Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

SKKN một số biện pháp giảng dạy động tác “chạy đạp sau” nhằm tăng tốc độ chạy cự li ngắn học sinh trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.8 KB, 17 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢNG DẠY ĐỘNG TÁC “CHẠY ĐẠP
SAU” NHẰM TĂNG TỐC ĐỘ CHẠY CỰ LI NGẮN HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

A- PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của đề tài:
Đất nước ta đang trên đà phát triển, sự hội nhập với các nước trên thế giới
là điều không thể thiếu được. Nền giáo dục Việt Nam đã nổ lực không ngừng
ngày một nâng dần về lượng và chất, ngang tầm với xu hướng phát triển của thời
đại.
Xuất phát từ luật giáo dục quy định, vai trò mục tiêu của giáo viên phổ
thông, nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ; về các kĩ năng cơ bản hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa xây dựng tư cách, trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học
lên trên và biết vận dụng vào cuộc sống, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Do sự phát triển của xã hội ngày một nâng cao. Để đáp ứng yêu cầu của xã
hội trước mắt và lâu dài của Cách mạng vấn đề bảo vệ và tăng cường sức khỏe
cho học sinh đã trở thành một nhiệm vụ vô cùng cấp bách có ý nghĩa chiến lược
của toàn Đảng toàn dân. Muốn đạt được mục tiêu trên thì nhiệm vụ giáo dục thể
chất của nhà trường phổ thông phải đạt được ba yêu cầu:
- Kiến thức kĩ năng
- Sức khỏe
- Đạo đức tư tưởng.
II. Lí do chọn đề tài:
- “Chạy đạp sau” là một động tác bổ trợ của môn điền kinh cụ thể là nội
dung “chạy” có trong chương trình qui định (chạy ngắn, chạy bền).
Đây là một động tác trong những động tác bổ trợ tích cực cho nội dung chạy
ngắn.

1




Qua giảng dạy, người làm công tác giáo dục thể chất, giảng dạy trực tiếp bộ
môn thể dục thể thao ai cũng công nhận rằng động tác “chạy đạp sau” là một
động tác bổ trợ muốn thực hiện cho đúng, chính xác, đẹp là điều rất khó, đòi hỏi
sự phối hợp khéo léo: vừa mạnh, vừa nhanh, vừa dứt khoát, giữa chân trước,
chân sau kết hợp đánh hai tay nhịp nhàng tích cực và liên tục, thì mới hình thành
được nhưng đối với học sinh THCS tính chất mạnh và tính phối hợp còn hạn
chế. Nếu như dạy động tác “chạy đạp sau” chỉ đơn thuần dựa vào sách, tài liệu
gợi ý thì sự truyền đạt kiến thức, rèn luyện kĩ năng chưa đủ để học sinh thực
hiện được kỹ năng động tác theo yêu cầu mục tiêu của phân phối chương trình
đề ra.
Trong thực tế, theo cách dạy hoàn chỉnh ngay vào động tác tức nhiên gặp
rất nhiều khó khăn không thể nào hoàn thành nhiệm vụ được cả thầy lẫn trò. Lí
do: là khả năng phối hợp của học sinh THCS còn hạn chế. Mà đặc điểm động
tác “chạy đạp sau” yêu cầu:
+ Chân sau đạp đất phải duỗi thẳng. Sau đó, nhanh chóng lại chuyển lên co
nâng cao đùi về trước, tức thời đòi hỏi phải: Mạnh, nhanh, co, duỗi liên tục (theo
tần số). Do vậy, phải nói là khó hình thành. Sai sót của các em khi phối hợp là:
Khi duỗi chân đạp sau được thì tiếp theo không nâng đùi chân trước được và
ngược lại có học sinh chủ động nâng đùi chân trước lên cao, thì lại không giữ
thẳng chân đạp sau được.
Qua thực trạng như vậy, người giáo viên giảng dạy không tránh khỏi sự suy
nghĩ và trăn trở cần nghiên cứu sáng kiến tìm ra “Một số biện pháp giảng dạy
động tác “Chạy đạp sau” nhằm tăng tốc độ chạy cự li ngắn học sinh trường trung
học cơ sở”.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Phạm vi, lĩnh vực: giảng dạy kỹ thuật chạy đặc biệt là chạy cự li ngắn.
- Đối tượng: Tất cả học sinh từ cấp tiểu học, cấp THCS, cấp trung học phổ
thông đến sinh viên trường chuyên nghiệp hay trường nghiệp vụ… Nếu như

phân phối chương trình có qui định. Đặc biệt là học sinh THCS.

2


IV. Mục đích nghiên cứu:
- “Chạy đạp sau”: Nhằm bổ trợ tích cực cho nội dung chạy ngắn tốc độ
nhanh hơn (do lực đạp sau mạnh và chân lăng trước chuyển về trước đúng
hướng, giúp người chạy tạo cơ sở thuận lợi nâng cao được thành tích. Vì chạy
ngắn là môn điển hình để phát triển vận tốc. Mà học sinh THCS là lứa tuổi đang
phát triển tố chất nhanh. Do vậy, rất thuận lợi cho người nghiên cứu và giảng
dạy theo phân phối chương trình. Như chúng ta qua tìm hiểu nhận biết động tác
“chạy đạp sau” là động tác tiêu biểu cho kỹ thuật của môn chạy… Kể cả chạy
lấy đà trong nội dung nhảy… và ném. Nắm chắc chạy ngắn sẽ là cơ sở thuận lợi
để học tập các môn vận động khác. Bên cạnh đó, nếu luyện tập được tốt động
tác “chạy đạp sau” còn giúp học sinh tăng cường thêm sức khỏe, nâng cao thể
lực, bản thân tạo được sức nhanh sẽ làm tiền đề làm cơ sở phát triển các thao tác
nhanh, vận dụng vào cuộc sống để xứng đáng với truyền thống anh hùng và đặc
điểm nhanh nhẹn, tháo vát sẳn có của người Việt Nam đã từng sáng tạo trong
lao động sản xuất, trong học tập và làm việc và rất mưu trí dũng cảm trong chiến
đấu để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ sự nghiệp cách mạng của Đảng.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
* Giảng dạy theo phương pháp trước khi nghiên cứu:
- Giáo dục giảng dạy theo sách giáo khoa hướng dẫn, theo các nguyên tắc,
phương pháp đã hướng dẫn như: phân tích, giảng dạy kỹ thuật, chỉ dẫn tranh –
làm mẫu – luyện tập – sửa sai, củng cố (nhận xét: nếu tốt thì phát huy, sai sót thì
khắc phục…) Đặc biệt phần luyện tập nếu động tác khó thì giáo viên cũng có
dùng phương pháp phân đoạn nhưng chủ yếu là tập lặp đi lặp lại động tác đó
nhiều lần rồi chỉnh sửa cho đúng (thật ra rất mất thời gian nhưng hiệu quả không
cao). Qua nghiên cứu giáo viên suy nghĩ tìm ra một số biện pháp giảng dạy phù

hợp với học sinh như sau:
1. Sơ lượt những điểm mới cơ bản nhất trong kết quả nghiên cứu:
- Nêu yêu cầu cụ thể cần đạt theo mục tiêu đề ra theo phân phối chương
trình.

3


- Chuẩn bị cho các em sự hiểu biết về kiến thức kĩ năng, sức khỏe để vận
dụng vào cuộc sống hiện tại và tương lai sau này cho bản thân, cho gia đình và
cho xã hội.
- Chú ý: Quan tâm giáo dục tư tưởng cho các em nhận thức được ý nghĩa,
ích lợi, tác dụng của bộ môn ảnh hưởng tốt đến sức khỏe mà có ý chí quyết tâm
tự giác luyện tập.
- Giảng dạy không nóng vội mà phải kiên trì, chịu khó tập từng bước…từ
đơn giản đến phức tạp (phương pháp phân đoạn).
- Quan tâm chú ý sửa sai cho những em học sinh tiếp thu còn chậm bằng
hình thức động viên, tuyên dương khi các em có sự tiến bộ kết hợp với nhận xét
cụ thể kịp thời để chỉnh sửa.
- Quan tâm thao tác đánh tay: Khi thực hiện động tác chạy muốn tạo được
tốc dộ nhanh khi thực hiện động tác “Chạy đạp sau” kết hợp đánh 2 tay tích cực
đúng hướng là điều hết sức quan trọng, cho nên giáo viên chú ý tập kĩ thuật đánh
tay cho học sinh.
+ Đánh tay đúng hướng tích cực sẽ hỗ trợ cho tần số bước chân nhanh và
mạnh hơn.
+ Tư thế ban đầu: Đứng chân trước chân sau trọng tâm dồn vào chân trước,
tay gập tự nhiên giữ cạnh sườn.
+ Động tác tiến hành: Tay đánh trước sau, nhanh mạnh nhịp nhàng, biên độ
lớn (song song với thân người) đánh ra sau càng cao càng tốt, không đánh qua
phải qua trái, vai thả lỏng

- Yêu cầu: làm mẫu phải đúng, chính xác, đẹp.
2. Khẳng định tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề:
- Giáo dục về tư tưởng: Giúp các em hiểu được vấn đề là học sinh biết mình
học là để làm gì? (thông qua vị trí, ý nghĩa mà giáo viên đã phân tích trong hệ
thống giáo dục thể chất. – Khi thực hiện được rồi thì cảm giác của em như thế
nào? (vui, ham thích học hơn) ý thức luyện tập tốt hơn tự giác hơn – Thành thạo
rồi các em biết vận dụng vào cuộc sống (Có ích cho bản thân, gia đình, xã hội).

4


- Học sinh hiểu biết rõ về kiến thức chuyên môn kỹ năng vận động cơ bản,
phương pháp tập luyện sẽ có cơ hội phát triển về năng khiếu.
- Thông qua giáo dục thể chất các em sẽ hiểu được nhiệm vụ của mỗi học
sinh đối với bản thân. Gia đình, xã hội, đối với tổ quốc thì bản thân phải tự hoàn
thiện chính mình thông qua hoạt động thể dục thể thao rèn luyện cho mình có
phẩm chất đạo đức tốt như: Tinh thần dũng cảm, vượt khó, tinh thần tập thể. Đặc
biệt là xây dựng cho mình một tác phong mới: hiên ngang, khỏe mạnh, khẩn
trương, hoạt bát và kỷ luật trật tự.
- Trong quá trình luyện tập: Tất nhiên đối với học sinh rất đa dạng cho nên
sự tiếp thu nhận thức khác nhau. Vì vậy, trong quá trình luyện tập, giáo viên
quan tâm tích cực “sửa sai” cho học sinh. Trong sửa sai, giáo viên phải hiểu rõ
nguyên nhân sai? Thì mới có phương pháp sửa sai đạt hiệu quả cao. Mỗi em có
thể có những lỗi sai giống, khác nhau. (Nếu sai 1 số rải rác thì sửa cá nhân nếu
sai nhiều thì giáo viên phân tích, làm mẫu lại).
- Thông qua hoạt động thực tiễn giáo viên giúp cho học sinh:
+ Tự tin khi tham gia tập luyện
+ Hoàn thành được nhiệm vụ trong từng tiết học (từ dễ đến khó)
+ Giúp học sinh yêu thích bộ môn hơn
+ Học sinh có thể lực yếu, có thể hình không cân đối… có điều kiện phấn

đấu hơn.
B- PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận:
1. Cơ sở pháp lí:
- Dựa trên sách giáo khoa, giáo trình giảng dạy sư phạm, tài liệu tập huấn
thay sách, những nguyên tắc, những phương pháp được trang bị ở nhà trường sư
phạm. Thông qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, đồng thời có sự cập nhật
thông tin tập huấn, thay sách do Bộ Giáo dục tổ chức, nghiên cứu tài liệu bồi
dưỡng thường xuyên chu kì III, vận dụng phương pháp mới thay sách.
2. Cơ sở thực tiễn:

5


- Nghiên cứu chương trình giảng dạy, nắm vững đặc điểm yêu cầu nội dung
giảng dạy như: yêu cầu kĩ thuật từng động tác, độ khó, mấu chốt kĩ thuật, khối
lượng vận động, hệ thống động tác, mối quan hệ giữa các nội dung…
Trên cơ sở đó, kết hợp với tình hình cụ thể của học sinh mà xác định các
bước giảng dạy động tác, chọn lựa phương pháp giảng dạy, cách giảng giải, làm
mẫu, dự kiến những sai lầm có thể xảy ra của học sinh – nguyên nhân – cách
phòng tránh, cách sửa sai. Suy nghĩ chọn lựa biện pháp tổ chức cho phù hợp với
nội dung động viên học sinh luyện tập…
II. Thực trạng của vấn đề:
1. Thực trạng:
- Như chúng ta nhận biết hiện nay thật sự mà nói vẫn còn không ít một số
bậc cha mẹ học sinh và học sinh chưa hiểu và chưa biết rõ tác dụng tầm quan
trọng của việc luyện tập thể dục thể thao có tác dụng đến sức khỏe như thế nào?
Và cũng chưa rõ qua hoạt động thể dục thể thao tạo điều kiện nâng cao thể lực,
tăng cường sức khỏe để phục vụ cho học tập, lao động và làm việc như thế nào?
Nên không ít đối tượng còn xem nhẹ bộ môn, thời gian đầu tư vào bộ môn học

còn rất hạn chế, ý thức tự giác học chưa cao; chưa có tài liệu, sách giáo khoa cho
học sinh nghiên cứu, tìm hiểu. Bộ Giáo dục thật sự có quan tâm rất nhiều về đổi
mới phương pháp giảng dạy, đầu tư trang thiết bị, dụng cụ dạy học cho môn
giáo dục thể chất nhưng chưa có đầu tư về sân tập cho đủ và đúng quy cách…
Do đó, thiếu sự quan tâm, động viên giúp đỡ các bậc cha mẹ học sinh. Tinh
thần tự học tự rèn luyện của học sinh còn rất kém.
2. Thuận lợi:
- Ban giám hiệu: luôn quan tâm, ủng hộ, động viên nhiều đến bộ môn giáo
dục thể chất như tạo điều kiện, mua sắm dụng cụ giảng dạy, duyệt kinh phí tham
gia thi đấu các cấp.
- Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đảm bảo thực hiện giảng dạy và luyện
tập các nội dung có trong chương trình.
- Đồng nghiệp đa số trẻ, khỏe, nhiệt tình luôn giúp đỡ trao đổi kinh nghiệm
giảng dạy với nhau.
6


- Học sinh ý thức tự giác chưa cao nhưng luyện tập thì có nề nếp và tích
cực, yêu thích bộ môn.
3. Khó khăn:
- Đặc trưng bộ môn thể dục thể thao dạy ngoài trời nên khi trời mưa hay
quá nắng gây cho các em khó khăn trong vấn đề luyện tập.
+ Mưa: Thì tập không đảm bảo nội dung
+ Nắng: Gây cho các em khó chịu, thiếu tập trung. Vì vậy, nó cũng ảnh
hưởng không ít đến kết quả học tập.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
1. Giáo dục tư tưởng:
- Bước đầu tiên là giáo viên phân tích cho học sinh hiểu rõ vị trí, tác dụng
của nội dung học:
+ Luyện tập môn điền kinh nhất là nội dung chạy có tác dụng rất tốt đến

sức khỏe của mọi lứa tuổi, đồng thời còn là phương tiện tập luyện rất hữu hiệu
nhằm phát triển thể lực toàn diện, tạo tiền đề nâng cao thành tích cho các môn
thể thao khác.
+ Luyện tập với bài tập này đơn giản không đòi hỏi sân bãi, dụng cụ phức
tập, đặc biệt rất dễ điều chỉnh lượng vận động trong khi luyện tập.
Luyện tập thường xuyên, đều đặn sẽ đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc cải
thiện, nâng cao khả năng chức phận của các hệ thống cơ quan cơ thể như: hô
hấp, tuần hoàn, tiêu hóa cũng như cơ bắp. Tác dụng sự luyện tập đã được các
nhà khoa học khẳng định. Ví dụ: đối với người tập nội dung này thường xuyên,
tim đập rất tốt, bình thường tim của họ chỉ co bóp 50 - 60 lần/phút đã cung cấp
đủ máu để nuôi cơ thể. Trong khi đó, đối với người không tập thì tim co bóp tới
70 - 80 lần/phút. Hệ hô hấp cũng vậy, người luyện tập nhịp thở của họ chỉ cần
tới 8 - 14 lần/phút và họ có thể thở rất sâu, dung tích sống đạt tới 5-6 lít. Trong
khi đó, người không tập dung tích sống chỉ 3 - 3,5 lít và nhịp hô hấp phải tới 16
– 20 lần/phút. Còn cơ bụng thì đương nhiên rắn chắc hơn nhiều. Còn xương thì
dày rắn chắc tránh được loãng xương… Đó chính là hiệu quả của việc luyện tập
đối với củng cố và tăng cường sức khỏe.
7


Qua sự hiểu biết được ích lợi nêu trên tức giáo viên đã giúp các em có
hướng phấn đấu để đạt đến mục tiêu cần đạt. Từ đó, dần dần xây dựng cho các
em hoài bảo đúng đắn, bồi dưỡng các em lòng ham thích và những thói quen tốt
trong tập luyện: lành mạnh, khẩn trương, nề nếp, trật tự, nghiêm túc, tự giác,
luyện tập có suy nghĩ…
Đồng thời qua ý thức tập tốt của học sinh, giáo viên cũng dễ khai thác, phát
hiện và bồi dưỡng những em có năng khiếu.
2. Cung cấp kiến thức chuyên môn:
- Chạy đạp sau là một trong những động tác bổ trợ tích cực cho tốc độ chạy
ngắn. Mà đặc biệt chạy ngắn là một nội dung của môn điền kinh nhằm để phát

triển tốc độ nhanh, tố chất nhanh. Đối với lứa tuổi học sinh THCS tố chất nhanh
đang phát triển cho nên chúng ta cần có biện pháp để phát huy nó được hoàn
thiện. Chỉ có môn chạy ngắn là kỹ thuật tiêu biểu của môn chạy kể cả chạy lấy
đà trong nhảy và ném.
- Nắm được kỹ thuật chạy ngắn sẽ là cơ sở để học tốt các môn vận động
khác.
- Cho nên chúng ta thường thấy ở bất cứ một đại hội TDTT nào được tổ
chức về “Hội khỏe Phù Đổng” cấp trường đến các giải tầm cở quốc tế nếu có tổ
chức môn điền kinh thì đều tổ chức nội dung chạy ngắn.
- Giáo viên giới thiệu cho các em học sinh một số kiến thức hiểu biết về
môn điền kinh là môn thể thao tổng hợp nhiều hoạt động mang tính chất tự
nhiên như: đi, chạy, nhảy, ném, đẩy. Vì vậy khi thực hiện các bài tập này tương
đối dễ dàng và ai cũng làm được. Song để giúp người tập hoàn chỉnh được kĩ
thuật trong từng nội dung điền kinh, đòi hỏi người tập phải có thể lực và tập
trung chú ý luyện tập từ kĩ thuật cơ bản, những động tác lẻ (động tác bổ trợ) mới
giúp người tập hoàn thiện về kĩ thuật của một nội dung chính có nghĩa là phải
biết sử dụng những năng lực của bản thân một cách hợp lí nhất, hiệu quả nhất để
đạt kĩ thuật và thành tích theo yêu cầu của chương trình qui định.
- Về mặt kĩ thuật: để nắm vững được kĩ thuật động tác “chạy đạp sau” bổ
trợ cho nội dung chạy ngắn trước hết cần hiểu rõ cơ sở hoạt động của chúng đó
8


là những nguyên lí cơ bản các hoạt động trong chạy được lặp đi lặp lại sau một
thời gian nhất định nên gọi là hoạt động chu kỳ. Mỗi chu kỳ trong hoạt động
chạy gồm có hai bước (bước chân phải và bước chân trái).
+ Chân chống: đạp sau.
+ Chân lăn: đưa trước.
- Đạp sau: giai đoạn mang tính chất quyết định tốc độ chuyển động của cơ
thể về trước, gốc độ đạp sau nhỏ, lực đạp sau càng lớn, tốc độ di chuyển của cơ

thể về trước càng nhanh.
Vì vậy, để tăng hiệu quả “Đạp sau” cần tăng lực “Đạp sau” (chủ yếu tăng
cường sức mạnh tốc độ của các nhóm cơ, duỗi mở các khớp hông, gối và gập
bàn chân. Đồng thời tạo ra gốc đạp sau hợp lí (gốc đạp sau phụ thuộc vào tốc độ
chạy).
- Chạy ngắn gốc độ đạp sau khoảng 42 – 45 0 còn cùng với hoạt động của
“chân chống” thực hiện đạp sau thì “chân lăng” phải hoạt động tích cực co gập
cẳng chân đưa nhanh đùi về trước lên trên.
Sau đó, chân lăng miết cẳng chân xuống dưới ra sau, tiếp đất, các chuyển
động được lặp lại như ban đầu luân phiên: mạnh, nhanh, liên tục.
 Yêu cầu:
+ Đạp chân sau thẳng, đánh lăng kéo được bên hông cùng phía về trước.
+ Giáo viên cho xem tranh “chạy đạp sau” (phân tích qua tranh).
+ Giáo viên làm mẫu (đúng, chính xác, đẹp) giúp học sinh có khái niệm về
kĩ thuật động tác.
Phương pháp chính được sử dụng trong công tác giáo dục là thuyết phục,
động viên nêu gương điển hình của học sinh thực hiện tốt động tác này ngay tại
lớp, lớp bạn, các học sinh có thành tích các kì thi “Hội khỏe Phù Đổng” các
cấp… Đồng thời động viên các em tập luyện thêm ở nhà với phương
pháp là lặp đi lặp lại nhiều lần thì kĩ năng hình thành không bị phá vỡ.
Tôi thường khuyên với học sinh rằng “văn ôn võ luyện”. Muốn hay thì phải
“ôn” muốn “giỏi” thì phải luyện.

9


Ngoài ra giáo viên còn cung cấp thêm cho các em một số hiểu biết về
chuyên môn cần thiết như: Nội dung chạy ngắn khác với nội dung chạy bền như
thế nào? Về cự li (đoạn đường dài – ngắn) và tốc độ (nhanh – chậm).
+ Cự li ngắn gồm cự li: từ 30m đến 400m riêng học sinh THCS thực hiện

cư li từ: 40m đến 60m trong đó cự li 200m đến 400m là cự li thi đấu chính trong
các đại hội thể dục thể thao olympic hoặc “Hội khỏe Phù Đổng” các cấp…
(dành cho cả nam lẫn nữ). Ngoài ra, giáo viên còn nêu cho học sinh rõ chuẩn
kiểm tra thể lực là chạy 30m cho học sinh lớp 6 đến lớp 9.
Bên cạnh các kiến thức cơ bản về chạy ngắn giáo viên còn cung cấp cho học
sinh biện pháp thực hành kĩ thuật động tác bổ trợ cho lực chạy ngắn như:
Kĩ thuật động tác “chạy đạp sau” là động tác rất phức tạp khó hình thành
cho hoàn chỉnh đồng đều các đối tượng học sinh cùng một lúc được. Thường là
1 số em học sinh thực hiện được thao tác này thì bị sai thao tác kia và ngược
lại… cụ thể như:
+ Chân đạp sau duỗi thẳng, thì chân lăng trước không nâng cao được và
ngược lại.
Nếu như chúng ta không suy nghĩ tìm hiểu biện pháp giảng dạy thì học sinh
rất khó hoàn thành được động tác này theo yêu cầu mục tiêu đề ra. Khi học sinh
không hình thành được động tác thì gây cho học sinh tư tưởng mất hứng thú và
chán nản khi tham gia luyện tập.
Sau đây, tôi xin giới thiệu một số biện pháp thực hành mà bản thân đã áp
dụng trong những năm qua đã đạt được hiệu quả đáng kể.
Động tác “chạy đạp sau” là một động tác khó thực hiện. Vì vậy, giáo viên
không nên vội vàng tập theo phương pháp hoàn chỉnh mà chúng ta phải sử dụng
phương pháp phân đoạn – cần phải tập động tác bổ trợ trình tự, từ dễ đến khó để
dần dần hình thành động tác cơ bản như sau:
- Bài tập 1: cho học sinh thực hiện động tác “ép dọc – ép ngang”. Sau đó, ở
tư thế ép dọc giáo viên cho học sinh bật nhảy tại chỗ duỗi chân ở dạng ép dọc
(mặt quay cùng một hướng phía trước, tay nọ chân kia) liên tục 2 lần x 8 nhịp

10


giáo viên có chú ý sửa sai. Khi rơi chạm đất chân trước khuỵu, chân sau duỗi

thẳng (tất cả đều rơi trên nửa bàn chân trước).
Bài tập này giúp học sinh bước đầu có khái niệm được hình dạng và kĩ
thuật động tác “chạy đạp sau”.
- Bài tập 2: cho học sinh “đi bước với” thực hiện động tác này học sinh vừa
đi vừa nâng đùi cao song song mặt đất và chủ động bước bước dài về trước kéo
hông cùng bên về trước, còn chân sau thì duỗi thẳng phía sau (tay nọ chân kia)
trên đường đi giáo viên có kẻ các vạch ngang cách nhau từ 50cm – 60cm trên
một đoạn đường dài khoảng 18 – 20m.
 Bài tập này, giúp học sinh di chuyển đúng hướng, có cảm giác nâng đùi
cao về trước, tạo cảm giác: hình thành chân lăng nâng đùi cao về trước. Tư thế
giữa chân duỗi (đạp sau) và chân trước biên độ rộng để có dạng hình tư thế
“chạy đạp sau”.
- Bài tập 3: Thực hiện động tác nhảy đổi chân trên bật dốc như: dốc của
nhà xe, của thềm khung bông trong sân trường ở dạng chân ép dọc. Động tác
này nhằm tập lực đạp sau, chủ yếu là duỗi thẳng chân sau, nâng đùi chân trước
(chân sau khi chạm đất thì chủ động đạp thật mạnh rồi bật lên giữ cổ chân, đầu
gối thẳng, còn chân trước thì nâng đùi cao về trước (cẳng chân có thể gập lại), 2
tay kết hợp đánh trước, sau mạnh dứt khoát, nhịp nhàng.
- Bài tập 4: Từ tư thế bật tại chỗ có dốc cao các em học sinh chuyển sang
thực hiện trên đoạn đường có vạch kẻ của bài tập 2 nhưng khoản cách lại rộng
hơn từ 1m đến 1m20 thực hiện động tác chạy bước với – đạp mạnh chân sau –
với dài bước nâng đùi về trước có cảm giác như phóng về trước qua một vũng
nước to rồi rơi bằng chân lăng, có phối hợp đánh 2 tay nhịp nhàng (tay nọ chân
kia) dứt khoát (2 tay biên độ rộng sải tay dài về phía trước và mạnh về phía sau)
thực hiện chậm từng bước.
Sau khi học sinh hình thành các động tác lẻ giáo viên chuyển sang nâng cao
kĩ thuật để dẫn đến hoàn chỉnh.
Từ động tác “chạy bước với” giáo viên cho nâng cao hơn là chuyển sang
tốc độ nhanh là chạy – đó là “chạy đạp sau” giáo viên phân tích giống như chạy
11



“bước với” nhưng chân sau vừa chạm đất thì chủ động duỗi thẳng cổ chân, đầu
gối – còn chân trước chủ động nâng đùi về trước kéo hông cùng bên về trước lên
cao.
Sau đó, chân trước lại tiếp tục tiếp đất duổi thẳng, di chuyển liên tục 2 chân
cứ di chuyển lặp đi lặp lại thẳng hướng về trước.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên thường xuyên nhắc nhở, sửa sai cho
học sinh để động tác dần dần được chính xác hơn.
Chú ý: khi thực hiện điều chỉnh thân trên hơi ngã về trước.
- Cần chú trọng quan sát chọn ra những học sinh có kĩ thuật ổn định, chính
xác để nêu gương điển hình như: tuyên dương, chọn làm mẫu củng cố để học
sinh của lớp học hỏi, rút kinh nghiệm.
Ngoài ra, giáo viên còn quan tâm đến những em chậm tiếp thu, nếu nhận
thấy các em có sự tiến bộ, mặt dù là nhỏ thôi thì giáo viên cũng nhận xét tuyên
dương để các em có niềm tin trong tập luyện và cũng có cơ hội để phấn đấu tốt
hơn.
Do thời lượng phân phối trong chương trình ít. Vì vậy giáo viên sắp xếp kế
hoạch đưa vào thực hiện thường xuyên trong phần khởi động chuyên môn cho
nội dung chạy ngắn và nhảy xa.
- Nhắc nhở học sinh luyện tập thêm ở nhà.
- Giáo viên quan tâm đào tạo lực lượng: cán sự, nhóm trưởng, tổ trưởng sao
cho thực hiện đúng, chính xác, đẹp, gương mẫu. Vì đây là lực lượng chính tích
cực hỗ trợ rất nhiều cho việc thành công trong công tác giảng dạy của giáo viên.
Qua vận dụng biện pháp nêu trên bản thân nhận thấy học sinh tiến bộ rõ rệt,
thông qua các bài tập có tính khả thi, hầu như các em đã hình thành được động
tác. Đa số là đúng, chính xác.
Tóm lại, biện pháp phù hợp với lứa tuổi các em học sinh thì học sinh dễ
tiếp thu và vận dụng được.
IV. Hiệu quả của SKKN:

Quan phần nghiên cứu và vận dụng trong những năm qua bản thân thực
hiện đã đạt được một số hiệu quả như sau:
12


- Học sinh tham gia học tập ngày một tích cực, tự giác hơn.
- Yêu thích bộ môn hơn.
- Chất lượng ngày một nâng cao theo chiều hướng đi lên.
- Xếp loại học sinh: số học sinh loại trung bình giảm, loại khá, giỏi tăng.
 Kết quả khảo sát chất lượng bộ môn (chạy đạp sau và chạy 60m).
Chạy đạp sau

Chạy 60m
Đánh giá

Năm

Sỉ số

Chính
xác

Loại

Đúng Được

Giỏi

Khá


Tr.Bình

2009 - 2010 169 (HS)

41
24,3

108
63,9

20
11,8

85
50,3

69
40,8

15
8,9

2010 - 2011 178 (HS)

59
33,1

101
56,7


18
10,1

99
55,6

60
33,7

19
10,7

2011 – 2012
187 (HS)
(HK I)

81
43,1

91
48,7

15
8,0

122
65,3

53
28,3


12
6,4

 Kết quả rèn luyện thể lực chạy 30m.
Năm

2008 – 2009

2009 – 2010

2010 – 2011

Tốt

89,9%

92,7%

95,2%

Đạt

10,1%

7,3%

4,8%

Ghi chú


Loại

C- PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm:
- Khi dạy động tác khó đối với học sinh THCS không được nóng vội mà
phải chịu khó, kiên trì tập theo phương pháp phân đoạn cho phù hợp.
- Làm công tác giáo dục, đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp sư
phạm, phải có trách nhiệm và lương tâm để giúp học sinh không bị hụt hẫn về
tinh thần và chán nản khi thực hiện chưa được.

13


- Yêu cầu giáo viên phải làm mẫu: đúng, chính xác, đẹp để giúp cho các em
có khái niệm ban đầu, đồng thời giúp các em hứng thú luyện tập đạt đến mục
tiêu chuẩn đó.
- Nên cho học sinh hiểu được kiến thức hiểu được ý nghĩa, tác dụng của
việc luyện tập biết vận dụng vào cuộc sống đạt được hiệu quả, đấy thực sự chính
là hạnh phúc khi mình có sức khỏe.
- Phải quan tâm bồi dưỡng đội ngũ: cán sự, tổ trưởng, nhóm trưởng để giúp
giáo viên khi chia nhóm: nhận xét, sửa sai cho bạn.
II. Ý nghĩa của SKKN:
- Các bài tập điền kinh như: chạy, nhảy, ném,… nhất là nội dung “chạy” có
tác dụng rất tốt đến sức khỏe, cho mọi lứa tuổi, đồng thời là phương tiện tập
luyện hữu hiệu, nhằm phát triển thể lực toàn diện, tạo tiền đề nâng cao thành
tích cho các môn thể thao khác.
- Tập đều đặn thường xuyên đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc cải thiện,
nâng cao khả năng chức phận của các hệ thống cơ quan của cơ thể như: hô hấp,
tuần hoàn, cơ bắp…

- Thông qua giáo dục thể chất giáo dục cho các em có tư tưởng và phẩm
chất đạo đức như: Lòng yêu nước, yêu xã hội chủ nghĩa, ý chí kiên cường, dũng
cảm, tinh thần đồng đội, tính tổ chức kỷ luật…
- Chuẩn bị thể lực cho học sinh vận dụng vào cuộc sống: tham gia học tập
tốt, lao động tốt và sau này có đầy đủ thể lực để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
III. Khả năng ứng dụng và triển khai:
- Sáng kiến kinh nghiệm mang tính chất khả thi bất cứ giáo viên giảng dạy
môn giáo dục thể chất từ cấp THCS đến trung học phổ thông, trường chuyên
nghiệp hay chuyên môn nghiệp vụ… đều có thể ứng dụng được.
- Khả năng ứng dụng hiệu quả và mãi mãi về sau theo sự phát triển đi lên
của xã hội chủ nghĩa theo hướng “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước.

14


IV. Những đề nghị, đề xuất:
- Nếu như đường chạy có khả năng làm đúng quy cách thì học sinh luyện
tập sẽ đạt hiệu quả ngày càng phát triển hơn. Nhờ SGD có ý kiến đề xuất lên Bộ
Giáo dục cần quan tâm tích cực có nguồn kinh phí đầu tư cho phần sân tập cho
đúng quy cách đối với tương lai (Như có đường chạy đủ cự li 60 m, 80m, sân
bóng đá).
- Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân đã thực hiện trong những
năm vừa qua. Tuy nhiên, cũng không tránh được những thiếu sót. Rất mong sự
góp ý giúp đỡ nhiệt tình của quý đồng chí, đồng nghiệp để bản thân tôi vận dụng
trong giảng dạy đạt được hiệu quả cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn.

Người thực hiện


Võ Thị Nguyệt Hùng

15


MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................... 1
I. Bối cảnh của đề tài:..................................................................................... 1
II. Lí do chọn đề tài: ....................................................................................... 1
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: ............................................................ 2
IV. Mục đích nghiên cứu:............................................................................... 3
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu....................................................... 3, 4
B- PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 5
I. Cơ sở lí luận................................................................................................ 5
II. Thực trạng của vấn đề:............................................................................... 6
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:.............7, 8, 9, 10, 11, 12
IV. Hiệu quả của SKKN:.............................................................................. 12
C- PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................... 13
I. Những bài học kinh nghiệm: ..................................................................... 13
II. Ý nghĩa của SKKN: ................................................................................. 14
III. Khả năng ứng dụng và triển khai: ........................................................... 14
IV. Những đề nghị, đề xuất: ......................................................................... 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 16

16


17




×