Dạy đọc hiểu văn bản nh thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ văn
A. Đặt vấn đề.
* Lý do chọn đề tài:
Trong chiến lợc phát triển giáo dục (Ban hành kèm theo quyết định201/
2001/QD-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tớng Chính phủ ) ở mục 5-2 ghi rõ: "Đổi
mới và hiện đại hoá phơng pháp giáo dục chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ
động thầy giảng trò ghi sang hớng dẫn ngời học chủ động t duy trong quá trình tiếp
cận tri thức, dạy cho ngời học phơng pháp tự học tự thu nhận thông tin một cách có
hệ thống và có t duy phân tích tổng hợp. Phát triển năng lực của mỗi cá nhân tăng
cờng tính chủ động , tích cực tự chủ của học sinh , sinh viên trong quá trình học
tập . Nh vậy mục đích của việc đổi mới và hiện đại hoá phơng pháp giáo dục là
phát huy đợc vai trò chủ thể của học sinh , phát huy đợc tính tích cực chủ động và
khả năng t duy sáng tạo cho học sinh". Hiểu rõ nhiệm vụ vô cùng quan trọng ấy mỗi
nghành học, bậc học và mỗi ngời thầy đứng lớp không ngừng học hỏi, nghiên cứu tìm
tòi, sáng tạo để có đợc phơng pháp dạy học phù hợp với sự phát triển của xã hội, thực
hiện mục tiêu giáo dục.
Xuất phát từ mục tiêu chung của nghành giáo dục, bộ môn Ngữ văn đã xác định mục
tiêu cụ thể cho môn học của mình nh sau: " Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong
việc thực hiện mục tiêu chung của trờng THCS : góp phần hình thành những con ng-
ời có trình độ học vấn PTCS, chuẩn bị cho họ hoặc ra đời hoặc tiếp tục học lên ở
bậc học cao hơn. Đó là những con ngời có ý thức tự tu dỡng, biết yêu thơng quý
trọng gia đình, bạn bè; có lòng yêu nớc, yêu CNXH,yêu khoa học, biết hớng tới
những t tởng, tình cảm cao đẹp nh lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải , sự công
bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác... Đó cũng là những ngời có ham muốn đem tài
trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc".
. Đặc biệt nhất là thông qua môn học tạo cho các em những rung động thẩm mĩ giúp
các em cảm nhận đợc cái hay , cái đẹp của thiên nhiên , của cuộc đời . Đây chính là
nét đặc trng là thế mạnh của môn học này mà các môn học khác khó có thể có đợc
.Thủ tớng Phạm Văn Đồng đã từng nói: Trong một bài văn ta cần dạy cái hay cái
đẹp của văn chơng nhng đằng sau đó ta dạy bao cái hay cái đẹp khác nữa
Qua thực tế giảng dạy , đặc biệt là dạy phần Đọc hiểu văn bản hiện nay, với
phơng pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong quá
trình học tập thì thực sự học sinh đã chủ động trong việc chiếm lĩnh tác phẩm văn
học . Các em đã đợc tự mình nói lên suy nghĩ cảm xúc của mình về những hình ảnh,
chi tiết nghệ thuật của tác phẩm, bớc đầu có những lời bình . Nh ng trong qúa trình
giảng dạy, tôi nhận thấy lời bình của các em còn cha gẫy gọn, cha sâu, cha biết mở
Ngời viết: Đào thị Dung- Giáo viên Trờng THCS Vĩnh Long
Trang1
Dạy đọc hiểu văn bản nh thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ văn
rộng nâng cao vấn đề . Và cũng với phơng pháp lấy học sinh làm trung tâm , ngời giáo
viên đóng vai trò là ngời chủ đạo hớng dẫn các em chiếm lĩnh tác phẩm cho nên nhiều
khi lời bình của giáo viên trong giờ dạy xuất hiện rất ít thậm chí nhiều khi còn bị quên
lãng . Bởi thế mà dẫn tới tình trạng nhiều tiết dạy văn trở nên khô khan với một loạt
những câu hỏi , những bài tập thảo luận nhóm .Thậm chí còn có những câu hỏi mang
tính tích hợp nhng khiên cỡng, lời giảng khô khan dẫn tới tình trạng các em không
yêu thích môn văn , học sinh hiểu bài không sâu, không hứng thú , bài giảng ít có sức
lắng đọng trong học sinh . Từ thực tế đó tôi nhận thấy để giờ Ngữ văn có chất lợng và
lắng đọng , để tạo nên sức hấp dẫn trong tiết dạy tạo ra hiệu quả thẩm mỹ góp phần
nâng cao kết quả học tập của học sinh đồng thời giúp các em biết cách trình bày
những rung cảm của bản thân về cái hay, cái đẹp trong tác phẩm văn chơng thì ngoài
một số biện pháp để nâng cao chất lợng trong giờ đọc hiểu văn bản giáo viên cần phải
có lời bình , phải lựa chọn lời bình trong tiết dạy học văn .Có đợc một lời bình ngắn
gọn súc tích đậm chất văn chơng đã khó nhng để lời bình ấy của thầy đọng lại trong
tim học trò lại càng khó hơn rất nhiều lần Thầy bình nh thế nào? Đâu chỉ là câu chữ
mà còn là ngữ điệu, ánh mắt, nụ cời Làm sao để thổi hồn vào lời nói. Đó là cả một
nghệ thuật dạy văn chơng. Có nh vậy thì mới thực sự đem đến hứng thú niềm vui
lớn cho các em qua mỗi giờ học văn. Đó cũng chính là lý do để tôi lựa chọn đề tài
B. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận
Do đặc trng , bản chất của môn văn mà trong nhà trờng THCS nó có vị trí thật
quan trọng . Nó là chìa khoá để học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa học , mọi hoạt
động xã hội ... Nó có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm hồn trí tuệ các em.
Văn học chân chính là vũ khí thanh cao và đắc lực có tác động sâu sắc đến tâm hồn,
tình cảm của con ngời . Nó bồi đắp cho con ngời trở nên trong sáng hơn, phong phú
và sâu sắc hơn. Hơn bất cứ hoạt động tinh thần nào , văn học nghệ thuật có khả năng
đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn , huyền diệu và vô tận của đời sống
tâm linh, của số phận và tính cách con ngời . Văn học chân chính giúp cho con ngời
sống sâu sắc hơn với nhân vật , với tác giả từ đó mà tự nhận thức về mình , nâng cao
niềm tin vào bản thân mình và tự hoàn thiện nhân cách của chính mình và làm nảy nở
ở con ngời khát vọng hớng tới chân lý. Để đạt đợc mục tiêu ấy, trong quá trình hớng
dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến thức không thể thiếu đợc lời bình của giáo viên . Lời
bình trong dạy và học văn đều có đặc trng chung là mang màu sắc cảm xúc và tính
chủ quan của đánh giá thẩm mỹ . Bình văn chơng chính là nói lại nội dung cảm thụ
văn học của mình đến ngời nghe cùng cảm thụ nh mình . Nhà phê bình văn học Hoài
Thanh đã từng nói " Bình thơ là từ chỗ mình cảm thấy hay làm thế nào cho ngời
khác cũng cảm thấy hay" . Lời bình do vậy bao giờ cũng có màu sắc chủ quan của
Ngời viết: Đào thị Dung- Giáo viên Trờng THCS Vĩnh Long
Trang2
Dạy đọc hiểu văn bản nh thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ văn
nhận thức thẩm mỹ , nó thể hiện năng lực cảm thụ của cá nhân . Ngời giáo viên thông
qua sự hiểu biết và rung cảm về bài thơ , bài văn có nhiệm vụ làm sao cho học sinh
cũng rung cảm và hiểu biết về bài văn , bài thơ một cách đúng đắn và sâu sắc. Nghệ
thuật bình văn, bình thơ là một sức mạnh đặc biệt không thể không vận dụng vào
trong quá trình giảng văn ở nhà trờng. Tuy nhiên đó là một công việc khó khăn và tế
nhị . Bình thơ cũng nh đánh đàn đệm cho ngời hát lên dây cung chùng một tí hay căng
một tí cũng lạc điệu . Bình mà cha đến thì không đạt , nói quá đi là tán . Nói nhiều
cũng không nên , phải biết dừng đúng chỗ , đúng lúc để cho ngời đọc suy nghĩ, mở
rộng
Chính vì vậy muốn có đợc lời bình hay trớc hết ngời giáo viên phải là ngời cảm
hiểu sâu sắc văn bản định bình . Phải hiểu biết về tác phẩm nhuần nhuyễn đến độ biến
thành rung động cảm xúc , tình cảm chủ quan mới có khả năng gây cảm, truyền cảm.
Ngời giáo viên khi đa lời bình trong giờ dạy không bao giờ đợc quên nhiệm vụ môi
giới của mình, không bao giờ vợt quá giới hạn của ngời bình . Nghĩa là không để cho
tiếng nói của mình lấn át tiếng nói của nhà văn, nhà thơ.Ngời giáo viên bình văn, bình
thơ giúp nhà văn đa tiếng nói đến ngời nghe, ngời đọc nhanh nhạy và sâu lắng . Trong
quá trình giảng dạy thì tác phẩm chính là cơ sở cho mọi lời bình. Có thể bình về hình
thức , có thể bình về đề tài , chủ đề, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm , nội dung ý nghĩa
của tác phẩm, cũng có thể bình giảng trong nhiều mối quan hệ, trong văn bản hoặc
ngoài văn bản... Song điều quan trọng nhất là phải lựa chọn điểm sáng của bài để bình
và tạo dần dần từng bớc cho học sinh một ấn tợng , một nhận thức hoàn chỉnh về tác
phẩm . Chính những lời bình sâu sắc của giáo viên khiến giờ gỉang văn trên lớp tiết
kiệm đợc thời gian và lắng đọng , khêu gợi sức suy tởng của học sinh . Tuy nhiên cần
chú ý phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn các phơng pháp trong giờ dạy , tránh tình
trạng đi quá sâu vào lời bình mà biến giờ Ngữ văn thành giờ bình tác phẩm văn ch-
ơng . Có thể nói, hiếm có giờ văn thành công nào mà lại thiếu lời bình của giáo viên .
Một giờ dạy nếu thiếu đi lời bình sẽ trở nên khô khan , không phát huy đợc những nét
đặc trng của môn văn, không còn là một giờ văn mà thành một giờ sử, điạ . Giáo s
Phan Trọng Luận cho rằng : "Lời bình là phơng pháp có tính đặc thù và truyền cảm
của văn chơng ". Nói nh vậy để ta có thể hiểu rằng trong tiết dạy văn không thể thiếu
lời bình
2 . Thực trạng vấn đề
Một số nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong giờ Đọc - hiểu văn bản
- Việc đổi mới phơng pháp dạy học đã đợc đề ra từ nhiều năm năy nhng trên thực tế
vẫn còn nhiều hạn chế . Giáo viên cha thật sự phát huy tính tích cực của học sinh
trong giờ dạy văn, học sinh cha thấy đợc các hay cái đẹp của tác phẩm văn chơng, học
sinh không có cơ hội đợc rèn luyện và nâng cao kỹ năng , năng lực của môn học
Ngời viết: Đào thị Dung- Giáo viên Trờng THCS Vĩnh Long
Trang3
Dạy đọc hiểu văn bản nh thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ văn
- Giáo viên đứng lớp cha thấu đáo quan điểm cũng nh phơng pháp dạy học.Chính vì
vậy vẫn tồn tại khuynh hớng đề cao một phơng pháp dạy học nào đó mà không vận
dụng kết hợp nhiều phơng pháp giảng dạy trong giờ học . Năng lực cảm thụ văn học
của một số giáo viên còn hạn chế . Khả năng truyền đạt cha thật hấp dẫn ,cha gây sự
chú ý , tập trung cao đối với ngời nghe. Khả năng tiếp nhận văn bản của học sinh thực
tế còn phụ thuộc vào khả năng hiểu biết tác phẩm, và cách truyền đạt của ngời thầy
- Về phía học sinh: Do sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin nhiều loại hình
giải trí ra đời đã thu hút các em , khiến các em thích chơi hơn thích học ,đặc biệt là
học môn Ngữ văn . Các em giành nhiều thời gian cho xem ti vi , lang thang trên
intenet... hơn là cầm một tác phẩm văn học và một thực tế nữa trong học sinh hiện nay
là các em đầu t thời gian trí tuệ cho các môn học tự nhiên hơn là các môn xã hội
.Càng ngày các em càng ngại hoc văn, không thích giờ văn, làm bài và học một cách
chiếu lệ, phụ thuộc vào những bài văn mẫu, những quyển sách học tốt . Hạn chế lớn
nhất ở học sinh là thói quen tâm lí thụ động trong học tập quen nghe, ghi chép và nhớ
tái hiện . Năng lực cảm thụ văn học của học sinh còn rất hạn chế . Do vậy trong quá
trình đọc -hiểu văn bản khả năng bình một điểm sáng trong văn bản là rất hiếm, viết
một bài văn đạt yêu cầu quả là khó khăn, điểm số không cao, học sinh giỏi văn ngày
càng mai một
3.Thực tiễn áp dụng -Các giải pháp thực hiện
Lựa chọn lời bình trong một số giờ dạy Ngữ văn:
Những năm gần đây sự đổi mới sách giáo khoa đã kéo theo sự thay đổi về phơng pháp
dạy học văn . Và đi trên con đờng đổi mới đó giai đoạn đầu chính là những bớc thử
nghiệm đầy gian khổ . Trong quá trình giảng dạy tôi đã vận dụng đổi mới phơng pháp
giảng dạy và tiến hành lựa chọn một số lời bình trong tiết dạy Ngữ văn nh sau.
Trong văn bản " Thiên trờng vãn vọng"của Trần Nhân Tông
Trớc xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dờng không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng
Giáo viên có thể lựa chọn lời bình :
Hai câu cuối gợi tả cảnh sắc đồng quê rất dân dã bình dị, thân thuộc mà
đáng yêu . Ta hình dung trên nhửng nẻo đờng quê đàn trâu nối đuôi nhau về thôn và
lan toả trong không gian tiếng sáo mục đồng cất lên réo rắt. Điểm xuyết trong bức
Ngời viết: Đào thị Dung- Giáo viên Trờng THCS Vĩnh Long
Trang4
Dạy đọc hiểu văn bản nh thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ văn
tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ấy là hình ảnh từng đôi cò trắng chấp chới chở nắng qua
sông , chao liệng xuống đồng . Nhà thơ không nói đến màu xanh và hơng lúa mà ta
vẫn cảm nhận đợc . Ngôn ngữ thơ, hình tợng thơ đầy âm thanh ,màu sắc và dạt dào
sức sống .Bút pháp lấy động để tả tĩnh của tác giả rất thành công.
Ta đã biết Trần Nhân Tông (1258- 1308 ) là ông vua anh hùng -Thi sĩ của Đại
Việt trong thế kỷ XIII thông minh học rộng , có tài thao lợc và rất tài hoa. Tên tuổi
nhà vua gắn liền với những chiến công hiển hách của nhân dân trong cuộc kháng
chiến lần thứ hai và lần thứ ba đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm lợc . Khi cho học
sinh tiếp cận văn bản Thiên Trờng vãn vọng , giáo viên nên cho học sinh cảm nhận sự
bình dị dân dã , tình yêu thiên nhiên, yêu quê hơng đất nớc thiết tha của ông vua anh
hùng đồng thời là nhà thi sĩ này . Vậy giáo viên sẽ chọn lời bình nh thế nào để làm nổi
bật nội dung ấy .
Và tôi đã lựa chọn lời bình nh sau:
Thiên trờng thuở ấy đờng xá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của
vua chúa tôn thất nhà Trần nhng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía ,
bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên , cảnh
vật đồng quê. Điều đó cho thấy tâm hồn thi sĩ chứa chan tình yêu thiên nhiên , sự
giao cảm diệu kỳ với thiên nhiên đất nớc . Có thể nói sự bình dị dân dã là cốt cách ,
là hồn thơ của vị vua anh minh- Thi sĩ tài hoa này
Văn bản "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan
Bài thơ này trớc đây đợc dạy ở chơng trình lớp 9 cũ nhng hiện nay đã đợc đa
vào giảng dạy trong chơng trình lớp 7 . Đây là một văn bản hay nhng khó cảm nhận
đối với các em học sinh lớp 7 bởi đằng sau bài thơ là tâm trạng của một con ngời
trong cảnh giao thời , xã hội có nhiều biến động . Vì vậy ngoài việc hớng dẫn cách
đọc tìm hiểu thể thơ , tìm hiểu ý nghĩa mỗi phần trong văn bản , giáo viên cần bình
một số câu thơ để học sinh cảm hiểu sâu hơn văn bản này . Tuy nhiên trong quá trình
hớng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản , giáo viên nên chú ý giữa lơì giảng và lời bình .
Nếu giáo viên nói : Âm thanh của tiếng chim quốc gợi nên nỗi nhớ nớc , âm thanh
của tiếng chim gia gia gợi nên nỗi nhớ nhà.Hai âm thanh ấy càng làm cho cảnh cảnh
đèo Ngang trở nên tĩnh mịch vắng vẻ thì đó là lời giảng .Còn nếu giáo viên nói :
"Trong không gian tĩnh lặng của cảnh chiều tà bóng xế , âm thanh tiéng kêu của
những con vật hoang dã đã vô tình rơi vào sâu thẳm nhà thơ trở thành âm thanh
của tâm trạng . Đó chính là tiếng gọi hồn non nớc " thì đó là một lời bình.
Mỗi lời bình thơ bao giờ cũng mang màu sắc xúc cảm thẩm mỹ. Vì vậy mà đối tợng
để lời bình hớng tới là cái hay cái đẹp của văn bản . Có thể là đề tài, chủ đề kết cấu
trong văn bản , là phong cách của nhà thơ . Cũng có khi chỉ là một âm hởng, một vần
điệu , một hình ảnh thơ. Việc lựa chọn điểm sáng trong văn bản để kịp thời đa ra
Ngời viết: Đào thị Dung- Giáo viên Trờng THCS Vĩnh Long
Trang5
Dạy đọc hiểu văn bản nh thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ văn
những lời bình có hiệu quả không phải là một việc giản đơn. Nó đòi hỏi ngời giáo
viên phải đào sâu suy nghĩ , phải có sự liên tởng so sánh đối chiếu để mỗi lời bình của
giáo viên thực sự lắng đọng trong tâm trí học trò . Ví dụ khi bình cụm từ "Ta với ta"
trong văn bản "Bạn đến chơi nhà" của Nguyễn Khuyến ta có thể so sánh liên hệ đến
cách dùng cụm từ này trong văn bản"Qua đèo Ngang"để học sinh cảm nhận đợc
cách dùng từ độc đáo của các nhà thơ .
"Cụm từ "ta với ta" biểu lộ một niềm vui trọn vẹn tràn đầy và lắng đọng
trong tâm hồn, toả rộng trong không gian và thờigian . Nếu trong thơ bà Huyện
Thanh Quan "ta với ta" mang nặng nỗi buồn cô đơn của khách ly hơng khi một
mình đối diện với chính mình trong cảnh chiều tà bóng xế trên đỉnh đèo Ngang
hoang hoang sơ, tĩnh lặng thì trong câu thơ "Bác đến hơi đây ta với ta" lại ấp áp
tình đời và sâu nặng tình bạn đẹp đẽ, sáng trong , thanh bạch đối lập với nhân
tình thế thái "
Trong chơng trình Ngữ văn THCS , bên cạnh những những tác phẩm trong nớc
còn có những tác phẩm văn học nớc ngoài . Đối với các em học sinh khối 7 khi tìm
hiểu đến phần thơ Đờng các em thực sự khó tiếp cận bởi đây là thể thơ u tú nhất của
nhân loại , có luật thơ gò bó nhất trong lịch sử thơ ca và điều đặc biệt nhất ở thể thơ
này là tính cô đọng hàm súc "ý tại ngôn ngoại". Với trình độ của các em học sinh lớp
7 khi tiếp cận với các văn bản là thể thơ Đờng luật là một sự mới mẻ hoàn toàn trong
cách nghĩ và cách cảm. Vậy khi dạy những văn bản này giáo viên phải có đợc chiều
sâu, chiều rộng về kiến thức văn chơng , kiến thức lịch sử, địa lý ... Phải nắm vững
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm từ đó có những lời bình gắn nội dung ý nghĩa văn bản
vào hoàn cảnh xã hội đơng thời
Ví dụ trong văn bản "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá nát" của Đỗ Phủ ta có
thể đa ra những lời bình cụ thể nh sau:
"Từ 5 dòng thơ cuối , nỗi đau khổ của một ngời , một gia đình đã trở thành
tấm gơng phản chiếu nỗi khổ đau của muôn ngời muôn nhà .Cho nên bài thơ có
giá trị hiện thực sâu sắc"
Khi bình về ớc mơ của Đỗ Phủ qua khổ thơ
"Ước đợc nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió ma chẳng núng , vững nh thạch bàn
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trớc mặt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng đợc "
Ngời viết: Đào thị Dung- Giáo viên Trờng THCS Vĩnh Long
Trang6