thể tự nhiên đồng thời là một thực thể xã hội.
- Con người là một thực thể tự nhiên:
Con người có nguồn gốc phát triển lâu dài trong lịch sử tiến hoá từ động vật
lên trong những điều kiện đặc biệt và đạt tới trình độ phát triển cao nhất trong giới
tự nhiên.
“Lịch sử tiến hoá của bào thai trong bụng mẹ diễn ra một sự lặp lại bằng
cách thu ngắn lịch sử hàng ngàn năm tiến hoá vật chất của các tổ tiên động vật
của chúng ta. Bắt đầu bằng côn trùng cũng như thế sự tiến hoá của trí tuệ đứa trẻ
là sự lặp lại sự tiến hóa của trí tuệ tổ tiên ít nhất là tổ tiên sau này”. Người ta ví trẻ
9



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

lên 1 tuổi giống con vượn - giải quyết nhiệm vụ giống con vượn; trẻ 14 tháng tuổi
đi như vượn người; trẻ 14 – 20 tháng tuổi phát ra những âm tiết mà vượn người
Phương Nam không thể làm được – xuất hiện “người” ở đứa trẻ.
Với tư cách là thực thể tự nhiên, con người tuân theo các quy luật sinh vật,
mang theo các đặc điểm di truyền về hình thái, giải phẫu sinh lý của thế hệ trước;
có đặc điểm riêng về giải phẫu sinh lý, hoạt động thần kinh; có nhu cầu sinh vật,
những phản xạ bản năng (ăn, ngủ, bài tiết…) Nhưng đối với một người bình
thường thì ngay cả những hành vi có tính sinh vật, bản năng cũng được con người
ý thức, cũng có tính xã hội.(VD)
- Con người là một thực thể xã hội:
+ Mac: “Bản chất con người không phải cái trừu tượng vốn có của mỗi cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các
mối quan hệ xã hội”.
+ Ăngghen: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống
con người và như thế trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phả i nói: Lao động đã
sáng tạo ra con người”. Vì lao động là quá trình không ngừng đòi hỏi con người
phải nâng cao năng lực của mình (bàn tay, cơ bắp, trí óc) để tác động vào giới tự
nhiên ngày một hiệu quả hơn, đồng thời đó cũng là quá trình hình thành phát triển
các mối quan hệ xã hôi giữa người với người ngày càng phát triển, chính quá trình
đó hình thành lên nhân cách con người.
+ Đứa trẻ ra đời không thê tự sống và phát triển. Nó phải nhờ sự chăm sóc,
nuôi dạy của người lớn mới có thê phát triển thành người được. Đó là quá trình
đứa trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội loài người đã đúc kết lại trở thành con
người của xã hội đương thời. Chính nhờ bản chất xã hội đó mà loài người không
ngừng cải tạo tự nhiên,cải tạo xã hội, hoàn thiện bản thân.
+ Sức mạnh của con người thể hiện ở chỗ tiếp thu được đến mức độ nào nền

văn minh của xã hội loài người để phát triển nhân cách của mình.
Vẫn là một con người nhưng khi đại diện cho loài thì con người là một cá
thể, khi là thành viên của xã hội thì con ngừời là một cá nhân, khi là chủ thể của
hoạt động thì con người là một nhân cách.
Từ một con người tự nhiên để phát triển thành nhân cách, con người phải
chịu hàng loạt những tác động, những chi phối của các yếu tố chủ quan và khách
quan theo quy luật tự nhiên và quy luật xã hội.
2.2.1 Yếu tố sinh học
Bẩm sinh là cái sinh ra đã có. Di truyền là sự tái tạo ở con cháu những đặc
điểm giống cha mẹ về mặt sinh lý. Các đặc điểm sinh học của mỗi con người và cả
sinh vật nói chung được ghi lại thành một chương trình độc đáo gọi là mã di
truyền. Gen là vật mang mã di truyền của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau.
Nhờ di truyền mà đặc điểm của loài người được giữ lại, được phát triển và hoàn
thiện theo con đường tiến hoá tự nhiên.
10


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Bẩm sinh di truyền là tiền đề vật chất tự nhiên cho sự hình thành và phát
triển của cá thể.
Ở mỗi con người có thể có một khả năng bẩm sinh nào đó. Nếu khả năng
này phù hợp với một loại hoạt động thì nó giúp con người thực hiện công việc ấy
một cách dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả. (Người có giọng hát hay, có chiều cao lý
tưởng…)
Những mầm mống tư chất ở một người nào đó (năng khiếu, tài năng bẩm
sinh) nếu phát hiện và bồi dưỡng kịp thời thì họ có thể trở thành thiên tài.
2.2.2 Yếu tố môi trường

Môi trường là tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống, hoạt động và phát triển nhân cách.
Môi trường gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
- Môi trường tự nhiên, gồm toàn bộ vị trí địa lý, nhiệt độ, độ ẩm, khí hậu…
ảnh hưởng gián tiếp đến sự phát triển nhân cách, vì môi trường tự nhiên có ảnh
hưởng rất lớn đến cách sống, tính chất hoạt động lao động và sự phát triển thể chất.
VD: người miền Bắc có cách sống khác với người miền Nam, người miền núi có
cách sống khác với người miền biển, đặc điểm mắt một mí của người châu Á, tóc
quăn, da đen của người châu Phi… Vị trí địa lý tự nhiên và môi trường địa lý kinh
tế tốt tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và hoạt động của con người.
- Môi trường xã hội, bao gồm các quan hệ xã hội, những thiết chế điều chỉnh
những quan hệ này. Môi trường xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân
cách, có tác dụng quyết định đến sự phát triển nhân cách.
Các thể chế chính trị, pháp luật, hệ tư tưởng, trình độ dân trí, truyền thống
văn hoá dân tộc và các quan hệ xã hội khác có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển
nhân cách của trẻ em. Trình độ sản xuất, chế độ chính trị quy định cả chiều hướng
và nội dung của nền giáo dục xã hội và cúng quy định cả chiều hướng phát triển
của từng cá nhân.
Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với cá nhân
còn tuỳ thuộc vào lập trường quan điểm của cá nhân, tuỳ thuộc vào xu hướng,
năng lực của cá nhân, bởi vì ở chứng mực nhất định con người còn tham gia vào
cải tạo môi trường.
2.2.3. Yếu tố giáo dục
Giáo dục là con đường ngắn nhất giúp thế hệ trẻ phát triển, bỏ qua những mò
mẫm không cần thiết trong cuộc đời mỗi con người. Giáo dục có vai trò chủ đạo,
quyết định phương hướng, nội dung và mức độ sự phát triển.
Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác, chi phối
sự hình thành nhân cách như:
- Bẩm sinh, di truyền
Căn cứ vào đặc điểm của hệ thần kinh, giáo dục đề ra nội dung, quy luật

giáo dục hợp lý, dựa trên đặc điểm về sự hình thành những đường liên hệ thần kinh
11


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

tạm thời. VD: căn cứ vào đặc điểm của hệ thần kinh ở từng lứa tuổi mà người ta
quy định một tiết học ở bậc tiểu học là 25 phút, các bậc học khác là 45 phút; hay để
lĩnh hội tri thức tốt nhất cần kết hợp nhiều giác quan trong học tập: tay viết, tai
nghe, mắt nhìn…; nên ôn lại bài sau khi học xong.
Giáo dục có thể giúp khắc phục những khuyết tật của cơ thể, tinh thần do
bẩm sinh hoặc rủi ro, bệnh tật giúp con người hoà nhập với cộng đồng. VD: lớp
học dành cho trẻ em chậm phát triển, trẻ em khuyết tật…
Đồng thời, phát hiện, phát triển và điều khiển những tư chất bẩm sinh ở đứa
trẻ.
- Môi trường
Giáo dục gắn cá nhân với môi trường có tổ chức nhằm phát huy ảnh hưởng
tốt và hạn chế ảnh hưởng xấu, đồng thời tham gia cải tạo môi trường.
Gia đình là môi trường sống đầu tiên của đứa trẻ. Với đặc điểm chủ yếu là
quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, giáo dục gia đình được xây dựng trên cơ
sở bền chặt, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của mỗi con người. Mức sống,
trình độ học vấn, đời sống văn hoá, thói quen, nền nếp sống của gia đình, mối quan
hệ tình cảm của các thành viên, tính mẫu mực của người lớn và phương pháp giáo
dục gia đình có ảnh hưởng hàng ngày hàng giờ đến đứa trẻ.
Nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, có đội ngũ các nhà sư phạm
được đào tạo, có nội dung chương trình chọn lọc, có phương pháp phù hợp với mọi
lứa tuổi, các phương tiện đặc thù phục vụ cho giáo dục.Giáo dục nhà trường giúp
hình thành nhân phù hợp với tiêu chuẩn và giá trị xã hội, thời đại.

Xã hội với thể chế chính trị, pháp luật, với truyền thống văn hoá, đạo đức…
được thực hiện thông qua các tổ chức nhà nước, qua dư luận xã hội, qua hoạt động
của các đoàn thể quần chúng… góp phần quan trọng cho sự phát triển nhân cách.
Gia đình, nhà trường, xã hội là 3 lực lượng giáo dục to lớn, nếu được phối
hợp chặt chẽ, cùng thống nhất một mục đích, một yêu cầu, một phương thức sẽ
đem lại kết quả giáo dục tốt đẹp.
- Tự giáo dục
Giáo dục cung cấp và bồi dưỡng cho cá nhân những tri thức nhất định để cá
nhân đó có thể tự hoạt động, giúp cá nhân lựa chọn nội dung, phương pháp để hoạt
động nhằm phát huy tính tích cực của mình.
2.3.4 Yếu tố tự giáo dục
Tự giáo dục là sự tác động của cá nhân vào hoàn cảnh nhằm thay đổi hoàn
cảnh và chính bản thân mình.
Hay tự giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích của cá nhân hướng vào
việc xây dựng, hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của bản thân cho phù hợp
với những quan niệm giá trị và những định hướng xã hội được hình thành do tác
động của giáo dục, của điều kiện sống.
12


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Tự giáo dục có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển
nhân cách. Mọi tác động giáo dục của các yếu tố khác như môi trường, bẩm sinh di
truyền và giáo dục cũng chỉ là tác động bên ngoài, sự phát triển nhân cách do
nguyên nhân bên trong đó chính là yếu tố tự giáo dục. Tất cả mọi tác động giáo
dục từ phía bên ngoài vào người được giáo dục phải được họ chấp nhận và phải có
một sự nỗ lực bản thân để đưa nội dung giáo dục vào bên trong qua đó mới có thể

hình thành và phát triển nhân cách.

13


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Chương 3: MỤC ĐÍCH, NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC VÀ HỆ THỐNG GIÁO
DỤC QUỐC DÂN
3.1 Mục đích giáo dục
3.1.1 Cơ sở xác định mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục được xây dựng trên cơ sở căn cứ vào những yếu tố sau:
- Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ;
- Nhu cầu của đất nước và thời đại đối với nhân cách người được đào tạo;
- Xu thế phát triển giáo dục đào tạo từng nước và thế giới;
- Khả năng thực hiện của hệ thống giáo dục quốc dân;
- Điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, kinh nghiệm truyền thống của dân tộc
và khả năng thực hiện của xã hội.
Mục tiêu giáo dục
- Mục đích và mục tiêu giáo dục là hai khái niệm có quan hệ mật thiết với
nhau, nhưng không phải là một. Mục đích giáo dục được cụ thể hoá thông qua các
mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu giáo dục là những chỉ tiêu, tiêu chí, những yêu cầu cụ thể đối với
từng khâu, từng nhiệm vụ, từng nội dung của quá trình giáo dục phải đạt được sau
một hoạt động giáo dục. Mục tiêu giáo dục được xây dựng trên cơ sở cân nhắc
những điều kiện hiện có và những khả năng cụ thể của nhà trường. Mục tiêu giáo
dục do Nhà nước, nhà trường đề ra cho từng hoạt động và đòi hỏi mọi người phải
phấn đấu thực hiện. Mục tiêu giáo dục là những bậc thang nối tiếp nhau dẫn đến

mục đích giáo dục.
Giữa mục đích giáo dục và mục tiêu giáo dục có mối quan hệ thống nhất
gắn bó biện chứng với nhau, là mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa cái toàn thể và cái
bộ phận , giữa cái chung và cái riêng. Mục đích giáo dục nhằm hình thành và phát
triển toàn diện con người có vai trò định hướng chỉ đạo việc xác định mục tiêu
giáo dục đào tạo cụ thể. Ngược lại, việc xác định và thực hiện tốt mục tiêu giáo
dục là nhằm hướng tới việc thực hiện và hoàn thiện mục đích giáo dục đề ra.
3.1.2 Chức năng của mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục có các chức năng sau:
- Chức năng định hướng: Mục đích, mục tiêu giáo dục là một thành tố cơ
bản của hệ thống giáo dục, là luận điểm gốc đóng vài trò chỉ đạo toàn bộ tiến trình
tổ chức và thực hiện hoạt động giáo dục; quy định nhiệm vụ, chi phối vịêc lựa
chọn nội dung, phương pháp, phương tiện, các con đường và hình thức tổ chức quá
trình giáo dục đào tạo.
- Chức năng công cụ: Mục đích, mục tiêu giáo dục là tiêu chí để đánh giá va
điều chỉnh thường xuyên vịêc thực hiện nội dung, phương thức giáo dục đào tạo
thông qua từng khâu của quá trình đó. Đồng thời là tiêu chuẩn để đánh giá thẩm
định chất lượng, hiệu quẩ quá trình giáo dục.
14


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

3.1.3 Các cấp độ của mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục gồm các cấp độ sau:
định.

- Mục đích giáo dục tổng quát: Mẫu người lý tưởng của một xã hội nhất


- Mục tiêu giáo dục thành phần: Mục tiêu đào tạo của từng bộ, từng ngành
xác định cho từng bậc học, cấp học: bậc giáo dục phổ thông, bậc đại học, bậc giáo
dục chuyên nghiệp và dạy nghề…
- Mục tiêu giáo dục chuyên ngành: cơ khí, cơ khí động lực, hàn, cơ điện tử,
điện, điện tử, may…
- Mục tiêu môn học:
- Mục tiêu bài học: kiến thức, kỹ năng, thái độ.
3.1.4 Mục tiêu giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
* Mục tiêu giáo dục
Điều 2, Luật Giáo dục (2005) quy định mục tiêu giáo dục là nhằm “đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
* Mục tiêu giáo dục thành phần
Giáo dục mầm non
Điều 22, mục tiêu giáo dục mầm non: “Giúp trẻ em phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn
bị cho trẻ em bước vào lớp 1.”
Giáo dục phổ thông
Điều 27, mục tiêu giáo dục phổ thông: “Giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chât, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân
cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân,
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học vào lớp 1.
Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những

kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông,
trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục trung học cơ sỏ, hòan thiện học vấn phổ thông và có
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy
15


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng,
trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Giáo dục nghề nghiệp
Điều 33, Luật Giáo dục 2005, quy định mục tiêu giáo dục nghề nghiệp là
nhằm “đào tạo ngừơi lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ
khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc
làm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.”
Giáo dục trung học chuyên nghiệp: đào tạo ngừời lao động có kiến thức, kỹ
năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lâp và có tính sáng
tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc.
Dạy nghề: đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ cơ
năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo.
Giáo dục đại học và sau đại học
Điều 39, quy định giáo dục đại học nhằm “đào tạo người học có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành
nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Trình độ cao đẳng: giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực
hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông
thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Trình độ đại học: giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ
năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề
thông thường thuộc chuyên ngành đào tạo.
Trình độ thạc sĩ: giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về thực
hành, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo.
Trình độ tiến sĩ: giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực
hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề khoa học
công nghệ và hướng dẫn hoạt động chuyên môn.
3.2 Nguyên lý giáo dục Việt Nam
3.2.1 Khái niệm nguyên lý giáo dục
a. Định nghĩa
Từ điển Tiếng Việt: Nguyên lý là luận điểm cơ bản của một học thuyết.
Nguyên lý như là quy luật cốt lõi chi phối một hệ thống lý luận hay quá trình vận
động nào đó. Nguyên lý đóng vai trò như là sự định hướng cơ bản dẫn dắt mục
tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức trong quá trình hoạt động.
Nguyên lý giáo dục là những luận điểm chung nhất của lý luận giáo dục, có
tính quy luật, được khái quát trên các căn cứ khoa học và thực tiễn giáo dục, có vai
trò định hướng chỉ đạo các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
16


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Nguyên lý giáo dục và nguyên tắc giáo dục là hai khái niệm gần nghĩa nhau

nhưng không phải là một. Nguyên tắc giáo dục là những luận điểm cơ bản của lý
luận giáo dục, có giá trị chỉ dẫn quá trình giáo dục (hẹp) nhằm hình thành phẩm
chất nhân cách, đạo đức cho học sinh. (Tương tự như nguyên tắc dạy học là những
luận điểm cơ bản của lý luận dạy học, có giá trị chỉ dẫn quá trình dạy học, giúp học
sinh nắm vững tri thức và hình thành kỹ năng theo chương trình dạy học.) Còn
nguyên lý giáo dục là những luận điểm khái quát mang tầm tư tưởng và có tính quy
luật của quá trìnhg giáo dục (theo nghĩa rộng), chỉ dẫn toàn bộ hệ thống giáo dục
và quá trình sư phạm tổng thể, trong đó có quá trình giáo dục và quá trình dạy học
(là hai quá trình bộ phận).
b. Cơ sở của nguyên lý giáo dục
Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của nguyên lý giáo dục trên chính là học thuyết Mác – Lênin
về sự hình thành và phát triển nhân cách. Nhân cách con người chỉ có thể hình
thành và phát triển trong hoạt động và thông qua hoạt động của con người. Tâm lý,
ý thức, nhân cách cong người là sản phẩm của hoạt động tích cực của con người.
Tính toàn vẹn và tổng hợp của hoạt động là điều kiện để hình thành nên những
nhân cách toàn vẹn và hài hoà.
Trong các loại hoạt động khác nhau, hoạt động lao động làm ra những giá trị
vật chất và tinh thần cho toàn xã hội giữ vai trò quyết định trong sự hình thành và
phát triển các thuộc tính tinh thần và thể chất của con người. Các loại hoạt động
khác (hoạt động chính trị xã hội, hoạt động nhận thức khoa học…) đều được nảy
sinh trên cơ sở hoạt động lào động sản xuất.
Việc coi trọng và tiến hành đồng thời hoạt động giáo dục và học tập và hoạt
động lao động sản xuất của học sinh, kết hợp chặt chẽ tác dụng của chúng đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách là một đảm vảo cho sự jphát triển toàn diện
và hài hoà nhân cách học sinh.
(Đặc biệt, quá trình giáo dục nghề nghiệp là một quá trình tác động qua lại
thống nhất giữa học tập và lao động, trong đó dạy thực hành nghề trong bản chất
của nó lại gắn liền chặt chẽ với quá trình lao động theo ngành nghề đào tạo. Vì
vậy, lao động và lao động sản xuất là cơ sở quyết đinh và là phương tiện để thực

hiện mục tiêu đào tạo có chất lượng và hiệu quả trong trường nghề)
Cơ sở thực tiễn
Sau đại hội Đảng lần thứ III (1960), nguyên lý giáo dục của Đảng đối với thế
hệ trẻ mà biểu hiện cơ bản của nó là sự kết hợp giữa giáo dục với lao động sản xuất
đã được triển khai rộng khắp trong hệ thống giáo dục XHCN ở miền Bắc. Trong
điển hình là trường cấp II Bắc Lý và trường thanh niên XHCN Hoà Bình.
Bắc Lý là lá cờ đầu của nền giáo dục trong những năm 60, 70 của thế kỷ XX.
Bắc Lý đã hết sức coi trọng việc trang bị cho học sinh kiến thức khoa học cơ bản,
giá trị văn hoá phổ thông, gắn hệ thống kiến thức này với những chủ trương, biện
pháp sản xuất của địa phương, điều đó tạo điều kiện cho học sinh có thể vận dụng
17


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

ngay những hiểu biết sau khi học vào thực tiễn, giúp các em hiẻu chóng, nhớ lâu,
nắm vững kiến thức lý thuyết. Bắc Lý đã rất coi trọng việc dạy trên lớp, đồng thời
sử dụng hợp lý những hình thức dạy và học ở phòng thí nghiệm, phòng truyền
thống, ở vườn trường, xưởng trường, ruộng thí nghiệm, ở những cơ sở vật chất, kỹ
thuật mới của hợp tác xã, thu hút những người sản xuất có kinh nghiệm truyền đạt
kinh nghiệm và kỹ năng lao động… tạo nên những tác động giáo dục nhiều chiều,
tận dụng được sức mạnh tổng hợp của xã hội trong quá trình hình thành nhân cách
cho tuổi trẻ. Việc tổ chức lao động sản xuất cho học sinh ở trường Bắc Lý đã gắn
kết được các hoạt động trong nhà trường với các hoạt động xã hội.
Một mô hình thực tiễn sinh động khác đạt kết quả tốt trong việc thực hiện
nguyên lý giáo dục là trường Thanh niên XHCN Hoà Bình. Đây là trường vừa học,
vừa làm, bao gồm phần lớn là những thanh niên dân tộc lớn tuổi, rất nhiều học sinh
đã kinh qua lao động sản xuất. Khác với Bắc Lý, khi việc kết hợp giữa giáo dục

với lao động sản cuất, học đi đôi với hành được thực hiện trong trường (phần giáo
dục và học tập) còn phần lao động sản xuất và thực hành được thực thi trong gia
đình, hợp tác xã, thì ở trường Thanh niên XHCN Hoà Binh sự gắn kết này được
tiến hành ngay trong trường theo một chương trình kế hoạch, nội dung thống nhất.
Lao động của học sinh trường này là để đảm bảo sinh hoạt, học tập, tích luỹ và
đóng góp cho Nhà nước. Thực tiễn của trường cấp II Bắc Lý và trường Thanh niên
XHCN Hoà Bình đã giúp chúng ta thấy rõ tác dụng lớn lao của việc thực hiện
nguyên lý giáo dục đó là: Nó không chỉ đạt tới hiêu quả về mặt giáo dục mà cả về
phương diện kinh tế, xã hội. Họ đã chứng minh được hiệu quả lớn lao của việc
thực hiện nguyên lý giáo dục thông qua những con người do họ đào tạo, đã tác
động tích cực vào sự phát trỉên kinh tế - xã hội địa phương.
3.2.2 Nội dung nguyên lý giáo dục
Điều 3, Luật Giáo dục năm 2005 khẳng định: “Hoạt động giáo dục phải
được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình, giáo dục xã hội.”
Đây là luận điểm giáo dục quan trọng của Đảng, Nhà Nước ta, là kim chỉ
nam hướng dẫn toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường và trong xã hội.
-

Học đi đôi với hành

Là tư tưởng giáo dục vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa có tính thực tiễn
vừa có tinh khoa học.
Học và hành là hai mặt của hoạt động học tập của học sinh.Trong đó học là
quá trình nhận thức chân lý khoa học, hành là luyện tập để hình thành kỹ năng lao
động và hoạt động xã hội, tức là biến kiến thức tiếp thu được thành năng lực hoạt
động của từng cá nhân.
Học và hành gắn bó chặt chẽ và hỗ trợ cho nhau. Học phải nhằm vào mục
đích để hành, phải được củng cố và nâng cao qua hành, và ngược lại hành phải

khẳng định và củng cố những điều đã học. Có như vậy quá trình học tập sẽ giảm lý
thuyết “suông”, kiến thức trở lên sâu sắc, hoạt động trở lên sáng tạo, tinh thông.
18


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Trong học tập cần sử dụng nhiều mức độ thực hành: bài tập thực hành, các
giờ thực hành, thí nghiệm trong phòng thí nghiệm, trong vườn thí nghiệm, xưởng
thực hành chuyên môn ở các trường dạy nghề, hoạt động thực hành nghiên cứu
khoa học…
Cơ sở: xuất phát từ nhận thức luận của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Nhận thức
của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu, từ tư duy trừu tượng quay
trở lại phục vụ thực tiễn”. Mục tiêu giáo dục là nhằm đào tạo con người phát triển
toàn diện.
-

Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất

Là tư tưởng giáo dục của nhà trường hiện đại.
Giáo dục lao động là một nội dung của giáo dục toàn diện, học sinh hôm nay
là những người lao động tương lai vì vậy phải chuẩn bị cho các em tâm lý, ý thức,
kiến thức và kỹ năng sẵn sàng bước vào cuộc sống lao động. (môn học: thủ công,
giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề ở phổ thông, môn nghiệp vụ, kỹ thuật sản xuất ở
dạy nghề, THCN, cao đẳng, đại học).
Một nguyên tắc giáo dục quan trọng cho học sinh là giáo dục trong lao động
và bằng lao động. (gia đình, nhà trường tổ chức cho học sinh lao động tự phục vụ
và tham gia lao động công ích xã hội để giáo dục ý thức, kỹ năng lao động cho học

sinh).
Mục đích đào tạo của các trường dạy nghề, THCN nhằm đào tạo nguồn nhân
lực cho nền kinh tế quốc dân. Để đạt chất lượng cao, các trường dạy nghề, THCN,
cao đẳng, đại học phải thường xuyên đưa sinh viên tới các nhà máy, xí nghiệp để
thực tập sản xuất.
Cơ sở: xuất phát từ vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách con người; các hoạt động khác đều được nảy sinh trên cơ sở hoạt
động lao động sản xuất; do yêu cầu của việc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội.
-

Lý luận gắn liền với thực tiễn

Là một yêu cầu quan trọng đối với quá trình giáo dục và đào tạo trong nhà
trường.
Lý luận là những kinh nghiệm đã được khái quát hóa, có tác dụng chỉ đạo,
soi đường cho thực tiễn.
Thực tiễn là tất cả những họat động của con người đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Lý luận có nguồn
gốc, nội dung, và động lực từ thực tiễn. Ngược lại, thực tiễn lại là nơi kiểm nghiệm
lý luận.
Trong giảng dạy lý luận, giáo viên thường xuyên liên hệ với thực tiễn sinh
động của cuộc sống, với những diễn biến sôi động hàng ngày, hàng giờ trong nước
và trên thế giới. Đây là những minh hoạ vô cùng quan trọng giúp học sinh nắm
vững lý luận và hiểu rõ thực tiễn. Nhờ đó, lý luận không còn khô khan, khó tiếp
19


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN


KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

thu mà trở nên sinh động là ngược lại, các sự kiện hiện tượng thực tiễn được phân
tích, soi sáng bằng những lý luận khoa học vững chắc, từ đó làm tăng chất lượng
và hiệu quả của quá trình đào tạo.
- Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
Cơ sở: xuất phát từ quan điểm bản chất con người là tổng hoà các mối quan
hệ xã hội.
Giáo dục là quá trình có nhiều lực lượng tham gia, trong đó có 3 lực lượng
quan trọng nhất: gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã hội. 3 lực lượng giáo dục
này đều có chung một mục đích là hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ
trẻ. Quá trình giáo dục sẽ đạt hiệu quả cao nhất nếu ta biết phối hợp giữa 3 lực
lượng giáo dục này.
Giáo dục gia đình là bền vững nhất. Gia đình có nền nếp, có truyền thống gọi
là gia phong. Gia đình hòa thuận, cha mẹ gương mẫu, lao động sáng tạo, có
phương pháp giáo dục tốt là gia đình có văn hoá.
Giáo dục xã hội thực hiện thông qua truyền thống, bản sắc văn hoá từng địa
phương. Địa phương có phong trào hiếu học, có nhiều người thành đạt, có bạn bè
tốt sẽ ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của trẻ em. Giáo dục xã hội còn bao
hàm giáo dục của các đoàn thể: Sao nhi đồng, Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên…
Tuy nhiên, phải lấy giáo dục nhà trường làm trung tâm. Giáo dục nhà trường
có nội dung giáo dục toàn diện, có kế hoạch, có phương pháp giáo dục phù hợp, có
đội ngũ giáo viên được đào tạo, có phương tiện phục vụ cho họat động giáo dục.
Mối liên hệ giữa 3 lực lượng giáo dục trên càng chặt chẽ, càng đem lại thành
công cho giáo dục, trong đó nhà trường phải chịu trách nhiệm chính trong sự phối
hợp với tất cả lực lượng giáo dục.
3.2.3 Biện pháp thực hiện nguyên lý giáo dục
Để thực hiện tốt nguyên lý giáo dục, cần thực hiện đồng bộ những biện pháp
sau:

- Chương trình giáo dục đào tạo có tính cân đối giữa các môn lý thuyết với
các môn thực hành, giữa nội dung lý thuyết và thực hành trong từng môn học.
- Quy trình giáo dục đào tạo phải đảm bảo sự thống nhất giữa các môn lý
thuyết và thực hành, thống nhất giữa các môn kiến thức cơ bản và các môn nghiệp
vụ, chuyên ngành.
- Tổ chức cho người học đượ thường xuyên tham gia các loại hoạt động lao
động từ lao động tự phục vụ đến lao động sản xuất. Các trường chuyên nghiệp cần
đảm bảo cho tất cả học sinh, sinh viên được thực tập nghiệp vụ ở các cơ sở sản
xuất.
- Giáo viên sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, lấy người học làm trung
tâm, thường xuyên liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Trong mỗi giờ học, người học
20


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

phải được thực hành, thí nghiệm ở các mức độ khác nhau phù hợp với mục đích và
nội dung bài học.
- Nhà trường phải có các cơ sở thực hành, thí nghiệm tuỳ theo bậc học,
ngành học, đặc biệt là các trường chuyên nghiệp, dạy nghề, ở bậc đại học, cao
đẳng.
- Nhà trường cần xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, phải chủ
động phối hợp với gia đình, các cơ quan đoàn thể để giáo dục học sinh.
- Nhà nước, nhà trường cần tạo mọi điều kiện, cơ sở vật chất và tinh thần
thuận lợi cho giáo viện và học sinh dạy và học theo nguyên lý giáo dục.
- Mở rộng những hình thức liên kết giữa nhà trường với các cơ sở kinh tế xã hội; đẩy mạnh sự liên kết, hỗ trợ giữa các nhà trường để phát huy thế mạnh của
từng trường, để giải quyết đồng bộ việc đào tạo kết hợp với lao động sản xuất.
3.3. Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam

Hệ thống giáo dục là tập hợp các loại hình giáo dục (hoặc loại hình nhà
trường) được sắp xếptheo một trình tự nhất định theo các bậc học từ thấp (mầm
non) đến cao (đại học và sau đại học).
3.3.1 Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay
Hệ thống GD quốc dân Việt Nam theo Luật GD (năm 2005) và Luật Dạy
nghề (năm 2006) được mô tả ở Sơ đồ 3.1 dưới đây.
Sau đại học
Đại học

Cao đẳng

Cao đẳng nghề

Trung cấp
chuyên nghiệp

Trung học PT

Trung học cơ sở

Trung cấp nghề

Giáo
dục
thường
xuyên

Sơ cấp nghề

Tiểu học

Mầm non

Sơ đồ 3.1: Hệ thống GD quốc dân Việt Nam
(theo Luật Giáo dục năm 2005 và Luật Dạy nghề năm 2006)
Hệ thống GD quốc dân Việt Nam gồm có:
a) GD mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, GD trẻ em từ 3 tháng
tuổi đến 6 tuổi với mục tiêu là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ
21


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

thẩm mĩ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em bước
vào lớp 1. Cơ sở GD mầm non bao gồm:
- Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi;
- Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi;
- Trường mầm non là cơ sở GD kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em từ
3 tháng tuổi đến 6 tuổi.
b) GD phổ thông có mục tiêu là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính
năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. GD phổ thông
gồm:
- GD tiểu học được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến lớp 5, nhằm
giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để HS tiếp tục học trung
học cơ sở. Tuổi của HS vào học lớp 1 là 6 tuổi.

- GD trung học cơ sở (THCS) được thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến
lớp 9, nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của GD tiểu học; có học
vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng
nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động. HS vào học lớp 6 phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là
11 tuổi.
- GD trung học phổ thông (THPT) được thực hiện trong 3 năm học, từ lớp 10
đến lớp 12, nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của GD THCS, hoàn
thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng
nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp
tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. HS
vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là 15 tuổi.
c) GD nghề nghiệp có mục tiêu là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp ở trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức
kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao
động có khả năng tìm việc làm, đáp ứng yêu cầu cần phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh. GDNN gồm:
- TCCN được thực hiện từ 3 đến 4 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp
THCS, từ 1 đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp THPT;
- Dạy nghề được thực hiện dưới 1 năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp, từ
1 đến 3 năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
d) GD đai học có mục tiêu là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo
đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp
tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. GD đai học bao gồm:
22


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN


KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

- Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ 2 đến 3 năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp
TCCN; từ 1,5 đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp TCCN cùng chuyên
ngành; giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản để
giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
- Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp
TCCN; từ 2,5 đến 4 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp TCCN cùng chuyên
ngành; từ 1,5 đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng
chuyên ngành; giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực
hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn
đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
- Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ 1 đến 2 năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp đại học; giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về
thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải
quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
- Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học, từ 2 đến 3 năm học đối với người có bằng thạc sĩ; giúp
nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu
độc lập, sáng tạo, phát hiện và giải quyết những vấn đề mới về khoa học, công
nghệ, hướng dẫn nghiên cứu khoa học và hoạt động chuyên môn. Trong trường
hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy định
của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
e) GD thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học
suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn
chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiên chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc
làm, và thích nghi với đời sống xã hội.
Hệ thống GD quốc dân có tính ổn định tương đối, nó có thể thay đổi cho phù

hợp với từng thời kỳ lịch sử trước những yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế
- sản xuât, văn hoá, chính trị, xã hội…
Văn bằng của hệ thống GD quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt
nghiệp cấp học hoặc trình độ đào tạo theo quy định của Luật GD, gồm: bằng tốt
nghiệp THCS, bằng tốt nghiệp THPT, bằng tốt nghiệp TCCN, bằng tốt nghiệp CĐ,
bằng tốt nghiệp ĐH, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ.
Chứng chỉ của hệ thống GD quốc dân được cấp cho người học để xác nhận
kết quả học tập sau khi được đào tạo hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn,
nghề nghiệp.
*Đặc điểm của những loại hình trường lớp:
Trường lớp

Trách nhiệm quản lý
điều hành và đầu tư
chính về CSVC

Trách nhiệm chính về
trả lương và chi dùng
thường xuyên
23

Ghi chú


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

Công lập

Nhà nước


Bán công

Nhà nước

Dân lập

Cộng đồng dân cư

Tư thục

Tư nhân, tổ chức xã
hội

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

Nhà nước

Nhà trường tự quản thu,
chi
Có thể có
Cộng đồng dân cư có trách
hỗ trợ của Nhà
nhiệm quản lý điều hành
nước
Cá nhân, tổ chức xã hội có
Có thể có
trách nhiệm quản lý điều hỗ trợ của Nhà
hành
nước


3.3.2. Vị trí của giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân
Đối với GD nghề nghiệp, với tư cách một hệ thống xã hội, vẫn còn nhiều
tranh luận về phạm vi của hệ thống GDNN, chủ yếu xuất phát từ phạm vi xem xét
trong phạm trù “ngành”, ”nghề”, “trình độ đào tạo“... Cho đến nay, GDNN đã và
đan được xem xét dưới ít nhất là ba quan niệm rộng, hẹp khác nhau: (1) Giáo dục
nghề nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) và Dạy
nghề; (2) Giáo dục nghề nghiệp theo nghĩa rộng hơn bao gồm các trình độ đào tạo
dưới đại học; (3) Giáo dục nghề nghiệp theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các
trình độ đào tạo.
(1) Quan niệm GDNN theo nghĩa hẹp, gồm TCCN và Dạy nghề
Các thuật ngữ ”giáo dục nghề nghiệp” và ”giáo dục chuyên nghiệp” xuất
hiện nhiều lần trong các tài liệu và văn bản về giáo dục và đào tạo của nước ta từ
trước tới nay, đây đó có sự giải thích, nhưng người ta thường sử dụng với ý nghĩa
như nhau, không phân biệt rõ. Xem xét sự phát triển theo thời gian thì, thuật ngữ
”giáo dục chuyên nghiệp” ra đời trước thuật ngữ ”giáo dục nghề nghiệp” trong lịch
sử ở nước ta, và nguồn gốc lại là từ tiếng Pháp, vì hệ thống Giáo dục nghề nghiệp
của Việt Nam ngày nay khởi nguồn là các trường đào tạo công nhân kĩ thuật từ thời
Pháp thuộc ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế và Sài Gòn, trong đó danh tiếng nhất là
Trường Kĩ nghệ Thực hành (E‟cole Pratique Professionnelle - EPP) vốn ở số nhà 2F
phố Quang Trung, Hà Nội. Sau hơn 100 năm phát triển, trường này đã đi qua nhiều
chặng đường phát triển, từ đào tạo công nhân kĩ thuật hơn nửa thế kỉ đến đào tạo
trung cấp chuyên nghiệp ngay sau ngày giải phóng Hà Nội năm 1954, rồi đến đào
tạo cao đẳng một thời gian ngắn từ 1963 với tên là trường Trung cao Cơ Điện. Sau
các chặng đường biến đổi, phân tán và sáp nhập trong và sau kháng chiến chống
Mỹ, trường này đã có địa điểm mới nhất ở Từ Liêm - Hà Nội, từ trường Cao đẳng
Công nghiệp Hà Nội đã được nâng cấp năm 2006 thành trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội với đủ các cấp học trong Giáo dục nghề nghiệp và đại học. Trường
Cao đẳng công nghiệp Huế vừa mới kỉ niệm 110 năm tồn tại. Thuật ngữ „„giáo dục
trung cấp chuyên nghiệp‟‟ đã được các nhà giáo dục lão thành dịch từ tiếng Pháp là
24



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

enseignement secondaire specialisé, còn giáo dục nghề nghiệp theo tiếng Pháp là
enseignement professionnel. Cả hai thuật ngữ tiếng Pháp ấy vẫn còn đang tồn tại
trong sơ đồ cơ cấu hệ thống giáo dục của nước Pháp hiện nay. 1
Cho đến gần đây, trong văn bản pháp lí quan trọng là Luật Giáo dục năm
1998 và Luật Giáo dục năm 2005, thuật ngữ ”Giáo dục nghề nghiệp” được sử dụng
với ý nghĩa xác định và rõ ràng là bao gồm dạy nghề và trung học chuyên nghiệp
(THCN), nay là TCCN. Dạy nghề lại được phân ra cụ thể hơn nữa trong Luật giáo
dục năm 2005 và Luật Dạy nghề năm 2006: Dạy nghề có các trình độ đào tạo là sơ
cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề.
(2) Quan niệm GDNN theo nghĩa rộng hơn, bao gồm các trình độ đào tạo dưới
đại học
Như trên đã đề cập, theo Luật Giáo dục, TCCN chỉ là một bậc trình độ trong
hệ thống GDNN, trong khi đó Dạy nghề lại có 3 trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp
nghề và cao đẳng nghề. Tuy nhiên, ngày nay, đối với nhiều ngành nghề đào tạo ở
trình độ TCCN truyền thống có sự phân hoá mục tiêu đào tạo theo hướng nâng lên
cao hơn về kiến thức và kĩ năng ở trình độ cao đẳng do đòi hỏi cao hơn của chỗ làm
việc dưới tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ và tổ chức sản xuất đối với
người tốt nghiệp. Như vậy, trong Luật Giáo dục năm 2005 và trong thực tiễn Giáo
dục nghề nghiệp ở nước ta, dường như khái niệm Giáo dục nghề nghiệp đã có dấu
hiệu được mở rộng và cần phải được mở rộng hơn so với quan niệm truyền thống.
(3) Quan niệm GDNN theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các trình độ
đào tạo
Nhiều người cho rằng kể cả đại học, cao đẳng cũng đều là ”dạy nghề”, như
vậy GDNN bao gồm toàn bộ các trình độ đào tạo và sản phẩm của GDNN là tất cả

các loại hình và trình độ lao động kĩ thuật đã qua đào tạo. Điều đó là hoàn toàn
đúng theo nghĩa người tốt nghiệp từ bất cứ trình độ đào tạo nào cũng đều phải
tham gia vào cuộc sống lao động nghề nghiệp, tức là có một ”nghề” nào đó ở một
trình độ nhất định để bảo đảm cho cuộc sống bản thân và gia đình, đồng thời góp
phần vào việc xây dựng quê hương, đất nước. Tuy nhiên, dưới góc độ mục đích,
nội dung, phương thức đào tạo có sự khác nhau cơ bản giữa giáo dục đại học và
sau đại học với các trình độ giáo dục khác, ít nhất là với TCCN và Dạy nghề, vì
vậy nên chăng cần có sự phân biệt giữa GD đại học với các trình độ đào tạo khác
trong cơ cấu khung hệ thống GD quốc dân. Nhiều nước bố trí hệ thống GDNN hay
hệ thống GD Kĩ thuật và Dạy nghề bên cạnh hệ thống GD phổ thông và hệ thống
GD đại học.
Năm 2002, UNESCO và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã thống nhất đưa
ra quan niệm: ”GD nghề nghiệp là một thuật ngữ đề cập đến các khía cạnh của quá
trình GD bổ sung cho GD phổ thông, bao gồm công nghệ và các khoa học có liên
quan, các kĩ năng thực hành, thái độ, sự hiểu biết và kiến thức liên quan đến nghề
nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế và cuộc sống xã hội”.

25


×